TIẾP NHẬN VĂN HỌC ĐÔNG NAM Á Ở VIỆT NAM*

Bài viết nghiên cứu lịch sử tiếp nhận văn học Đông Nam Á trên thế giới và ở Việt Nam. Đồng thời phân tích, làm rõ đặc điểm của tiếp nhận văn học Đông Nam Á ở Việt Nam, nhấn mạnh sự cần thiết về mặt lịch sử và lý thuyết của hướng tiếp cận văn học như là những hoán dụ dân tộc đối với bộ phận văn học này.

   1. Tiếp nhận văn học Đông Nam Á trên thế giới

   Văn học Đông Nam Á từ lâu đã trở thành chất liệu để các nhà lý thuyết phương Tây phát triển quan điểm về vấn đề văn học và dân tộc. Công trình kinh điển về sự phát triển chủ nghĩa dân tộc ở Đông Nam Á và các nước thuộc địa, hậu thuộc địa khác Những cộng đồng tưởng tượng: Những suy ngẫm về nguồn gốc và sự lan tỏa của chủ nghĩa dân tộc (Imagined Communities: Reflections on the Origin and Spread of Nationalism, 1983) của Benedict Anderson đã phân tích Noli me tangere (Đừng động vào tôi, 1887) – một tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn, người anh hùng dân tộc Philippines José Rizal (1861-1896) như một dẫn chứng để triển khai các luận điểm về vai trò của văn học trong việc tạo những khả năng tinh thần và văn hóa cho sự hình thành một quốc gia, dân tộc. Cuốn sách chỉ ra tiểu thuyết của Rizal có một giả định rằng cộng đồng không chỉ bao gồm những người có cùng tư tưởng mà còn bao gồm những độc giả xa lạ, những người có thể gắn bó với nhau như là những người bạn trên cơ sở có chung một mục tiêu là chống lại những kẻ thù – đây cũng là những kẻ thù có phần được kiến tạo, tức là cuốn tiểu thuyết của Rizal đã góp phần kiến tạo những kẻ thù của một dự án dân tộc.

   Trên thực tế, từ đầu những năm 1980, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu văn học Đông Nam Á của các học giả trong khu vực cũng như quốc tế khám phá sự tham gia của văn học vào các vấn đề chính trị, xã hội, lịch sử của từng quốc gia. Tuyển tập Các bài viết về văn học và xã hội ở Đông Nam Á: cách tiếp cận chính trị và xã hội học (Essays on Literature and Society in Southeast Asia: Political and Sociological Perspectives, 1981) do Seong Chee Tham biên tập bao gồm 15 tiểu luận của các học giả đến từ các nước trong khu vực về nền văn học của dân tộc mình trong mối liên hệ với các vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa của dân tộc đó. Chẳng hạn, trong số đó có ba bài viết nói về văn học kháng chiến và cuộc đấu tranh vì tự do của Việt Nam và Philippines, tập trung vào tiếng nói của các trí thức khu vực về vấn đề áp bức thực dân. Như chủ biên của cuốn sách này, Giáo sư Seong Chee Tham đến từ Đại học Quốc gia Singapore, nhận xét ngay ở phần mở đầu, các tác giả đã vượt lên trên cách tiếp cận truyền thống – vốn chú trọng tìm hiểu đặc tính cốt truyện, nghệ thuật xây dựng tính cách, phong cách viết – và coi văn học như là một hiện tượng xã hội trong các quốc gia Đông Nam Á đương thời. Như vậy, việc tiếp cận các tác phẩm văn học trong khu vực như là một sản phẩm có tính cộng đồng, như là một phần trong quá trình thay đổi và hiện đại hóa ở mỗi quốc gia Đông Nam Á, được coi như là một sự đổi mới trong tiếp cận văn học. Các tiểu luận tập trung vào nền văn học của từng dân tộc trong cuốn sách này đã phản ánh sự dịch chuyển trong mối quan tâm của giới trí thức Đông Nam Á, đó là từ cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân đến sự kiếm tìm thứ thường được định danh một cách mơ hồ là “bản sắc dân tộc”.

   Mặc dù phải đến tận năm 1986, khi bài viết “Third-world Literature in the Era of Multinational Capitalism” được F. Jameson công bố trên Social Text (No. 15, Autumn), việc nghiên cứu văn học các nước thuộc thế giới thứ ba như là các hoán dụ dân tộc ở phương Tây mới bắt đầu trở nên “náo nhiệt”, nhưng một ý tưởng tương tự đã xuất hiện trong cuốn sách của Seong Chee Tham (1981). Nhà khoa học khẳng định rằng hướng tiếp cận văn học như là hiện thân của một xã hội là đặc trưng cho cách tiếp cận đối với các nước đang phát triển, trong đó có các quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á. Do đó, văn học trở thành một dữ liệu đối với các nhà khoa học xã hội khi nghiên cứu các vấn đề chính trị, đạo đức, tư tưởng của một giai đoạn lịch sử nhất định. Tuy nhiên, với tư cách là một nhà xã hội học, Seong Chee Tham chưa chú ý đến những đặc trưng của loại hình văn học khi nó đóng vai trò là “hiện thân của xã hội”. Khoảng trống này đã được các nghiên cứu của Jameson, Anderson và các nhà phê bình, lý thuyết văn học theo trường phái Marxist khác nỗ lực lấp đầy.

   Từ đầu những năm 1980 trở lại đây, như đã nói, có nhiều công trình nghiên cứu văn học Đông Nam Á như là các “hoán dụ dân tộc”. Hầu hết các công trình vận dụng lý thuyết văn học và dân tộc này tập trung vào văn học của từng quốc gia riêng biệt. Nội dung dân tộc đó được triển khai khá phong phú, bao gồm các vấn đề như chính trị quốc gia, bản sắc dân tộc, vấn đề giới, vấn đề truyền thống - hiện đại và nhiều vấn đề khác. Có thể kể ra một số ví dụ như cuốn tuyển tập các bài nghiên cứu Các truyền thống đang tái điều hướng sự sản xuất văn hóa ở Indonesia đương đại (Traditions Redirecting Contemporary Indonesian Cultural Production, 2017) do Giáo sư Jan van der Putten ở Đại học Hamburg (Cộng hòa Liên bang Đức) và đồng nghiệp biên tập, hay cuốn Đọc văn học bằng tiếng Anh của Malaysia: sắc tộc, giới, di dân và chủ nghĩa dân tộc (Reading Malaysian Literature in English: Ethnicity, Gender, Diaspora, and Nationalism, 2021) do Mohammad A. Quayum biên tập. Cũng phải kể đến các chuyên khảo Đọc cho đến khi nào nó rách nát: chủ nghĩa dân tộc và bản sắc trong văn học Thái hiện đại (Read till it Shatters: Nationalism and Identity in Modern Thai Literature, 2018) của Thak, Chaloemtiarana; Gợi lên quá khứ: chính trị văn hóa của văn học Lào, 1941-1975 (Invoking the Past: The Cultural Politics of Lao Literature, 1941-1975, 2014) của Polmuk; Cambodia: Vun trồng một quốc gia, 1860-1945 (Cambodge: The Cultivation of a Nation, 1860-1945, 2007) của Penny Edwards; hay cuốn Văn học và việc kiến tạo dân tộc ở Việt Nam: quá trình vô hình hóa người Ấn Độ (Literature and Nation-Building in Vietnam: The Invisibilization of the Indians, 2021) của Chi P. Pham.

   Mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề văn học và dân tộc ở từng quốc gia Đông Nam Á riêng biệt nhưng chưa có nhiều công trình về văn học khu vực trong sự quy chiếu, đối thoại hoặc đơn giản là đặt cạnh nhau dựa trên nền tảng của lý thuyết văn học dân tộc phương Tây từ những năm 1980. Hầu hết các công trình về văn học khu vực đã có chỉ tập trung vào văn học Indonesia, Malaysia, Singapore và Philippines.

   Vấn đề bản ngã và cộng đồng được các nhà nghiên cứu văn học Đông Nam Á quan tâm nhiều khi vận dụng lý thuyết văn học và dân tộc của phương Tây vào việc tiếp cận bộ phận văn học này. Cuốn Bản ngã và xã hội trong tiểu thuyết Đông Nam Á: những khám phá chủ đề trong văn học thế kỷ XX của năm nước ASEAN (Self and Society in Southeast Asian Fiction: Thematic Explorations in the Twentieth Century Fiction of Five ASEAN Countries, Institute of Southeast Asian Studies, 1988) của Thelma B. Kintanar cho rằng văn học thực sự đem lại cho chúng ta sự thấu suốt về văn hóa; nó phụng sự quá trình nhân văn hóa văn hóa và làm giàu những hình dung trừu tượng của chúng ta về xã hội; nó giúp chúng ta ý thức một cách sinh động hơn về sự phức hợp bất định của con người và các mối quan hệ xã hội; nó khiến chúng ta nhìn thấy và cảm thấy một cuộc sống có thể cảm nhận được về một xã hội hay một văn hóa nhất định1. Ở công trình chuyên sâu này, tác giả đem lại những thông tin lịch sử cần thiết cho phép người đọc định vị một tác phẩm văn học trong bối cảnh xã hội và điều này, đến lượt nó, sẽ kích hoạt độc giả tự làm các phép so sánh. Điều thú vị là sự so sánh này vượt ra những lối gán ghép thông thường về địa lý, lịch sử hay chính trị. Ví dụ, những phân tích của tác giả Kintanar về tiểu thuyết Thái hiện đại không khiến người đọc quy chiếu với tiểu thuyết Lào như thông thường mà cảm thấy có những trải nghiệm chung với người Indonesia. Tương tự, văn học và lịch sử Malaysia và Singapore cũng đầy sự khác biệt đáng kinh ngạc. Sự quy chiếu giữa văn học và lịch sử ở công trình này làm sâu sắc cho cả hai lĩnh vực. Cuốn sách tập trung vào nội dung của tiểu thuyết hiện đại Đông Nam Á, cụ thể là vấn đề cá nhân và sự cảm nhận bằng giác quan đối với xã hội. Vấn đề cá nhân được cụ thể hóa ở các phương diện là bản sắc cá nhân, sự xa lánh và sự đi đày, giai cấp và cá nhân, sự cam kết đối với xã hội. Đây là những vấn đề, như chính tác giả thừa nhận, cũng phổ biến trong phê bình văn học phương Tây; nhưng theo nhà khoa học nữ này, việc sử dụng cách tiếp cận phương Tây cũng hợp lý ở chỗ phương Tây đã “động đến” các xã hội và văn hóa Đông Nam Á, đưa chúng đến những thay đổi và tình huống được biểu hiện thường xuyên trong văn học phương Tây.

   Cùng hướng nghiên cứu trên là bài viết của Tony Day “Bản ngã và chủ thể trong văn học Đông Nam Á ở thời đại toàn cầu” (“Self” and “Subject” in Southeast Asian Literature in the Global Age, 2007). Bài nghiên cứu hướng đến tìm hiểu các tác phẩm văn học Đông Nam Á đã thể hiện quá trình hình thành bản sắc như thế nào. Bài viết này phân tích một số nền văn học trong khu vực, bao gồm cả Việt Nam, để đi đến một luận điểm về vai trò của văn học Đông Nam Á như là nguồn tài liệu cho việc tìm hiểu những chuyển động về mặt kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia; nền văn học này chính là hiện thân cho những sự chuyển động ấy.

   Bên cạnh đó, cũng có một số công trình xác định cụ thể một “hoán dụ dân tộc” chung trong văn học Đông Nam Á và bao gồm các chương phân tích một hay một vài tác phẩm của từng nước trong mối liên hệ với “hoán dụ dân tộc” đó. Chẳng hạn, có thể kể đến cuốn Người phụ nữ Đông Nam Á viết đối lại: giới, bản sắc và dân tộc trong văn học Brunei Darussalam, Malaysia, Singapore, Indonesia và Philippines (The Southeast Asian Woman Writes Back: Gender, Identity and Nation in the Literatures of Brunei Darussalam, Malaysia, Singapore, Indonesia and the Philippines, 2017) do hai học giả Đông Nam Á được đào tạo trong truyền thống học thuật phương Tây là Grace V. S. Chin và Kathrina Mohd Daud biên tập. Cuốn sách bao gồm các bài nghiên cứu xem xét cách các nhà văn nữ ở năm nước Đông Nam Á (Brunei Darussalam, Malaysia, Singapore, Indonesia và Philippines) đã tham gia vào các đại tự sự về chủ nghĩa dân tộc và về nhà nước - dân tộc hiện đại bằng cách khám phá những biểu đạt về giới, bản sắc và dân tộc. Các bài viết đặt sự phát triển văn học khu vực trong bối cảnh chính trị và lịch sử để tìm hiểu phụ nữ và tính nữ đã được tưởng tượng, được biểu đạt và được định vị như thế nào trong mối quan hệ với vấn đề dân tộc - quốc gia ở Đông Nam Á. Cuốn sách bao gồm cả những phân tích so sánh xuyên quốc gia và cả những nghiên cứu tập trung vào một quốc gia cụ thể, tìm hiểu các ý tưởng về quốc gia và nhà nước bằng cách khảo sát các ý thức hệ, các tu từ, các công cụ và diễn ngôn liên quan đến ý tưởng ấy, khảo sát cách thức mà những yếu tố đó ảnh hưởng đến cơ thể, tính chủ thể và thực tế cuộc sống của phụ nữ Đông Nam Á trong quá khứ và hiện tại như thế nào. Bằng cách xem xét cách thức các biểu đạt văn học này phê phán, tranh luận hoặc đồng lõa với các dự án dân tộc hay các kế hoạch nghị sự được nhà nước quản lý, cuốn sách này, như được nói rõ, đã đóng góp vào các diễn ngôn bao quát cả khu vực cũng như mang tính so sánh trong phạm vi khu vực về giới tính, bản sắc và quốc gia trong nghiên cứu Đông Nam Á.

   Công trình gần đây nhất khám phá văn học Đông Nam Á dựa trên nền tảng của lý thuyết văn học và dân tộc là cuốn Chính trị dịch thuật trong văn học Đông Nam Á: thảo luận chủng tộc, giới tính và tình dục (Translational Politics in Southeast Asian Literatures: Contesting Race, Gender, and Sexuality, 2021) do Grace V. S. Chin chủ biên. Cuốn sách bao gồm các bài phân tích những hàm ý chính trị và văn hóa của sự dịch chuyển văn học và các loại hình nghệ thuật khác giữa các nước trong khu vực. Ở đây, dịch thuật và sự di chuyển của các văn bản giữa các vùng văn hóa, các thời đại, các loại hình nghệ thuật mang tính chính trị đã làm “phát lộ những cấu trúc tiềm ẩn của sự bất bình đẳng hay thành kiến về chủng tộc và giới tồn tại trong diễn ngôn”2. Cuốn sách này tập trung trả lời câu hỏi là các tự sự lịch sử đã định hình các quốc gia - dân tộc Malaysia, Singapore, Indonesia, Brunei Darussalam và Philippines cũng như các vấn đề bản sắc giới tính, chủng tộc hay văn hóa ở các quốc gia này như thế nào. Đáng chú ý nhất là bài viết của Angelia Poon so sánh hai tiểu thuyết đương đại của Malaysia và Singapore Nơi được gọi là sự vắng mặt (This Place Called Absence, 2000) của Lydia Kwa và Quà tặng của Mưa (The Gift of Rain, 2007) của Taw Tan Eng. Bài viết này khá gần gũi với đề tài đang đề xuất không chỉ vì nó tập trung vào lĩnh vực văn học mà còn bởi nó chỉ ra rằng việc viết lại một cách hư cấu về quá khứ trong thời điểm hiện đại tự nó là một hành động dịch và điều này kích hoạt việc xem xét lại những sự phân loại, phân biệt ẩn tàng trong diễn ngôn về “chủng tộc, giới tính, tình dục và quốc tịch, do đó lịch sử hóa hiện tại một cách hiệu quả”3. Có thể thấy hầu hết các công trình được chúng tôi đề cập trên đây đều được xuất bản trong những năm gần đây (khoảng từ đầu thế kỷ XXI), bởi các nhà xuất bản uy tín ở phương Tây như NXB. Đại học Cornell, NXB. Đại học Hawaii, NXB. Đại học Quốc gia Úc. Tác giả (người đóng góp) của các công trình này cho dù đang công tác tại một trường đại học ở Đông Nam Á hay ở một quốc gia phương Tây (chủ yếu là Mĩ) đều được đào tạo sau đại học ở các quốc gia phương Tây (Anh và Mĩ). Điều này cho thấy hướng tiếp cận văn học và dân tộc là một xu hướng của trí thức phương Tây về bộ phận văn học Đông Nam Á. Hướng tiếp cận như vậy hứa hẹn đem lại một bức tranh mới về văn học khu vực Đông Nam Á ở Việt Nam. 

   2. Tiếp nhận văn học Đông Nam Á ở Việt Nam .

   Mặc dù từ những năm 1980, hướng tiếp cận văn học và dân tộc của các nhà Marxist phương Tây đã trở nên khá phổ biến trong việc giảng dạy và nghiên cứu văn học các nước bên ngoài phương Tây nhưng ở Việt Nam chưa có nhiều công trình nghiên cứu đi theo hướng tiếp cận này. Cho đến nay mới có cuốn chuyên khảo Văn học Anh ngữ và vấn đề dân tộc Ấn Độ4 (do Phạm Phương Chi chủ biên, 2022) giới thiệu một cách cơ bản lý thuyết văn học và dân tộc, dựa trên các lý giải của Johnathan Culler về công trình của B. Anderson và F. Jameson. Tuy nhiên, như tiêu đề của cuốn sách thể hiện, lý thuyết này mới được dùng để tiếp cận bộ phận văn học Anh ngữ Ấn Độ và mục đích chủ yếu của việc sử dụng lý thuyết ở đây là để khẳng định vị trí của văn học Anh ngữ Ấn Độ như là văn học dân tộc của Ấn Độ. Việc tiếp cận văn học Đông Nam Á từ góc độ lý thuyết văn học và dân tộc như vậy còn thiếu vắng ở Việt Nam.

   Không thể phủ nhận rằng văn học Đông Nam Á đã được một số học giả Việt Nam nghiên cứu một cách hệ thống và công phu, đặc biệt là từ những năm 90 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu bộ phận văn học này từ lý thuyết văn học và dân tộc theo hướng các nhà Marxist phương Tây khởi xướng và phát triển từ những năm 1980. Hầu hết các công trình về văn học Đông Nam Á hiện nay ở Việt Nam là các giáo trình đại học hay sau đại học, chưa có nhiều công trình dưới dạng chuyên khảo mang tính khám phá hay thể nghiệm một lý thuyết nghiên cứu thuộc khoa học cơ bản. Các công trình này đưa ra những phân tích khái quát về văn học toàn khu vực và của từng quốc gia trong khu vực kể từ văn học dân gian cho đến giai đoạn cận hiện đại và sau Thế chiến thứ II. Những công trình được triển khai theo hướng giáo trình và phổ biến kiến thức – có giá trị tham khảo trong nghiên cứu hàn lâm – như vậy, có thể kể đến Văn học các nước Đông Nam Á (Viện Đông Nam Á xuất bản, 1983) do Nguyễn Tấn Đắc chủ biên; Văn học Đông Nam Á (NXB. Giáo dục, 1998) do Lê Đức Trung chủ biên; Văn học các nước Đông Nam Á (NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999), Nghiên cứu văn học Đông Nam Á (NXB. Khoa học xã hội, 2004), Từ điển văn học Đông Nam Á (NXB. Khoa học xã hội, 2004), Văn học Campuchia qua những chặng đường lịch sử (NXB. Khoa học xã hội, 2000) của Vũ Tuyết Loan và Nguyễn Sĩ Tuấn, Diện mạo văn học cận hiện đại Lào (NXB. Khoa học xã hội, 2007) của Nguyễn Đức Ninh (Đức Ninh) và Trần Thúc Việt. Đây có thể coi là những công trình có ảnh hưởng lớn đến việc định hình bức tranh nghiên cứu và đào tạo (chuyên sâu) về văn học Đông Nam Á ở Việt Nam.

   Các công trình chuyên sâu về văn học Đông Nam Á với những đặc điểm về lập luận và cách triển khai của một dự án khoa học cơ bản ở Việt Nam, có thể kể đến Quá trình hình thành thể loại tiểu thuyết hiện đại trong văn học Việt Nam và một số nước Đông Nam Á (NXB. Văn học, 2016) do Đức Ninh chủ biên, Vấn đề bản địa hoá sử thi Ramayana Ấn Độ tại một số nước Đông Nam Á (NXB. Văn hoá Thông tin, 2002) của Đỗ Thu Hà, Truyền thống và cách tân trong văn học hiện đại Lào (Luận án Tiến sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội, 1999) của Xaynhansản Sukhănthakhaty, Những tương đồng và khác biệt trong một số kiểu truyện cổ dân gian ở Lào và Việt Nam (NXB. Khoa học xã hội, 2004) của Lại Phi Hùng. Có thể thấy những công trình chuyên sâu này tập trung chủ yếu vào bộ phận văn học dân gian và bộ phận văn học cận-hiện đại Đông Nam Á. Bộ phận văn học sau Thế chiến II, đặc biệt là văn học đương đại, còn là một khoảng trống chưa được khai phá.

   Xu hướng chung của các công trình “khóa” về văn học Đông Nam Á ở Việt Nam là việc khái quát những đặc trưng, những quy luật của nền văn học toàn khu vực và của từng dân tộc trong khu vực. Theo đó, các công trình kể trên đều có một chương nêu lên đặc điểm chung của chỉnh thể văn học Đông Nam Á trong các giai đoạn lịch sử (được phân kỳ theo cách kinh điển: dân gian, cổ đại, trung đại, cận-hiện đại), các chương tiếp theo là bức tranh khái quát về văn học từng dân tộc trong từng giai đoạn lịch sử này. Bức tranh văn học Đông Nam Á, dù là toàn khu vực hay riêng từng quốc gia, được phác họa theo một công thức chung: văn học dân gian với tư cách là một phần của văn hóa bản địa đầy năng động gắn bó với đời sống tinh thần và vật chất của con người bản địa; ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc, Ả Rập - Ba Tư đối với văn học truyền miệng và văn học viết cổ đại và trung đại; ảnh hưởng của các nền văn hóa ngoại lai khác, đặc biệt là văn hóa phương Tây, đến quá trình hiện đại hóa nền văn học bản địa ở giai đoạn cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX. Ví dụ, trong Văn học Đông Nam Á (1998), nhà nghiên cứu Lê Đức Trung nhấn mạnh ảnh hưởng của văn hóa, tôn giáo, đặc biệt là văn học cổ điển Ấn Độ, đến diện mạo của văn học Đông Nam Á. Văn học cận hiện đại Đông Nam Á, với sự xuất hiện đặc biệt của thể loại tiểu thuyết, cũng được ông lý giải như là kết quả của sự ảnh hưởng từ văn hóa, văn học phương Tây.

   Ở các công trình “khóa” này, các tác giả, tác phẩm văn học của từng quốc gia được liệt kê và giới thiệu ngắn gọn, được sắp xếp theo hướng phù hợp với khái quát mà nhà nghiên cứu đúc rút về một bộ phận văn học nhất định. Nỗ lực khái quát bức tranh chung, sự vận động chung của văn học Đông Nam Á để từ đó có một hướng tiếp cận đặc trưng đối với nền văn học này đã được Giáo sư Đức Ninh nêu trực tiếp trong các công trình của mình. Trong cuốn Văn học các nước Đông Nam Á, trăn trở về một bức tranh toàn diện, cuối cùng của văn học Đông Nam Á được nhà khoa học thể hiện qua nhận định rằng: Cho đến nay (thời điểm năm 1999), “chúng ta chưa có “mẫu số chung” về văn học khu vực Đông Nam Á… Với phương pháp tổng hợp, liên ngành, văn học Đông Nam Á phải đặt ra những vấn đề chung… mang tính toàn cục để giải quyết”5.

   Một điểm chung khác trong các công trình mang tính khái quát về văn học Đông Nam Á là sự nhấn mạnh tính năng động và chủ động của văn học khu vực này trong bối cảnh của những ảnh hưởng đến từ các nền văn hóa, văn học bên ngoài. “Dân tộc” hay “bản địa” được xem là cội nguồn và là đích đến chi phối sự tiếp thu các sản phẩm văn học, văn hóa vốn được du nhập vào khu vực qua sự giao thương, giao thoa văn hóa và nhất là qua sự bành trướng của các đế quốc phương Đông và phương Tây. Theo đó, các tác phẩm văn học kinh điển “ngoại lai” được cho là bị biến đổi và bị nhào nặn, hay nói đúng hơn là bị chiếm dụng theo xu hướng phù hợp và làm giàu cho văn hóa bản địa. Ví dụ, đối với các “văn phẩm của văn hóa Ấn Độ”, tác giả Đức Ninh cho rằng chúng đã được “dân gian hóa theo đặc điểm dân tộc phù hợp với hoàn cảnh của từng quốc gia”, các tác phẩm văn học Ấn Độ bị “biến dạng đi, mỗi nơi một khác, chỉ còn lại cái “gốc” Ấn Độ”6. Tác giả Trần Thúc Việt cũng nhấn mạnh ý thức dân tộc và “dân tộc hóa” của các nền văn học ở Đông Nam Á trong quá trình tiếp biến các tác phẩm văn học bên ngoài. Theo tác giả Trần Thúc Việt, những tác phẩm kinh điển của các quốc gia Đông Nam Á, ví dụ như Truyện Kiều của Việt Nam, Xỉn xay của Lào, Ramakiên của Thái Lan, Riêm kê của Campuchia, Sri-Rama của Indonesia và Alim của Philippines, “đều thể hiện sự trở về với dân tộc, thể hiện quá trình dân tộc hóa, thể hiện sức mạnh của các nền văn học dân tộc Đông Nam Á” mặc dù các tác phẩm này đều có “gốc ngoại lai”7. Danh từ “dân tộc” hay động từ “dân tộc hóa” trở đi trở lại trong nhiều nhận định của nhà nghiên cứu Nguyễn Tấn Đắc trong công trình chuyên sâu về văn học Đông Nam Á có thể coi là sớm nhất ở Việt Nam (1983). Ông viết: “Văn học Đông Nam Á đã dân tộc hóa những gì có thể chấp nhận được từ nhiều nguồn bên ngoài”8 và “những gì Đông Nam Á tiếp nhận rồi sinh sôi nảy nở trên mảnh đất này đã trở thành di sản thực sự của văn hóa dân tộc”9. Như vậy, đối với các nhà khoa học Việt Nam, tinh thần dân tộc – theo nghĩa là hướng đến việc xây dựng một nền văn hóa, văn học quốc gia độc đáo, vượt ra ngoài vị trí chỉ là sự mô phỏng hay là sản phẩm lắp ghép của các nền văn hóa lớn xung quanh (Ấn Độ và Trung Hoa) – là xu hướng chính trong lịch sử phát triển của các nền văn học Đông Nam Á.

   Luận điểm khẳng định sức mạnh bản địa hóa của văn hóa Đông Nam Á và tinh thần hướng đến việc kiến thiết nền văn học dân tộc ở các quốc gia Đông Nam Á dường như trở thành định hướng của các nghiên cứu chuyên sâu về văn học khu vực này ở Việt Nam. Nói cách khác, nghiên cứu quá trình “bản địa hóa” các tác phẩm văn hóa, văn học kinh điển bên ngoài khi chúng được du nhập vào Đông Nam Á là một xu hướng khá nổi bật trong đời sống học thuật ở Việt Nam. Có thể kể ra đây các chuyên khảo thể hiện, một cách gián tiếp hay trực tiếp, sự kế thừa tinh thần trên như nghiên cứu của Xaynhansản Sukhănthakhaty (1999), Đỗ Thu Hà (2002), Vũ Tuyết Loan và Nguyễn Sĩ Tuấn (2004), Đức Ninh và Trần Thúc Việt (2007), Đức Ninh (Chủ biên, 2016), Những biến thể Jataka trong truyện cổ dân gian Đông Nam Á (Luận án Tiến sĩ của Hà Thị Đan, 2017). Cụ thể, nhà nghiên cứu Đỗ Thu Hà chỉ ra sự chủ động trong việc tiếp nhận sử thi Ramayana ở các nước Đông Nam Á, đó là sự sắp xếp lại các thang giá trị văn hóa được thể hiện trong sử thi này cho phù hợp với truyền thống đạo lý của mỗi nước trong khu vực hay việc tận dụng và cải biến ngôn từ, sự kiện và cả hình thức biểu diễn của tác phẩm ngoại lai để biểu đạt các giá trị văn hóa bản địa. Nghiên cứu của tác giả Hà Thị Đan nhấn mạnh sự biến đổi theo chiều hướng lược bỏ tinh thần thuyết pháp vốn có của Jataka, một kinh điển Phật giáo của Ấn Độ, trong các sản phẩm văn hóa, văn học của khu vực. Nhà nghiên cứu Vũ Tuyết Loan và Nguyễn Sĩ Tuấn phân tích quá trình các nghệ sĩ Campuchia sáng tạo sử thi Ramayana thành tác phẩm Riêmkê như là một phần, một giai đoạn trong lịch sử hình thành nền văn học truyền thống của quốc gia này. Trong khi nghiên cứu quá trình hiện đại hóa văn học Campuchia mà đỉnh cao là sự ra đời của thể loại tiểu thuyết vào nửa đầu thế kỷ XX, hai tác giả cũng cho rằng văn hóa bản địa, cụ thể ở đây là Phật giáo, vẫn có vai trò như thang giá trị điều chỉnh quá trình tiếp thu các ảnh hưởng về văn học, văn hóa từ phương Tây; các yếu tố thuộc văn học truyền thống vẫn tiếp tục được kế thừa trong các thể loại văn học hiện đại ở quốc gia này. Cả hai tác giả đều nhấn mạnh đến sự năng động và sáng tạo của văn hóa bản địa khi tiếp nhận các ảnh hưởng văn học, văn hóa từ bên ngoài.

   Như vậy, với các học giả Việt Nam, Đông Nam Á “đã tiếp thu một cách có chọn lọc tự nhiên để rồi tạo nên trong mỗi nước (trong khu vực) một nền văn học dân tộc độc đáo” và “cho dù có ảnh hưởng văn hóa từ bên ngoài, nhưng các dân tộc Đông Nam Á khôn khéo chắt lọc những tinh hoa của văn hóa thế giới và dần dần các yếu tố văn hóa ở ngoài đã được cư dân nơi đây bản địa hóa một cách tài tình”10. Như thế, trên tiền đề về sự va chạm và xâm nhập mang tính tất yếu lịch sử của các luồng văn hóa, văn học bên ngoài vào Đông Nam Á, các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam đã nỗ lực lập luận để khẳng định sức mạnh “dân tộc hóa”, “bản địa hóa” đặc biệt của khu vực này đối với các luồng “ngoại lai” đó.

   Những nỗ lực nhằm phác họa quá trình hình thành các nền văn học dân tộc ở mỗi quốc gia Đông Nam Á đặc biệt rõ ràng trong các nghiên cứu về giai đoạn cận - hiện đại. Tác giả Nguyễn Tấn Đắc (1983) miêu tả quá trình các nền văn học Đông Nam Á đã vay mượn và sử dụng một cách sáng tạo các đề tài và ngôn ngữ các nước phương Tây để phát triển một nền văn học dân tộc có tính hiện đại. Nhà nghiên cứu Đức Ninh và đồng nghiệp11 lý giải diện mạo văn học Đông Nam Á trong mối liên hệ với nền văn minh nông nghiệp lúa nước, trong sự tiếp thu có chọn lọc những ảnh hưởng và sự “xâm chiếm” của các nền văn hóa lớn như Ấn Độ và Trung Hoa trên các phương diện chính yếu như các loại hình nghệ thuật, tôn giáo và chữ viết. Ở công trình này, văn học cận hiện đại Đông Nam Á, tính từ thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX, được lý giải trong sự ảnh hưởng và tương tác một cách chủ động của các trí thức bản địa với văn hóa phương Tây. Trong công trình xuất bản năm 2016, tác giả Đức Ninh và đồng nghiệp trong khi khẳng định vai trò của thể loại văn xuôi phương Tây trong sự hình thành tiểu thuyết hiện đại ở Indonesia vẫn nhấn mạnh sự hiện diện không thể thiếu của các yếu tố thuộc văn học truyền thống Mã Lai cổ điển và các sáng tác dân gian (hệ thống các phương tiện miêu tả) trong thể loại văn học đánh dấu tính hiện đại của nền văn học quốc gia Indonesia. Tác giả Trần Thúc Việt12 và tác giả Vũ Tuyết Loan13 cho rằng văn học truyền thống với tư duy thơ ca tiếp tục ảnh hưởng đến văn học hiện đại ở một số nước Đông Nam Á như Lào và Campuchia.

   Không chỉ khẳng định sức mạnh và sự bền bỉ của văn học truyền thống khi tiếp tục tác động lên nền văn học hiện đại, các học giả Việt Nam đặc biệt tập trung vào xu hướng “chống thực dân, chống đế quốc và tinh thần yêu nước” của nền văn học này, từ đó khắc họa sự tồn tại của các nền văn học dân tộc độc lập. Tác giả Đức Ninh, Trần Thúc Việt đặc biệt nhấn mạnh vị trí lịch sử của nền văn học yêu nước và cách mạng Lào đối với toàn bộ lịch sử văn học của quốc gia này từ thời cận đại cho đến đương đại. Theo đó, nền văn học Lào xuất hiện “trong khói lửa của chiến tranh giải phóng dân tộc”; sự ra đời của văn học Lào là nhờ dòng văn học yêu nước cách mạng và “văn học yêu nước và cách mạng Lào tạo thành dòng chủ thể bao trùm suốt từ thời kỳ chống Pháp đến chống Mĩ và sau ngày đất nước giải phóng, bước vào thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa”14. Nội dung cách mạng này cũng được nhà nghiên cứu Đức Ninh15 nhấn mạnh khi nghiên cứu văn học Lào. Ngoài phần văn học dân gian, chương sách tập trung gần như toàn bộ vào bộ phận “văn học yêu nước và cách mạng” từ năm 1893 đến nay.

   Như thế, với các học giả Việt Nam, sự hiện diện của một nền văn học độc lập – không bị chi phối hay bị đô hộ bởi các nền văn hóa, chính trị bên ngoài – ở các quốc gia Đông Nam Á dường như là câu hỏi nghiên cứu đau đáu và trăn trở nhất. Sự trăn trở và đau đáu này có thể được quan sát thông qua cách phát triển luận điểm trong các công trình viết lịch sử văn học toàn khu vực Đông Nam Á hay văn học của từng quốc gia trong khu vực. Trong khi nền văn học dân gian, cùng với văn hóa bản địa, được khẳng định có vai trò là nền tảng, hay như lời của nhà nghiên cứu Lê Đức Trung (1998), là tấm màng lọc, định hướng quá trình tiếp nhận, tương tác với lực văn hóa, văn học đến từ bên ngoài thì các văn học cổ đại, trung đại, cận hiện đại ở các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á thường được khắc họa trong sự va chạm và thậm chí là chiếm ưu thế so với các lực ngoại lai (cả phương Đông và phương Tây) nhờ những nỗ lực của các nghệ sĩ bản địa trong việc tiếp thu cái mới, vận dụng truyền thống để tạo nên một phong cách viết riêng, những chủ đề văn học riêng của dân tộc mình.

   Theo xu hướng đó, văn học các nước Đông Nam Á sau độc lập hay sau Thế chiến thứ II được mô tả như là các nền văn học độc lập; các vấn đề về hình thức và nội dung của các nền văn học này đã ổn định như những vật thể văn hóa, nghệ thuật của các quốc gia. Ví dụ, khi phân tích quá trình hình thành thể loại tiểu thuyết hiện đại Campuchia, nhóm tác giả Đức Ninh và đồng nghiệp16 phác họa lại hành trình từ các tiểu thuyết buổi đầu chịu ảnh hưởng về cốt truyện và kết cấu của tiểu thuyết Pháp đến những tiểu thuyết những năm trước Thế chiến II với nội dung là các câu chuyện lãng mạn liên quan đến đời sống của tuổi trẻ. Điều thú vị là nhóm tác giả này khẳng định Campuchia thực sự có nền tiểu thuyết của riêng mình hay thể loại tiểu thuyết ở quốc gia này chỉ thực sự hoàn thiện khi nó gắn bó với các vấn đề liên quan đến đời sống xã hội - chính trị của dân tộc, cụ thể, đó là cuộc đấu tranh bảo vệ giải phóng đất nước (Mialia của tôi), cuộc đấu tranh giai cấp (Sim - người lái xe, Thầy giáo làng). Cũng như thế, đối với văn học Thái Lan, theo tác giả Nguyễn Tương Lai, đặc điểm nổi bật đánh dấu phẩm chất hiện đại của nó là phê phán sự tràn ngập của lối sống và sản phẩm phương Tây, từ đó khẳng định vai trò Phật giáo trong việc duy trì nền văn học, văn hóa Thái Lan độc lập, dân chủ. Các cây bút Thái Lan từ năm 1961 trở lại đây tiếp tục trăn trở về những ảnh hưởng ồ ạt của văn hóa và vật chất phương Tây trong cuộc sống xã hội, kinh tế và chính trị của quốc gia17. Tác giả Lê Đức Trung cũng đặc biệt nhấn mạnh sự chủ động của các nhà văn hiện đại Myanmar trong việc “đấu tranh bảo vệ truyền thống văn hóa của dân tộc mình… cố gắng tìm tòi trong nền văn hóa phương Tây mà thực dân Anh truyền bá vào cái gì có lợi cho nền văn học dân tộc”18.

   Như vậy, có thể nhận thấy các công trình nghiên cứu văn học Đông Nam Á ở Việt Nam dường như mang một sứ mệnh chính trị, đó là khẳng định sự kiên cường của các nền văn học dân tộc trong khu vực qua các giai đoạn lịch sử với sự xâm chiếm và du nhập của các lực văn hóa và vật chất từ bên ngoài. Mặc dù đây là những luận điểm về các nền văn học bên ngoài Việt Nam nhưng có thể nhận ra các nền văn học này được phân tích trong sự phóng chiếu và như là một điểm quy chiếu cho văn học Việt Nam. Nhà nghiên cứu Đức Ninh đã nói về sự cần thiết của việc nghiên cứu văn học Đông Nam Á là “xuất phát từ lợi ích (cho) nghiên cứu văn học (và văn hóa) Việt Nam của chúng ta”19. Việc nghiên cứu văn học Đông Nam Á như là một quy chiếu để nghiên cứu văn học Việt Nam này được cụ thể hóa bằng công trình chuyên sâu xuất bản năm 2016 của tác giả Đức Ninh và đồng nghiệp; ở đây, tác giả nghiên cứu sự hình thành thể loại tiểu thuyết ở Việt Nam trong sự đối sánh và liên hệ với sự hình thành của thể loại này ở các nước Đông Nam Á khác. Cũng có thể nhận ra sự quy chiếu đến văn học Việt Nam trong các công trình nghiên cứu khác về văn học Đông Nam Á khi chúng thường xuyên có các phân đoạn so sánh với một số tác phẩm văn học hay bộ phận văn học Việt Nam cùng thời kỳ và có chung nội dung, cách phân kỳ lịch sử văn học ở một số nước trong khu vực là gần như trùng nhau. Ví dụ, những luận điểm của Lại Phi Hùng (trong công trình do Lê Đức Trung chủ biên)20 và Trần Thúc Việt21 về văn học Lào dễ dàng gợi lên trong đầu người đọc những hình dung tương tự về văn học Việt Nam, nhất là kể từ thời cận hiện đại trở lại đây.

   Xu hướng nghiên cứu văn học Đông Nam Á như vậy phản ánh trách nhiệm của các nhà khoa học Việt Nam đối với nền văn học dân tộc của mình và đó cũng là trách nhiệm đối với nền văn hóa dân tộc, với nền độc lập và sự phát triển của quốc gia. Nói cách khác, các công trình nghiên cứu về văn học Đông Nam Á ở Việt Nam có sứ mệnh dân tộc, hướng đến hình ảnh lý tưởng về các nền văn học quốc gia độc lập, gắn bó với các vấn đề giai cấp và dân tộc, không bị chi phối bởi các luồng tư tưởng chính trị và văn hóa từ bên ngoài, ở mỗi quốc gia trong khu vực. Tinh thần dân tộc trong các công trình nghiên cứu văn học Đông Nam Á ở Việt Nam một phần là do hầu hết các công trình này đều là giáo trình chính thức trong các chương trình giảng dạy văn học nước ngoài ở cấp đại học và sau đại học tại Việt Nam.

 

 

 

Chú thích:
1 Thelma B. Kintanar (1988), Self and Society in Southeast Asian Fiction: Thematic Explorations in the Twentieth Century Fiction of Five ASEAN Countries, Institute of Southeast Asian Studies, Singapore, p. 9.
2, 3 Grace V. S. Chin (Chủ biên, 2021), Translational Politics in Southeast Asian Literatures: Contesting Race, Gender, and Sexuality, Routledge, p. 7, 22.
4 Cuốn sách này được phát triển từ đề tài do quỹ NAFOSTED tài trợ giai đoạn 2017-2019.
5, 6, 10, 19 Đức Ninh (Chủ biên, 1999), Văn học các nước Đông Nam Á, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 24, 31, 30-31,17.
7 Trần Thúc Việt (2001): “Vấn đề dân tộc hóa và hiện đại hóa trong nền văn học một số nước Đông Nam Á”, Tạp chí Văn học, số 7, tr. 46.
8, 9 Nguyễn Tấn Đắc (Chủ biên, 1983), Văn học các nước Đông Nam Á, Viện Đông Nam Á xuất bản, tr. 15, 15.
11 Trong một buổi gặp với GS. Nguyễn Đức Ninh để xin tham vấn cho việc tổ chức Hội thảo quốc tế Văn học so sánh Đông Nam Á: lịch sử, lý thuyết và thực hành (do Viện Hàn lâm Khoa học xã hội phối hợp với Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đồng tổ chức), với tư cách là người đề xuất tổ chức hội thảo, Phạm Phương Chi nhận được lời khuyên rằng những kết luận về đặc trưng của văn học Đông Nam Á và phương pháp tiếp cận đối với nó được trình bày trong cuốn sách này vẫn là điều mà Giáo sư tâm huyết cho đến nay.
12, 21 Trần Thúc Việt (2001), “Vấn đề dân tộc hóa và hiện đại hóa trong nền văn học một số nước Đông Nam Á”, Tạp chí Văn học, số 7.
13 Vũ Tuyết Loan (Biên soạn, 2003), Tuyển tập văn học Campuchia, NXB. Khoa học xã hội.
14 Nguyễn Đức Ninh - Trần Thúc Việt (2007), Diện mạo văn học cận hiện đại Lào, NXB. Khoa học xã hội, tr. 1.
15 Đức Ninh (1985): “Văn học Lào”, Tìm hiểu văn hóa Lào, NXB. Văn hóa.
16 Đức Ninh (Chủ biên, 2016), Quá trình hình thành thể loại tiểu thuyết hiện đại trong văn học Việt Nam và một số nước Đông Nam Á, NXB. Văn học.
17, 20 Trong cuốn: Lê Đức Trung (Chủ biên, 1998), Văn học Đông Nam Á, NXB. Giáo dục.
18 Lê Đức Trung (Chủ biên, 1998), Văn học Đông Nam Á, NXB. Giáo dục, tr. 192.

Bình luận

    Chưa có bình luận