NGHỆ THUẬT MÚA MƯỜNG QUA XU HƯỚNG SÁNG TÁC MÚA DÂN GIAN DÂN TỘC

Nghệ thuật múa Mường độc đáo, đặc sắc, phản ánh đậm nét văn hóa của người Mường. Một số tác phẩm múa được các nghệ sĩ, biên đạo sáng tác, dàn dựng, khai thác chất liệu múa dân gian của người Mường đưa lên sân khấu chuyên nghiệp rất thành công, để lại ấn tượng sâu sắc. Bài viết tìm hiểu thủ pháp sáng tác múa Mường thông qua phân tích một số tác phẩm tiêu biểu để thấy những giá trị của nghệ thuật múa Mường qua xu hướng sáng tác múa dân gian dân tộc.

   Nghệ thuật múa cổ truyền của người Mường do cộng đồng người nông dân sáng tạo ra, lưu truyền từ đời này sang đời khác. Nền nghệ thuật đó phản ánh, tái hiện cuộc sống với tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của người dân, bằng phương thức tư duy của người Mường. Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy nghệ thuật múa Mường đa dạng, đặc sắc. Nội dung các điệu múa phản ánh mối quan hệ giữa người với người, giữa người với thế giới xung quanh, thế giới hữu hình và thế giới vô hình; thể hiện những phong tục tập quán, thực hiện lễ thức liên quan đến nhân sinh.

   Hiện nay có hai xu hướng cơ bản trong sáng tác múa Mường là xu hướng sáng tác múa dân gian dân tộc và xu hướng sáng tác kết hợp múa dân gian với múa hiện đại. Hai xu hướng này có sự tác động tích cực, tôn vinh được giá trị văn hóa, phong tục tập quán của người Mường Hòa Bình. Các nhà biên đạo khi sáng tác các tác phẩm múa Mường chủ yếu đi theo hai xu hướng này. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi tập trung vào xu hướng sáng tác múa dân gian dân tộc.

   Trong sáng tác múa ở Việt Nam, xu hướng sáng tác múa dân gian dân tộc xuất hiện ở giai đoạn đầu tiên và đã tồn tại một thời gian khá lâu trong sáng tác tác phẩm múa chuyên nghiệp. Mặc dù nghệ thuật xây dựng tác phẩm còn đơn giản nhưng xu hướng này đã để lại những giá trị nghệ thuật, những bài học kinh nghiệm cho các giai đoạn tiếp theo. Những giá trị đó được khẳng định ở một số điểm như: có nhiều tác phẩm múa có giá trị nghệ thuật, phản ánh chân thực, rõ nét bản sắc múa dân gian dân tộc; các biên đạo đã dành hết tâm sức cho công việc sưu tầm múa dân gian nên một số tác phẩm đã có khẳng định vị trí và có sức sống lâu dài. Vì thế, ở một góc độ nào đó, nó còn mang ý nghĩa to lớn đối với công cuộc phát huy và gìn giữ di sản múa Việt Nam.

   Ở xu hướng sáng tác này, các động tác múa dân gian được biên đạo đưa vào trong tác phẩm múa chuyên nghiệp với trạng thái nguyên dạng. Điều đó có nghĩa là các động tác được sưu tầm như thế nào thì biên đạo đưa nguyên như thế vào trong tác phẩm của mình. Biên đạo chỉ làm công việc chắp nối các động tác với nhau một cách khoa học theo cảm nhận riêng của tác giả. Xu hướng này được hình thành, phát triển vào những năm 50 của thế kỷ trước. Các biên đạo sáng tạo gần như theo “bản năng tự nhiên” vì họ chưa hề được đào tạo hoặc trang bị những kỹ năng sáng tác múa như các biên đạo hiện nay.

   Đây là giai đoạn các biên đạo đã sử dụng múa dân gian mà họ sưu tầm được. Có thể nói, nhiều tác phẩm chỉ là chắp nối của những chất liệu múa dân gian lại với nhau. Biên đạo quan tâm và thực hiện những thao tác, đó là: đội hình và tiết tấu của các động tác múa, tổ hợp múa, đoạn múa. Đội hình múa, tuyến múa là thành phần cơ bản trong quá trình diễn biến tác phẩm. Qua nghiên cứu, phân tích, những đội hình cơ bản được sử dụng nhiều nhất trong giai đoạn này là đội hình hàng dọc, hàng ngang và vòng tròn; tiết tấu phụ thuộc vào cấu trúc của tác phẩm đó là thể hai đoạn đơn và ba đoạn đơn.

   Các mảng đề tài trong các tác phẩm thuộc xu hướng múa này được các nhà biên đạo sử dụng thường rất mộc mạc, đơn giản, gắn với thiên nhiên, con người, đời sống thường nhật, sinh hoạt lao động sản xuất.

   Để làm rõ giá trị của xu hướng sáng tác múa dân gian dân tộc đã nói ở phần trên, chúng tôi xin dẫn một vài tác phẩm múa Mường sau:

   Khảo sát tác phẩm múa Tĩnh Mỡi của biên đạo Bạch Công Khánh sáng tác và dàn dựng tại Đoàn Nghệ thuật tỉnh Hòa Bình, chúng tôi nhận thấy, tuy múa Mường về chất liệu và ngôn ngữ múa chưa phổ biến như múa của các dân tộc khác nhưng khi xem tác phẩm, chúng tôi thấy xu hướng sáng tác múa dân gian dân tộc được khắc họa một cách đậm đà, rõ nét. Nội dung, tư tưởng nói về đời sống lao động của người dân tộc Mường. Biên đạo sử dụng chiếc quạt để gửi gắm những tâm tư, tình cảm trong tâm thức của người phụ nữ Mường muốn hướng tới giá trị đạo đức với những khát vọng vươn lên của người dân lao động. Biên đạo Bạch Công Khánh hầu như chủ yếu sử dụng các động tác múa của múa dân gian Mường. Có thể nói, đây là tác phẩm đại diện cho múa dân gian Mường theo xu hướng sáng tác múa dân gian dân tộc mà chúng tôi đã đưa ra.

   Tìm hiểu tác phẩm múa Vũ điệu bông Cơ Lăng của biên đạo Phan Thanh Hoàn có thể thấy đây là một tác phẩm được phát triển từ chất liệu múa Hoa Bông, một điệu múa cổ của người Mường Hòa Bình. Tác phẩm được sáng tác theo xu hướng múa dân gian dân tộc. Biên đạo đã xây dựng hình tượng nhân vật trong tác phẩm này là những bông hoa Cơ Lăng thông qua các tạo hình. Các tuyến đội hình chủ yếu là tuyến vòng tròn, hàng ngang, vòng cung như trong đời sống người Mường vẫn thường múa. Cấu trúc được chia làm ba đoạn và có tính phát triển lên cao trào. Sự sáng tạo độc đáo chính là đạo cụ được gắn vào bàn tay để mô phỏng một bông hoa Cơ Lăng xinh đẹp, từ đó làm rõ hơn nội dung tư tưởng của tác phẩm này. Tuy có yếu tố sáng tạo như vậy nhưng nhìn chung tác phẩm vẫn giữ chất liệu múa dân gian dân tộc Mường một cách rõ nét.

   Tác phẩm múa Gia bảo là một trong những tác phẩm múa Mường do biên đạo Bạch Công Khánh (Đoàn trưởng Đoàn Nghệ thuật các dân tộc tỉnh Hòa Bình) sáng tác, dàn dựng, đã đoạt Huy chương Vàng tại Liên hoan Ca múa nhạc chuyên nghiệp toàn quốc năm 2014 (đợt 2) tại Đắk Lắk. Với hình thức múa Trio, biên đạo Bạch Công Khánh đã khai thác mảng đề tài một cách cụ thể, khắc họa rõ nét tình yêu thương, khát vọng về đời sống sinh hoạt lao động của người dân tộc Mường ở nhiều góc cạnh với ý tưởng giàu tính nhân văn về quan niệm trong tín ngưỡng phong tục, mà đặc trưng nhất của tộc người Mường là văn hóa cồng chiêng. Theo quan niệm của người Mường, con người và vạn vật đều có linh hồn. Các linh hồn vạn vật cũng có nhu cầu đi lại, ăn ở sinh hoạt như con người. Đối với người Mường, chiêng là một vật thiêng, là tài sản vô giá trong đời sống tinh thần, chứa đựng trong đó dấu ấn của lao động, chiến đấu, tồn tại và gắn bó theo suốt vòng đời mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi bản làng. Tác phẩm là sự phản ánh tâm tư, tình cảm, tinh thần, trách nhiệm của mỗi thành viên trong việc bảo vệ, gìn giữ tài sản vô giá của gia đình, của dân tộc. Đó chính là điều mà biên đạo muốn gửi gắm tới người xem.

   Biên đạo đã xây dựng kết cấu ở tác phẩm này có thời lượng 6 phút 30 giây và được chia thành ba đoạn:

   Đoạn 1 - Gìn giữ: Một đôi vợ chồng gia chủ đang chăm chút cho chiếc chiêng của gia đình mình, lắng nghe âm thanh của chiêng và tâm hồn họ như được tiếng chiêng xui khiến, vỗ về. Với chiếc dùi trên tay, mỗi lần đánh vào chiêng, họ như muốn xua tan đi tất cả những khó khăn, âu lo, phiền toái trong cuộc sống. Niềm hạnh phúc, tự hào và những giây phút bình yên của họ khi gia đình mình có được chiếc chiêng đó.

   Đoạn 2 - Giáo dục: Chiêng từ từ mở ra, một bé trai xuất hiện và chiếc chiêng lặng lẽ đưa nôi, chiêng hát ru cho đứa bé ngủ và chiêng cũng là nơi đánh thức cậu bé thức dậy. Cảm nhận đầu tiên của đứa trẻ là tiếng chiêng, được chiêng gần gũi, chở che. Khi được cha mẹ dìu dắt, đứa bé đã khôn lớn, mạnh dạn hơn, tự mình cầm chiếc dùi đánh chiêng và cảm nhận được âm thanh vang lên, để rồi cậu thể hiện sự yêu quý, trân trọng chiếc chiêng đó.

   Đoạn 3 - Trưởng thành: Bởi chiêng là một vật thiêng trong cuộc sống tinh thần của người dân tộc Mường nên người cha và người mẹ đã thay nhau dạy cho con trai mình sự tôn trọng, yêu quý chiếc chiêng, cách sử dụng, gìn giữ, bảo vệ chiếc chiêng cho đến khi cậu ấy trưởng thành. Mặc cho cha mẹ truyền dạy nhưng đứa con lại thể hiện sự chán nản và không muốn tiếp nhận những điều mà cha mẹ cậu tập đánh chiêng. Người con trai trưởng thành ấy đã đùn đẩy trách nhiệm cho cha mẹ của mình. Sau một hồi vùng vằng và biết được những điều từ cha mẹ mình bày tỏ, người con trai đã cảm thấy có lỗi với nỗi vất vả của cha mẹ suốt một đời gìn giữ và bảo vệ chiêng. Từ đó người con trai đã cảm nhận được ý nghĩa thiêng liêng của chiếc chiêng đối với gia đình, với dân tộc mình nên cậu đã mạnh dạn tiến đến dàn chiêng, tự mình tập làm chủ được cả âm thanh và sự vận động của chiêng trước niềm vui mừng khôn xiết của người cha, người mẹ.

   Với kết cấu ba đoạn của tác phẩm, tác giả như đang kể một câu chuyện diễn ra và hiện diện trên sân khấu. Tác phẩm Gia bảo được kết cấu chặt chẽ, khoa học, có đầy đủ cấu trúc mở màn - cao trào - kết thúc, được biên đạo áp dụng xu hướng sáng tác lấy chất liệu múa dân gian dân tộc để làm nền tảng và cảm hứng cho quá trình sáng tạo tác phẩm.

   Bằng chính sự tìm tòi, sáng tạo ngôn ngữ biểu hiện mang đậm sắc thái của múa dân gian dân tộc Mường, biên đạo Bạch Công Khánh đã sáng tạo ngôn ngữ múa theo xu hướng múa dân gian dân tộc, lấy chất liệu múa dân gian Mường làm ngôn ngữ chính; những động tác sinh hoạt lao động được khai thác từ cuộc sống của người Mường để tạo thành ngôn ngữ múa vừa mang đậm sắc thái múa Mường vừa mang tính khoa học, hợp lý. Các động tác múa Mường mà biên đạo sử dụng trong tác phẩm đó là: múa nâng bông, múa bê cỗ, múa đọ hoa, múa phát nương và các luật động đánh chiêng của người Mường. Cụ thể, ngay từ phần mở màn của tác phẩm, với ý tưởng là miêu tả cảnh một đôi vợ chồng người Mường bày tỏ sự trân trọng với chiếc chiêng, bằng luật động như xoa tay vào mặt chiêng, biểu hiện tình cảm vỗ về là hình thức ngôn ngữ biểu hiện và mô phỏng thông qua diễn viên. Trong phần mở đầu này, biên đạo sử dụng các động tác bê, đỡ kết hợp với phần tay múa là chủ yếu. Sự sáng tạo, kết hợp này rất hợp lý và tạo nên sức hấp dẫn hơn cho tác phẩm; khi xem, chúng ta vẫn nhận ra được chất liệu múa Mường nhưng đâu đó đã mang hơi thở mới. Khác với phần mở màn thì trong đoạn 2 của tác phẩm, khi chiếc chiêng được mở ra, lúc này có sự xuất hiện của một cậu con trai đang nằm ngủ, cho đến đoạn người cha người mẹ cùng cậu con trai thực hiện các tổ hợp múa. Điều đáng nói ở đây là biên đạo Bạch Công Khánh không đơn thuần chỉ chọn lọc và ghép nối các động tác múa lại với nhau, tạo thành đoạn múa, mà song song với mỗi một luật động, động tác hay đoạn múa đó đều phản ánh được tình cảm của người cha, người mẹ đối với cậu con trai. Nó được khắc họa rõ nét qua từng cử chỉ, bước dìu dắt, bồng bế, nâng đỡ... Các yếu tố trong tác phẩm đã được phát triển linh hoạt hơn, tiết tấu nhanh, các động tác múa Mường vốn cơ bản rất chậm thì nay biên đạo đã thay đổi về luật động, phương hướng dựa trên tiết tấu của âm nhạc, trở nên phong phú hơn.

   Trong phần cao trào của tác phẩm, khi cả ba diễn viên cùng múa ở giữa sân khấu thì có thể nhận thấy rõ tính phát triển ngôn ngữ múa trong mỗi tổ hợp cũng được khai thác một cách triệt để. Biên đạo đã sử dụng động tác cơ bản như phát nương, guộn hoa, bê cỗ... kết hợp với tiết tấu nhanh hơn, liên tục. Đây chính là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng để tạo nên cao trào, điểm sáng và điểm nhấn cho tác phẩm. Đó cũng chính là giá trị của tác phẩm cũng như sự thành công của biên đạo Bạch Công Khánh trong sáng tạo. Kết thúc đoạn 2 (cao trào) để chuyển sang đoạn 3 (kết thúc), biên đạo sử dụng tính chất đầu tiên như phần mở màn với tiết tấu chậm. Sự chuyển động nhẹ nhàng của diễn viên với các luật động để di chuyển và kết thúc bằng tạo hình đẹp, ấn tượng làm nổi bật hơn nữa hình tượng người cha, người mẹ và cậu con trai đối với chiêng – một vật linh thiêng của gia tộc mình.

   Yếu tố tạo hình trong tác phẩm được khai thác khá triệt để và chủ yếu là các tạo hình cân đối. Sự kết hợp nhuần nhuyễn của chất liệu dân gian dân tộc Mường với yếu tố khoa học, cân xứng trong mỗi tạo hình đã tạo cho người xem dễ dàng cảm nhận được giá trị của chiếc chiêng đối với đời sống của người Mường.

   Tuyến múa trong tác phẩm cũng khá linh hoạt, các tổ hợp chủ yếu được biên đạo sử dụng trên tuyến chéo và hàng ngang. Cách di chuyển tuyến múa tuy đơn giản nhưng rất linh hoạt, khéo léo đạt được tính thẩm mĩ.

   Qua nghiên cứu, phân tích tác phẩm múa Gia bảo của biên đạo Bạch Công Khánh, chúng tôi nhận thấy tác giả đi theo xu hướng sáng tác múa dân gian dân tộc. Cụ thể, tác giả đã sử dụng các yếu tố như:

   - Cách biên tác phẩm có bố cục và cấu trúc, nội dung cụ thể.

   - Sự kết nối chất liệu múa dân gian Mường nhuần nhuyễn, uyển chuyển, mềm mại.

   - Các motif tổ hợp động tác được biên đạo một cách chặt chẽ và phát triển cao hơn so với các động tác nguyên dạng.

   - Sự sáng tạo, kết hợp đạo cụ tinh tế gắn với nội dung tư tưởng của tác phẩm.

   - Cấu trúc ngôn ngữ mô phỏng và tính biểu hiện được khai thác triệt để.

   - Yếu tố tạo hình chủ yếu mang tính cân đối.

   - Tuy có khai thác về các tuyến múa khá linh hoạt nhưng vẫn còn đơn giản.

   - Âm nhạc được tác giả xử lý linh hoạt hơn âm nhạc cơ bản dân gian dân tộc Mường, có chủ đề và cấu trúc về gắn liền với nội dung kịch bản múa, đậm chất âm nhạc dân gian dân tộc Mường.

   Bằng tư duy sáng tạo của tác giả trong việc sử dụng chất liệu dân gian thuần túy của múa Mường, tác phẩm múa Gia bảo đã giúp khán giả hiểu được giá trị tư tưởng và sự đồng cảm với cảm xúc từ ý tưởng mà biên đạo muốn nói. Cũng bằng cách làm đó mà tác phẩm đã xây dựng lên hình tượng nhân vật cụ thể dựa trên chất liệu múa dân gian dân tộc Mường một cách rõ nét, chân thực, mộc mạc và sự trân trọng đối với giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc một cách giàu tính nghệ thuật.

   Như vậy, có thể nhận thấy xu hướng sử dụng chất liệu múa dân gian dân tộc để làm cơ sở phát triển ngôn ngữ tác phẩm múa Mường được áp dụng khá phổ biến và trở thành một xu hướng ổn định, được ứng dụng thường xuyên và có hiệu quả.

   Trong xu hướng múa này, ngôn ngữ chưa được phát triển nhiều, tính linh hoạt của ngôn ngữ còn hạn chế, chỉ là sắp đặt kết nối các luật động động tác lại với nhau; tạo hình chủ yếu mang tính cân đối; tuyến múa đơn giản, không phức tạp; sự chuyển động về không gian sân khấu trong tuyến múa không nhanh, không có nhiều yếu tố đột biến mang lại vẻ đẹp hài hòa, bình dị; tiết tấu âm nhạc đơn giản, đều đều, tốc độ vừa phải, sắc thái nhẹ nhàng; tổ hợp múa có kết cấu đơn giản, bố cục ba phần rõ ràng, tuy nhiên vẫn còn thô sơ.

   Múa Mường Hòa Bình ra đời từ kho tàng diễn xướng dân gian, phục vụ phong tục tập quán, lao động, tín ngưỡng và nhu cầu thưởng thức của nhân dân. Trải qua thời gian, các điệu múa đã vượt khỏi môi trường vốn có giới hạn trong tang ma, sinh hoạt, lễ thức, tế lễ mà đã ăn sâu vào tiềm thức của người Mường và cũng chính họ là những nhân tố làm phát triển nghệ thuật múa. Những người nông dân, khi làng có hội, đã tham gia tập luyện và biểu diễn, trên cơ sở đó nghệ thuật múa Mường đã được bảo lưu từ đời này sang đời khác cùng với những phong tục tập quán và lễ nghi. Chính vì vậy, múa Mường mang nhiều giá trị về mặt nghệ thuật cần được nghiên cứu, bảo tồn và phát triển đúng hướng.

 

 

 

Tài liệu tham khảo:
1. Lê Ngọc Canh (2001), 100 điệu múa truyền thống Việt Nam, NXB Văn hóa - Thông tin.
2. Lê Ngọc Canh (2002), Đại cương nghệ thuật múa, NXB Văn hóa - Thông tin.
3. Lâm Tô Lộc (1994), Múa dân gian các dân tộc Việt Nam, NXB Văn hóa dân tộc.
4. Bùi Chí Thanh (2001), Nghệ thuật múa Mường, NXB Văn hóa dân tộc.
5. Trần Từ (1996), Người Mường ở Hòa Bình, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam.

Bình luận

    Chưa có bình luận