Các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng của ngư dân Kiên Hải là thể hiện ý thức, tư duy của con người với môi trường sống đã và đang gắn bó, đó là môi trường biển. Nhận thức sâu sắc về biển được hình thành trong quá trình con người mưu sinh trên biển, mà tín ngưỡng và những sinh hoạt tín ngưỡng là kết quả được đúc kết từ đó.
Cho đến nay, bản chất, chức năng và các hình thái sinh hoạt tín ngưỡng của ngư dân vùng biển đảo Kiên Hải về cơ bản vẫn không thay đổi. Điều này đã nói lên được tính bền vững của tín ngưỡng với tư cách là một hình thái tư tưởng. Tuy nhiên, với tư cách là một hiện tượng văn hóa, cũng như bao hiện tượng văn hóa khác, đời sống sinh hoạt tín ngưỡng của bất kỳ cộng đồng nào cũng trải qua những biến đổi đậm nhạt khác nhau theo quy luật vận động của văn hóa. Bởi lẽ, tư tưởng bao giờ cũng đi liền với tâm thức, gắn với những thuộc tính bền vững và lan tỏa, được kiểm nghiệm thông qua sự trải nghiệm của các thế hệ trong cộng đồng, được truyền lưu và cố định hóa dưới dạng phong tục tập quán, phản ánh tình cảm tâm linh, phương cách ứng xử của cộng đồng, nên không dễ gì biển đổi nhanh chóng và mạnh mẽ.
1. Đặc trưng sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của ngư dân vùng ven biển đảo Kiên Hải
Các yếu tố quy định cách ứng xử vật chất của nghề biển gồm ba yếu tố: cá, nước và đất, trong đó nước là yếu tố quan trọng nhất đối với ngư dân, bởi không gian sinh tồn và nuôi dưỡng họ là một vùng biển nước mênh mông, không giới hạn và không của riêng ai. Hơn nữa, đời sống sinh hoạt của ngư dân Kiên Hải phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên: mùa gió nồm, ngư dân giong thuyền ra khơi đánh cá; mùa gió bấc, thuyền neo đậu, đợi lúc biển êm, gió nhẹ để ra khơi. Mưa bão khiến họ lo lắng vì biển động, sẽ kéo theo đời sống khó khăn… và hơn hết là tính mạng của người thân đang lênh đênh trên biển. Từ đó chúng ta thấy, mối quan hệ xã hội và ứng xử trong thuyền trên biển là mối quan hệ đồng lòng, hỗ trợ, chứ không phải là “quan hệ chủ tớ”.
Trong nhận thức của ngư dân Kiên Hải, biển không chỉ mang đến cho họ nguồn sống mà còn tiềm ẩn những tai họa đối với con người. Vì thế, con người cần có niềm tin và tín ngưỡng để cầu mong sự phù hộ của các thế lực siêu nhiên. Điều này được thể hiện qua việc ngư dân Kiên Hải thờ các vị thần liên quan đến biển cả. Theo thống kê của chúng tôi, trên cả huyện đảo Kiên Hải có hơn 20 cơ sở thờ tự đều liên quan đến việc cầu mong thần phù hộ cho người đi biển. Các vị thần ở đây luôn giữ vai trò quan trọng và được tôn vinh trong đời sống tinh thần của ngư dân.
Điều này cho thấy, vì gắn với môi trường biển nên các vị thần được cư dân thờ trên đảo luôn hướng đến chức năng độ trì người hành nghề đánh bắt và mưu sinh trên biển. Ngư dân Kiên Hải hiểu rất rõ mặt trái của biển qua những trải nghiệm trực tiếp trong lao động. Sự từng trải đã làm cho họ có cảm thức sâu sắc về vị thế của con người khi đối mặt với biển. Đó là những thiệt hại do biển gây ra như: mất mát tài sản, chìm ghe tàu hay nỗi đau đớn nhất là mất người thân, thân xác tiêu vong ngoài biển. Ranh giới giữa sự sống và cái chết trên biển rất mong manh, nên con người hiểu rõ bổn phận, trách nhiệm của mình trước biển. Do đó, những sinh hoạt tín ngưỡng truyền thống của ngư dân Kiên Hải chính là thờ những vị thần có chức năng hộ mạng và phù trì khi ra khơi như: thờ cá voi, thờ Mẫu và Nữ thần của sông biển, thờ cúng âm linh/ Cô Bác…
1.1. Đặc trưng cụ thể của thờ Thủy thần là cá voi/cá Ông
Tín ngưỡng này không chỉ thỏa mãn đời sống tinh thần mà còn mang đậm giá trị nhân văn, thể hiện cách con người ứng xử trước biển. Cá Ông – thực chất là cá voi – được tôn thờ như một vị thần tượng trưng cho sức mạnh, hộ mạng cho con người. Dân gian thường gọi với nhiều tên khác nhau như: Ông Nam Hải, Ông Chuông, Ông Cậu, Ông Khơi, Ông Lớn... Đây là loài vật linh thiêng, được ngư dân khắp các làng chài ven biển Nam Trung Bộ thờ cúng.
Tục thờ cá Ông giữ vai trò và giá trị lớn trong đời sống tinh thần của ngư dân nơi đây. Trong tâm thức của ngư dân chài lưới, với những người thường lênh đênh trên biển khơi, những khi sóng to, gió lớn, đắm thuyền, mất lưới, mạng sống con người bị đe dọa, hình ảnh cá Ông độ mạng trở thành chỗ dựa tinh thần quý giá, là nơi gửi gắm niềm tin. Niềm tin này, ban đầu là một nhu cầu giúp người ta chịu đựng gian khó, hiểm nguy trong cuộc mưu sinh, dần dần dấu vết của niềm tin hằn sâu vào tiềm thức, trở thành tín ngưỡng dân gian1. Tuy nhiên, người ta tin rằng cá Ông không cứu hết tất cả mọi người mà chỉ cứu những người có duyên với Ông, đó chính là những người ăn ở hiền lành, nhân đức. Bởi vậy, vẫn có trường hợp ngư dân bị đắm thuyền đã hết lời cầu xin, khấn vái nhưng không được cá Ông – thần Nam Hải – cứu giúp. Như vậy, trên cơ sở đặt niềm tin tuyệt đối vào tính thiện của cá Ông, ngư dân vẫn có những lý giải về một số trường hợp lời cầu nguyện chưa được đáp ứng, về việc cá Ông chưa được thiêng hóa như tâm niệm và lòng tin của ngư dân2.
Cùng với khả năng tái sinh, cá voi đã trở thành biểu tượng cho công đức sinh thành. Đây là một dạng tín ngưỡng vật linh, tín ngưỡng nghề nghiệp phản ánh sự may rủi, bất trắc khi ngư dân lênh đênh đánh bắt trên biển. Tín ngưỡng này cùng với những kiêng kỵ của nó, phần nào đã hạn chế bớt tình trạng giảm sút số lượng của loài cá này. Sự thờ cúng cá voi cũng như những loài cá thần khác đã giúp cho môi trường sinh thái biển cân bằng, thể hiện tình yêu biển, yêu thiên nhiên của con người. Sự tôn trọng đó, bắt nguồn từ sự sợ hãi những thế lực bí ẩn từ biển, do vậy cần giữ gìn được không gian thiêng và xây dựng ý thức tôn trọng, giữ gìn biển.
1.2. Thờ Mẫu và Nữ thần biển
Đây là hình thức thờ những vị thần trực tiếp cai quản không gian sinh sống của cộng đồng cư dân này. Người Việt ở Nam Bộ nói chung, Kiên Hải, Kiên Giang tỉnh An Giang nói riêng thờ đa thần, điều này được Trịnh Hoài Đức ghi trong sách Gia Định thành thông chí: Sùng phật, tin đồng bóng, phần nhiều trọng thần đàn bà, như Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa Động, Bà Hoả Tinh, Bà Thuỷ Long3... Đặc biệt, “Nam Bộ chính là vùng đất của các Nữ thần, Mẫu thần”4, thường được thờ dưới danh xưng Bà5.
Trong số nhiều Mẫu thần/ nhiều Bà được thờ phụng, thì thờ Bà Chúa Xứ là một loại hình tín ngưỡng tiêu biểu của người Việt ở Tây Nam Bộ nói chung và Kiên Hải nói riêng. Bên cạnh đó là Bà Chúa Hòn hay Bà Cậu. Các Bà có nguồn gốc khác nhau, có Bà gốc Việt, gốc Chăm, gốc Hoa, nhưng đều được người Việt suy tôn và thờ phụng, gắn với ước vọng về sự bảo trợ của các Bà cho cuộc sống bình an, đủ đầy, dân khang, vật thịnh.
Các hình thức tín ngưỡng thờ Mẫu phản chiếu được quá trình phát triển, đời sống kinh tế, xã hội của cộng đồng ngư dân Kiên Hải. Đó còn là biểu hiện của quá trình giao lưu và dung hợp văn hóa của ngư dân Việt – Hoa, Việt – Khmer, Việt – Chăm, thể hiện tâm thức về những Mẫu có chức năng độ trì bình an nơi biển cả bao la, ban sự thịnh vượng với những ghe cá nặng đầy khoang.
Chính vì cuộc sống đối mặt với biển cả, với bão tố và đứng trước biển con người luôn nhỏ bé, nguy hiểm luôn rình rập nên việc thờ cúng Âm linh cũng khá phổ biến ở Kiên Hải, đó cũng là điều dễ hiểu. Có thể nói, tục thờ cúng Âm linh, Cô hồn là một lễ tục độc đáo, mang nhiều giá trị sâu sắc: giá trị nhân văn, giá trị giáo dục, đạo đức, giá trị truyền thống, giá trị cố kết cộng đồng… Đối với ngư dân Kiên Hải, việc đến chùa không chỉ để nguyện hương, cầu mong cho gia đình bình an mà còn nguyện cho bá gia, bá tánh, xứ sở được mưa thuận gió hòa, làm ăn suôn sẻ. Bên cạnh đó, tục cúng âm hồn cũng là dịp để họ bày tỏ lòng biết ơn đến những chiến sĩ, đồng bào đã khuất phù hộ độ trì cho họ. Ý nghĩa hơn đó là sự cảm thông sâu sắc giữa người sống và người sống, giữa người đang sống với người đã chết.
1.3. Thờ vị thần gắn bó với cư dân
Ngoài việc thờ những vị thần biển, ngư dân Kiên Hải còn thờ những vị thần gắn bó với làng xóm, gia đình và dòng tộc như Thành Hoàng, Bà Chúa Xứ và anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Nhu cầu về cuộc sống bình an của mỗi gia đình trong mỗi hòn là nhu cầu thường trực và cũng là khát vọng thiêng liêng, mà để thỏa mãn không chỉ có ra khơi vào lộng là đủ. Do đó các vị thần trên bờ cũng đã được thờ cúng chu đáo, kỹ lưỡng không kém các vị thần biển, nhằm tri ân sự phù hộ độ trì cho gia đình và làng xóm được bình an.
1.4. Kiêng kỵ trong tín ngưỡng và sinh hoạt tín ngưỡng
Song hành với thờ phụng là kiêng kỵ. Theo quan niệm của họ thì “có thờ có thiêng, có kiêng có lành” nên ngư dân thường có những kiêng kỵ sau:
Đối với ngư dân, ghe/ tàu là phương tiện cần thiết, nó không chỉ là phương tiện đánh bắt mà còn là nơi cư trú của họ trên biển. Vì vậy, việc đóng mới hay sửa chữa cũng phải được coi ngày cúng kiếng đầy đủ6.
Sinh hoạt tín ngưỡng có vai trò quan trọng và chi phối đến các phong tục, tập quán của họ. Khởi đầu của mỗi chuyến ra khơi, hầu hết các chủ ghe tàu thuyền viên đều thắp hương khấn vái trước miếu Bà và luôn đặt bàn thờ Bà – Cậu ở trước mũi ghe cùng với Phật Bà Quan Âm. Họ rất coi trọng việc thờ cá voi, vì vậy nhiều người, đặc biệt là những người làm nghề chài lưới, kiêng gọi tên cá voi, sợ phạm húy, xúc phạm đến thần mà gọi là Ông, Đức Ông hay Đức Linh Ông… bộc lộ sự kính cẩn, linh thiêng.
Với những người đi biển, con thuyền và những kiêng kỵ liên quan đến nó thường được ngư dân quan tâm. “Trong kiêng kỵ của người Việt đi biển thì kiêng kỵ liên quan đến con thuyền được đặc biệt coi trọng. Nhiều nơi có phong tục vẽ mắt thuyền. Người ta cho rằng con mắt sẽ giúp thuyền tránh quái vật làm hại, giúp cho ngư dân tìm được luồng cá và giúp cho bạn hàng tìm được bến bờ nhiều tài lộc”7.
Mũi thuyền được xem là vị trí trang trọng và linh thiêng, có hương án cúng thần linh, có hai “mắt thần” dẫn đường nên cấm phụ nữ ngồi trên mũi thuyền tiểu tiện xuống nước, vì như vậy sẽ không đánh được cá. Nếu biết người đó buổi chiều đi biển thì không được phép hỏi “Đi biển hả”, người bị hỏi phải về mua trái cây, nhang đèn để cúng giải xui.
Ngư dân ở đây còn có truyền thống sợ sườn thuyền bị đóng đinh (yểm đinh) vì cho rằng như vậy sẽ hết đường làm ăn, có khi phải bỏ nghề. Người ngồi ở mui thuyền chỉ được hướng ra phía trước mà không được quay lại sau, việc làm đó đồng nghĩa với việc tiếc nuối, buồn bã, vĩnh biệt đất liền…
Trong đời sống sinh hoạt kiêng dùng những từ ngữ liên quan đến tai họa nghề như: lật, chìm, mà thay thế bằng những từ khác. Khi đi biển chủ tàu kỵ nhất là đánh nhau trên tàu, nếu lỡ có xảy ra xô xát, chủ phải cúng kiếng long trọng để tẩy rửa những xui rủi. Trên biển khi làm cá hoặc làm nghề, họ không vứt bừa bãi đầu cá, xương cá và ruột cá xuống biển, đặc biệt rất kỵ việc đánh rơi dao xuống biển, vì như thế có nghĩa là sẽ cắt đứt nguồn cá, cá sẽ không còn tụ tập để họ đánh bắt nữa. Khi về đến bến, lúc chuyển cá lên bờ chủ ghe phải luôn canh chừng kẻ xấu có thể lấy một con cá đem chôn, như vậy, kẻ đó đã đem chôn đi tài lộc của nhà mình.
Trong ăn uống, ngư dân kiêng kỵ lật mình cá khi ăn hết phần bên kia bởi họ quan niệm: lật có nghĩa là lật thuyền cũng như việc kiêng úp. Muốn khen cá béo phải nói là cá siêng và cũng không được nói là ăn cá ngán quá vì cho rằng nói thế thần linh sẽ không ban cho cá nữa.
Ngoài ra, ngư dân trước khi ra biển không được ăn đồ nướng vì họ sợ thuyền bị cháy. Người dân trên đảo còn kiêng hớt bọt khi nấu cơm vì cho rằng làm vậy khi đi biển sẽ gặp sóng to, gió lớn…
Tóm lại, những điều kiêng kỵ cả trên bờ lẫn dưới biển đều để giữ gìn không gian thiêng, bảo đảm phương tiện hành nghề không bị trục trặc và hơn hết là tránh xúc phạm đến đối tượng linh thiêng. Những lời nói, hành động của ngư dân trên đảo vừa thực tiễn lại vừa hư ảo nhưng mục đích không ngoài việc cầu mong có cuộc sống yên lành và phát triển.
2. Sự biến đổi sinh hoạt tín ngưỡng của ngư dân Kiên Hải hiện nay
2.1. Biến đổi về quy mô và thời gian của nơi thờ phụng
Hầu như tất cả những lễ thức ngư nghiệp tồn tại trong đời sống cộng đồng của ngư dân biển đảo Kiên Hải đều có những thay đổi nhất định về thời gian. Khung thời gian của các nghi lễ cũng đã thay đổi theo hướng giản tiện. Do biến đổi khí hậu cũng như sự thay đổi về điều kiện kinh tế thị trường, những cơ sở thờ tự hiện nay đã thay đổi nhiều so với trước kia, cả về vị trí lẫn không gian.
Trước kia, ngư dân trên các hòn thưa thớt, đời sống còn nhiều khó khăn, vì vậy các cơ sở thờ phụng cá voi cũng như thờ Mẫu hay Nữ thần cũng chỉ là những ngôi miếu nhỏ, nằm ngay ở ven biển. Có những nơi nếu không để ý kỹ thì không thể biết được đâu là miếu, đâu là những ngôi mộ của ngư dân trên hòn, như miếu Bà Chúa Thượng Động, miếu Bà Cậu hay dinh Ông An Sơn.
Tuy nhiên, trong khoảng 10 năm trở lại đây, do điều kiện lao động được cải thiện, trình độ khoa học kỹ thuật được đưa vào ứng dụng trong nghề biển và giao thông trên biển cũng thuận lợi, nên đời sống của ngư dân cũng thay đổi. Không còn nhiều ngôi nhà lá dừa tạm bợ mà thay vào đó là những ngôi nhà bê tông cốt thép, ngôi nhà tầng cao to, rộng rãi và vững chắc hơn. Khi cuộc sống được nâng lên thì niềm tin của những ngư dân ở đây cũng tăng lên, họ tin rằng đã được Ông và Bà độ trì, ban cho cuộc sống ấm no, đủ đầy. Chính vì thế, họ không hề tiếc đóng góp công của để làm mới những nơi mình gửi gắm niềm tin của chính mình và mọi người trong hòn vào đó. Chẳng hạn như: miếu Bà Cố Chủ ở Lại Sơn, năm 20118 đã được xây lại khang trang, rộng rãi, thoáng mát bằng nguồn kinh phí của chính ngư dân trên hòn, hay miếu Bà Chúa Xứ (Bà Chúa Hòn) ở An Sơn cũng thế: ngôi miếu hiện giờ tọa lạc trên không gian thoáng đãng và khang trang bề thế (có lẽ đây là ngôi miếu thờ Bà Chúa Xứ rộng và khang trang nhất trong tất cả những miếu thờ Bà trên hòn), miếu Bà Chúa Thượng cũng vậy… Nhìn chung, tất cả những cơ sở thờ tự trước kia của ngư dân nay đã được sửa sang, làm mới khang trang hơn rất nhiều bằng chính nguồn ngân sách của ngư dân trong hòn đóng góp.
Bên cạnh đó, một số cơ sở thờ phụng đã được dời vị trí so với trước, một phần do biến đổi của khí hậu, một phần do quan niệm của ngư dân về vị trí đó không còn thuận lợi cho việc cúng kiếng hằng năm. Vì thế, những ngôi miếu này đã được dời tới vị trí khác, ví dụ: dinh Ông ở An Sơn đã xây mới trên vị trí cao hơn, thuận lợi hơn so với miếu cũ hay miếu Bà Chúa Thượng cũng được ngư dân xây mới.
Chi tiết này phần nào cho thấy đối với ngư dân nơi đây, họ quan niệm khi cuộc sống được nâng lên, điều đầu tiên họ nghĩ đến là nhờ ơn và phúc của Thần, của Mẫu. Như vậy, niềm tin vào cuộc sống cũng như niềm tin vào thế giới thiêng lại càng được củng cố hơn. Đó chính là cơ sở làm biến đổi cơ sở thờ phụng theo chiều hướng tích cực trong xã hội hiện đại.
Bên cạnh thay đổi về không gian nói trên thì cũng có sự thay đổi về thời gian thực hành sinh hoạt tín ngưỡng. Chẳng hạn như tại miếu Bà Chúa Xứ và Bà Mã Châu ở Lại Sơn, thời gian diễn ra lễ vía Bà đã thay đổi so với trước kia. Theo ngư dân kể lại, trước kia thời gian cúng Bà vào tháng 10, nhưng đã gần 10 năm nay thời gian cúng Bà đã được chuyển về tháng 2 âm lịch9. Cũng tương tự như thế, ngày cúng cá voi tại dinh Ông ở Bãi Bấc, Lại Sơn cũng đã thay đổi từ tháng 10 sang tháng Giêng.
2.2. Sự thay đổi về tập quán kiêng kỵ
Đây là lĩnh vực thể hiện sự biển đổi khá rõ trong sinh hoạt đời sống tín ngưỡng của cư dân Kiên Hải. Nếu trước đây, ngư dân kiêng không cho phụ nữ lên tàu, thì nay các bà, các chị có thể lên tàu vá lưới, vận chuyển cá. Tập tục kiêng gần vợ trước mỗi chuyến ra khơi cũng không còn phổ biến, thậm chí còn bị xóa bỏ ở các hòn. Tục kiêng gặp đàn bà, kiêng quay trở về nhà khi quên một vật dụng trước khi ra khơi cũng đã không còn khắt khe như trước, nhất là trong quan niệm và tư tưởng của lớp thanh niên và trung niên hiện nay.
Trong những ngày ra khơi, việc thắp hương, cúng trước dinh Ông hay miếu Bà cũng không còn được duy trì thường xuyên như thời cha ông. Khi gặp thất bát trong làm ăn, việc mời thầy pháp, cúng kiếng, giải hạn đã phần nào không còn nữa.
2.3. Sự thay đổi về các nghi lễ phong tục trong sinh hoạt tín ngưỡng
Cùng với sự thay đổi về một số tục kiêng kỵ nói trên, là một số thay đổi trong thực hành nghi lễ phong tục của ngư dân nơi đây.
Tín ngưỡng thờ cá voi đã có một vài thay đổi. Nghi thức cúng Ông thể hiện sự tùy nghi đã lược bớt rất nhiều. Trước đây, khi gặp Ông Lụy phải để tang 3 năm nhưng bây giờ chỉ sau 100 ngày là ngư dân xin “xả tang” để có thể tiếp tục ra khơi.
Các tục lệ đối với người “được Ông” như: trở tang 100 ngày, không được gần vợ trong thời gian cử tang Ông cũng đã biến đổi, nếu không muốn nói là không còn nữa. Ngày nay, người trở tang Ông, sau khi an táng xong, sẽ thỉnh khăn vào dinh Ông chứ không đội đầu đủ 100 ngày như xưa và sau mở cửa mả thì không phải kiêng kỵ nhiều.
Trong phần hội cũng đã có một số biến đổi. Lễ hội không kéo dài ngày và linh đình bằng xưa. Trong hội đã xuất hiện những yếu tố văn hóa hiện đại, như: trong lễ vật cúng ông, đã có những loại rượu ngoại “rượu Tây”; bánh trái cũng đa dạng, không còn đơn giản “cây nhà lá vườn” như trước. Trong diễn xướng đờn ca tài tử, không chỉ đơn thuần là những bài đờn về biển mà ngày nay còn xen lẫn cả nhạc hiện đại (ca ngợi tình yêu quê hương, đất nước). Bên cạnh các trò chơi dân gian như kéo co, đi cà kheo, chọi gà… thì nay có thêm các trò chơi mới như thi bóng chuyền, bóng đá, thi chạy việt dã của các thanh thiếu niên; tổ chức hội chợ ẩm thực (mang yếu tố quảng bá và thương mại hóa lễ hội). Các yếu tố này có thể xem như là biểu hiện của sự thay đổi để phù hợp với cuộc sống hiện đại. Tuy nhiên, nó cũng đã ít nhiều làm lu mờ và suy giảm tính thiêng của lễ hội cầu an, cầu mùa bởi chính sự gia nhập của các yếu tố thời văn minh công nghiệp. Gần đây, vì lý do xăng dầu tăng cao, trong lễ hội Nghinh Ông ở Hòn Tre, số lượng ghe thuyền tham gia Nghinh Ông có phần giảm sút hơn trước. Còn ở Lại Sơn, một số ghe thuyền đánh bắt ở các ngư trường khác không trở về đúng ngày lễ vì lý do xa, bận đánh bắt, thậm chí không tham gia lễ hội Nghinh Ông tại nơi mà họ đánh bắt khi lễ hội diễn ra.
Các nghi thức của tục thờ Mẫu và Nữ thần, Âm linh và Tiền hiền cũng biến đổi nhanh chậm khác nhau do đời sống kinh tế - xã hội - văn hóa thời này đã khác thời xưa, song, nhìn chung vẫn mang tính bền vững. Một số tình tiết rườm rà đã được tinh giảm. Vật phẩm cúng Bà giản dị hơn những đồ cổ truyền xưa nhưng lại phong phú các vật phẩm hiện đại hơn. Chẳng hạn, trong lễ cúng Bà trước kia, ngư dân thường cúng xiêm áo, một dấu hiệu đặc trưng trong trang phục của Bà, thì nay, thay vì mua hiện vật, họ cúng bằng tiền và dường như cái gì cũng được quy ra tiền để cúng Bà.
Xưa kia, trong tất cả các nghi lễ tế Bà không thể thiếu được heo trắng để làm lễ vật dâng Bà. Ngày nay, để thuận tiện, một số nơi ngư dân đã thay heo trắng bằng heo quay và được đặt mua sẵn, như lễ vía Bà Chúa Xứ ở Hòn Tre, An Sơn chẳng hạn.
Tóm lại, nhìn một cách tổng thể, chúng ta thấy các tín ngưỡng và sinh hoạt tín ngưỡng của ngư dân Kiên Hải đã có sự vận động và biến đổi so với truyền thống, bởi lẽ xã hội đã thay đổi. Tuy nhiên, trong tương lai, các tín ngưỡng và sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng vẫn sẽ còn sức sống, vẫn phát triển như một dạng thức văn hóa - xã hội, một biện pháp tâm lý trấn an tinh thần cho con người được bình an khi đối mặt với khó khăn, rủi ro và hiểm nguy luôn rình rập trong cuộc sống mưu sinh trên biển.
2.4. Sự du nhập các sắc thái văn hóa mới trong tục thờ và thực hành nghi lễ
Trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay của tỉnh Kiên Giang nói chung cũng như của huyện đảo nói riêng, các hình thái sinh hoạt tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân biển đảo đã có nhiều đổi thay và được coi là những hiện tượng xã hội hiện đại. Bởi lẽ, bên cạnh những giá trị truyền thống, thì nay đã có sự xuất hiện của những sắc thái văn hóa mới trong các hình thái tín ngưỡng và thực hành tín ngưỡng của ngư dân.
Hiện nay, khai thác biển và kinh doanh du lịch biển đang là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của huyện đảo Kiên Hải và đó là chiến lược phát triển kinh tế của huyện. Đưa các giá trị văn hóa truyền thống của hòn vào trong hoạt động du lịch, nhằm quảng bá và giới thiệu đến mọi người. Sự phát triển của nó làm cho một số hình thức sinh hoạt tín ngưỡng của ngư dân biển đảo sẽ luôn sống lại, song mặt khác khó mà bảo toàn lành lặn bởi mục đích thực dụng của nó. Tại một số lễ hội đã xuất hiện hiện tượng “thương mại hóa”. Huyện đảo Kiên Hải, có thể nói, là vùng còn giữ được nhiều tính nguyên bản của các hình thái sinh hoạt tín ngưỡng dân gian, song thực tế vài năm trở lại đây cũng đã xuất hiện hiện tượng “thương mại hóa” trong các lễ hội. Đó là sự du nhập các trò chơi hiện đại mang tính lợi nhuận như trò xóc đĩa, quay ô may mắn… tại lễ hội Nghinh Ông ở Hòn Tre, Lại Sơn, lễ vía Bà Chúa Xứ, lễ cúng Bà Chúa Hòn.
Xưa kia, cư dân trên các hòn huyện đảo Kiên Hải sống chủ yếu bằng cách bám biển, còn một bộ phận nhỏ làm nông nghiệp và các nghề liên quan tới biển. Vì thế, niềm tin của họ vào các Mẫu cũng như thần Nam Hải rất mãnh liệt. Họ đến với các cơ sở thờ tự nhằm cầu mong bình an cho người thân và cư dân trên hòn của mình… Ngày nay, bên cạnh nghề biển, đã có nhiều lớp cư dân ra lập nghiệp và sinh sống bằng những nghề buôn bán, dịch vụ, vì thế, khi đến với các lễ hội, bộ phận này không còn đơn thuần là cầu bình an cho người thân đang lênh đênh trên biển mà là cầu cho việc làm ăn buôn bán của chính bản thân mình. Hiện nay đã manh nha hiện tượng “buôn thần bán thánh” của lớp cư dân mới sinh sống trên các hòn đảo của huyện.
Sự khuôn ép các sản phẩm văn hóa tín ngưỡng truyền thống biển đảo để phục vụ kinh tế du lịch đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng ngư dân. Bên cạnh đó, việc mở mang các ấp ven biển, các bãi biển để làm du lịch đã làm biến dạng các cơ sở thờ tự tín ngưỡng của họ. Thực tế cho thấy, mặc dù các cơ sở thờ tự trên hòn đã được ngư dân sửa sang, khang trang hơn rất nhiều so với trước kia, nhưng khi đi thực tế, nếu không nhìn kỹ và hỏi thăm đường thì chúng ta khó mà tìm ra được các cơ sở thờ tự này, vì hầu hết nằm khuất trong nhà dân.
3. Kết luận
Đối với ngư dân vùng biển đảo Kiên Hải, chừng nào còn bám biển thì các giá trị truyền thống của tín ngưỡng vẫn sẽ còn duy trì và phát triển để thỏa mãn nhu cầu văn hóa tâm linh. Vì vậy, các cuộc cúng tế theo chu kỳ vẫn diễn ra cho người ra khơi cũng như cho người ở lại, cứ thế tiếp diễn theo hình thức duy trì, trao truyền một cách tự nhiên. Biển vẫn ngày càng biến động bất thường, buộc con người sẽ phải chống đỡ quyết liệt hơn, nhưng người chưa “thắng” biển. Do đó, người và Thần, Cô Bác tất cả sẽ còn quan hệ với nhau; điều này có nghĩa là sinh hoạt tín ngưỡng của ngư dân vùng biển đảo Kiên Hải nói riêng và cư dân biển nói chung vẫn sẽ cùng chung sống với môi trường kinh tế - xã hội - văn hóa trong bối cảnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa hiện nay.
Chú thích:
1 Nguyễn Thanh Lợi (2006), Tục thờ cá Ông ở ven biển Nam Trung Bộ, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 4, tr. 52-60.
2 Lê Thế Vịnh (2015), Phong tục thờ cúng cá Ông, NXB. Khoa học xã hội, tr. 46.
3 Trịnh Hoài Đức (Lý Việt Dũng dịch và chú giải, 2005), Gia Định thành thông chí, NXB. Tổng hợp Đồng Nai, tr. 180.
4 Ngô Đức Thịnh (2010), Lên đồng hành trình của thần linh và thân phận, NXB. Thế giới, tr. 158.
5 Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam (2008), Văn hoá biển miền Trung và văn hoá biển Tây Nam Bộ, NXB. Từ điển Bách khoa.
6 Tư liệu khảo sát thực địa tại Hòn Sơn, Nam Du – Kiên Hải tháng 5&6/2023.
7 Nguyễn Hải Lê (2009), Biển trong văn hóa người Việt, NXB. Quân đội nhân dân.
8 Tư liệu khảo sát thực địa tại Hòn Sơn, Nam Du – Kiên Hải tháng 4/2014.
9 Tư liệu khảo sát thực địa tại Hòn Sơn, Nam Du – Kiên Hải tháng 5&6/2023.