DẤU ẤN HIỆN SINH TRONG TIỂU THUYẾT ''TUỔI NƯỚC ĐỘC'' CỦA DƯƠNG NGHIỄM MẬU

Bài viết phân tích dấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết ''Tuổi nước độc'' của nhà văn Dương Nghiễm Mậu. Thông qua hình tượng nhân vật, tác giả khắc họa tinh tế những chuyển biến trong nội tâm cũng như hành động của nhân vật trước biến động lịch sử, đồng thời thể hiện khát vọng kiếm tìm bản ngã của con người. Đây cũng chính là tư tưởng hiện sinh, mang giá trị nhân văn sâu sắc trong tác phẩm.

   Con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Vì vậy, trên thế gian này không có gì cao quý hơn con người. Maxim Gorky nói “Văn học là nhân học” chính là nói văn học trước hết phải hướng đến con người, đề cao các giá trị về con người. Ở Việt Nam, tư tưởng nhân sinh về con người được biểu hiện rõ trong các tác phẩm văn học dân gian như truyện Tấm Cám, Cây khế. Sau này, tư tưởng đó thể hiện rõ trong các tác phẩm của Nguyễn Gia Thiều, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du. Đến thời hiện đại, tư tưởng nhân văn về con người tiếp tục được thể hiện rõ trong các sáng tác của Ngô Tất Tố, Nam Cao, Kim Lân... Văn học hướng tới con người, miêu tả thân phận con người bị vùi dập, bị chà đạp đến cùng cực, khốn khổ. Qua các tác phẩm, nhà văn vừa lên án tội ác chế độ phong kiến vừa thể hiện tình cảm của mình trước thân phận con người.

   Giai đoạn 1945-1975, đất nước ta trong tình cảnh chiến tranh liên miên. Do yêu cầu của cách mạng thời chiến, văn học tập trung phản ánh cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. Văn học giai đoạn này cũng hướng tới con người nhưng đó là con người của thời đại. Đó là con người cao cả, vĩ đại. Con người đó vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, dũng cảm chiến đấu chống quân thù, sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc, cho dân tộc. Sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975), chúng ta phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình đất nước đã thúc đẩy công cuộc Đổi mới ra đời như một tất yếu của lịch sử và văn học cũng không nằm ngoài tiến trình đó. Kết quả của công cuộc Đổi mới đã làm cho đất nước thay đổi, văn học cũng từng bước chuyển mình. Văn học hướng đến con người cá nhân, giá trị con người đời tư được quan tâm hơn.

   Do điều kiện lịch sử đặc biệt, giai đoạn 1954-1975, đất nước ta bị chia cắt làm hai miền. Ở miền Bắc, chủ nghĩa Marx được tuyên truyền sâu rộng đến quần chúng nhân dân. Một số tác phẩm văn học cách mạng Xô viết, chủ yếu là tác phẩm văn học Liên Xô được dịch và giới thiệu đến bạn đọc. Theo yêu cầu của cách mạng, văn học cũng tập trung phản ánh con người nhưng là con người của thời đại. Hình ảnh người lính dũng cảm trong chiến đấu bảo vệ nền độc lập của dân tộc được đề cao trong sáng tác. Ở miền Nam, tư tưởng hiện sinh của phương Tây được truyền bá, phổ biến. Những tác phẩm mang đậm dấu ấn hiện sinh của các nhà văn phương Tây được dịch thuật, giới thiệu như J. P. Sartre, A. Camus, F. Sagan, S. Beckett đã ảnh hưởng tới đời sống tinh thần của tầng lớp thanh niên, giới nghiên cứu và sáng tác đương thời. Đó là lý do dấu ấn hiện sinh thể hiện rõ trong sáng tác của các nhà văn Nguyễn Thị Hoàng, Dương Nghiễm Mậu, Trùng Dương, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Thanh Tâm Tuyền, Lệ Hằng.

   Tác phẩm của các nhà văn ở hai miền Nam - Bắc giai đoạn 1954-1975 là “quả ngọt” trong vườn văn học nước nhà. Tuy nhiên, do điều kiện chiến tranh kéo dài, do có sự khác nhau về quan điểm trong nhận thức nên vấn đề nghiên cứu văn học miền Nam (1955-1975) có lúc chưa được quan tâm. Hiện nay, tinh thần dân chủ ngày càng mở rộng, vấn đề nghiên cứu văn học miền Nam (1955-1975) không còn bị bó hẹp trong nhận thức. Vì vậy, nó được công chúng cũng như giới nghiên cứu quan tâm, nhằm phát hiện những điều mới lạ về giá trị nghệ thuật của tác phẩm cũng như tài năng nhà văn. Dương Nghiễm Mậu là một trong số nhà văn miền Nam tiêu biểu của giai đoạn này. Ông sáng tác nhiều thể loại như truyện ngắn, truyện dài và tiểu thuyết. Với lối viết hiện sinh, khám phá chiều sâu bản chất con người và sự hiện sinh trong các tác phẩm, nhà văn đã có đóng góp tích cực cho đời sống văn học miền Nam. Tác phẩm Tuổi nước độc là tiểu thuyết đầu tay của nhà văn mang đậm tư tưởng hiện sinh.

   1. Sự xuất hiện chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam nước ta

   Tư tưởng hiện sinh có từ rất sớm và được thể hiện rõ trong triết lý nhân sinh Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Ở phương Tây, cuối thế kỷ XIX nhà triết học người Đan Mạch Kierkegaard (1813-1855) khái quát, hệ thống tư tưởng hiện sinh để trở thành học thuyết. Sau đó, nó được các triết gia như Heidegger hay Jaspers nghiên cứu sâu và phổ biến trở thành triết học hiện sinh nổi tiếng ở Đức thế kỷ XX. Nhờ được trình bày thông qua các tác phẩm văn học, chủ nghĩa hiện sinh nhanh chóng ảnh hưởng sang Pháp tạo nên các tên tuổi nổi tiếng như Garbiel Marcel (1889-1978), Albert Camus (1913-1960), Merleau Ponty (1908-1961). Chủ nghĩa hiện sinh xuất hiện đề cao thân phận và giá trị con người. Chủ đích của nó là “thức tỉnh con người, lôi con người ra khỏi tình trạng phóng thể và giúp con người vươn lên mức sống của những nhân vị tự do và tự nhiệm”1. Từ khi ra đời, chủ nghĩa hiện sinh được giới thanh niên đón chào một cách nồng nhiệt, đồng thời thu hút sự quan tâm của giới khoa học và tạo nên phong trào triết học sôi động, rộng lớn lúc bấy giờ. Chủ nghĩa hiện sinh sau đó được truyền bá, phổ biến và có ảnh hưởng đến nhiều nước, trong đó có miền Nam Việt Nam. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu tư tưởng hiện sinh trong tác phẩm văn học, cụ thể là dấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết Tuổi nước độc của Dương Nghiễm Mậu, không đi sâu tìm hiểu về các quan điểm của thuyết hiện sinh, triết học hiện sinh.

   Do hoàn cảnh đặc biệt của lịch sử giai đoạn 1954-1975, ở miền Nam, với chủ trương mở cửa, du nhập khá tự do nhiều nền văn hóa, trong đó có văn hóa phương Tây và văn hóa Mĩ, nhiều trường phái triết học, mĩ học đã “tràn” vào miền Nam2. Chủ nghĩa hiện sinh có ảnh hưởng không chỉ trong tư tưởng, lối sống của tầng lớp thanh niên mà còn tác động sâu đến đời sống văn học. Nhận định về sự ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh, tác giả Hà Minh Châu cho rằng: “Chủ nghĩa hiện sinh không chỉ ảnh hưởng đến tư tưởng mà còn ảnh hưởng đến quan niệm, lối sống của tầng lớp thanh niên và tác động đến văn học, làm thành dòng văn học hiện sinh ở đô thị miền Nam trước năm 1975”3. Cùng quan điểm này có các tác giả Lê Thị Hường với bài viết “Dương Nghiễm Mậu – hiện tượng tiêu biểu cho sự trở lại của văn học hiện sinh miền Nam (1955-1975)” đăng trên Tạp chí Sông Hương, tác giả Lê Công Sự với bài viết “Chủ nghĩa hiện sinh - Sự hình thành, diện mạo và ảnh hưởng” đăng trên Báo Văn hoá Nghệ An.

   2. Dấu ấn hiện sinh trong Tuổi nước độc của Dương Nghiễm Mậu

   2.1. Tác giả và tác phẩm

   Dương Nghiễm Mậu tên thật là Phí Ích Nghiễm, sinh năm 1936 tại Hà Đông. Khi còn học ở trường, ông đã viết đoản văn, tùy bút cho báo trường và các báo có phụ trang văn nghệ học sinh. Năm 1954, ông di cư vào Nam với gia đình. Dương Nghiễm Mậu viết cho nhiều tờ báo đương thời và viết nhiều thể loại, các phẩm tiêu biểu như: Gia tài người mẹ (1964), Đêm tóc rối (1965), Tuổi nước độc (1966)… Tiểu thuyết Tuổi nước độc là tiểu thuyết đầu tay của Dương Nghiễm Mậu. Tác phẩm ban đầu có tên Đầy tuổi tôi đăng trên Tạp chí Văn nghệ số 2, tháng 3/1961 (sau in thành sách, đổi tên là Tuổi nước độc, Văn, 1966). Tác phẩm viết về Hà Nội những năm 1946, khi quân Pháp trở lại tấn công Nam Bộ và đánh chiếm Hà Nội. Chiến tranh đã làm mọi chuyện trở nên tồi tệ, tất cả dang dở; nhiều cảnh chia lìa, ngang trái xảy ra; các chuẩn mực giá trị bị đảo lộn hết sức phi lý. Tất cả những điều đó tác động sâu sắc đến đời sống tinh thần của lớp thanh niên mới lớn ở vùng đô thị bị chiếm đóng. Ngạc là nhân vật chính trong tác phẩm.

   2.2. Đề tài hiện sinh, con người hiện sinh

   Tiểu thuyết Tuổi nước độc lấy bối cảnh Hà Nội những năm đầu chống Pháp, khi quân Pháp đánh chiếm Thủ đô và quân ta đã rút về vùng chiến khu. Tác phẩm không miêu tả về cuộc chiến mà tập trung diễn tả cuộc sống của người dân vùng tạm chiếm. Đó là cuộc sống khốn khó, túng quẩn, bế tắc… và để sinh tồn người ta phải chấp nhận đi vay nặng lãi. Các vụ ám sát bằng súng, lựu đạn diễn ra bất cứ lúc nào. Tính mạng con người trở nên bấp bênh, vô nghĩa. Một xã hội hỗn loạn, trường học bị đóng cửa, dân chạy loạn đổ xô về, nhà thổ mọc lên, gái điếm đầy đường; tiếng súng, tiếng lựu đạn, tiếng giày đinh, tiếng xích xe nhà binh nghiến trên mặt đường và sự sống của con người trở nên mong manh, rẻ mạt. Trên cái nền màu xám xịt mùi chiến tranh đấy, nhân vật chính (Ngạc) kể câu chuyện về mình và những người bạn. Đó là những thanh niên mới trưởng thành, mỗi người một hoàn cảnh, mỗi người mang trong mình một dự định, một lý tưởng riêng đẹp đẽ nhưng chưa kịp thực hiện thì chiến tranh ập đến khiến họ ngơ ngác. Không thể cứ đứng nhìn chiến tranh đang diễn ra từng ngày, không thể cứ hồn nhiên như cỏ cây được mãi. Phải vượt qua nghịch cảnh, phải vượt ưu tư để vươn tới nhân vị độc đáo! Nhưng bằng cách nào? Để tìm kiếm một lựa chọn đúng đắn nhất, Ngạc và những người bạn đã cùng nhau tranh luận, bộc lộ quan điểm, thái độ. Những cuộc tranh luận thậm chí đã nảy sinh xung đột nhưng kết quả đều bế tắc. Không tìm ra lối thoát, Ngạc sống trong cảnh chán nản, ý thức được nhưng không vượt qua: “Tôi biết mình đang sống trong một cái lưới, với một không khí tức thở ngột ngạt, nhưng dù biết như thế tôi vẫn không sao cựa quậy - hoặc để thoát ra”4.

   Tiểu thuyết Tuổi nước độc không đi sâu miêu tả các sự kiện chiến sự cũng không tập trung mô tả những cảnh ăn chơi thác loạn, truỵ lạc. Tác phẩm tập trung diễn tả trạng thái tinh thần lo âu, tuyệt vọng, nổi loạn của Ngạc trước thực tại phi lý. Hiện thực cuộc sống bế tắc, tương lai mờ mịt cộng với những mất mát trong gia đình, đổ vỡ trong tình yêu đã khiến Ngạc mất hết niềm tin, rơi vào bế tắc. Càng ý thức, càng ưu tư, càng rơi vào tuyệt vọng. Để thoát khỏi tình trạng vô vị đó, Ngạc đã từ bỏ gia đình, tìm kiếm cuộc sống ý nghĩa.

   2.3. Hiện thực cuộc sống trong “Tuổi nước độc”

   Tiểu thuyết Tuổi nước độc là bức tranh phản chiếu một hiện thực xã hội đổ vỡ, phi lý của Hà Nội trong chiến tranh chống Pháp. Trong bức tranh đó, nhân vật Ngạc cùng những người bạn đang rơi vào tâm trạng bất an, chán chường bởi tất cả bị đảo lộn không thể cứu vãn. Chiến tranh đến bất ngờ và thật tàn nhẫn. Câu chuyện thằng Hoạch vừa bị chết ở Vĩnh Yên được Vĩnh kể lại đã gieo vào lòng Ngạc nỗi buồn vô tận. Chiến tranh bùng nổ, Hoạch ở lại và anh ta bị động viên vào lính. Hoạch bị đẩy ra mặt trận, bị bắt và bị bắn chết. Chiến sự ở Hà Nội diễn ra ngày một ác liệt. Những toa tàu màu xám đầy lính, những khối sắt bưng kín với những họng súng đen sì sẵn sàng nhả đạn xuất hiện ngày càng nhiều. Đêm đến, sau những tiếng nổ vang hay tiếng súng ám sát, người ta lại nghe tiếng của giày đinh, tiếng xe thiết giáp nghiến trên mặt đường. Những hình ảnh và âm thanh thanh đó gieo vào lòng người Hà Nội, gieo vào lòng lớp thanh niên mới lớn gây nên sự ám ảnh, sợ hãi.

   Chiến tranh đã khiến nhóm bạn thân của Ngạc chia lìa, mỗi đứa đi một đường, còn lại Ngạc, Vịnh và Trương nhưng mỗi người lại theo đuổi một ý tưởng riêng rẽ chẳng ai giống ai. Vịnh đã quyết tâm theo đuổi lý tưởng của mình, Trương và Ngạc vẫn sống trong bế tắc. Những câu chuyện về tội ác quân Pháp đã rõ nhưng những câu chuyện về quân du kích cũng khiến Ngạc hoang mang. Mặc dù vậy, khi thằng Thu có ý định trả thù bằng cách gia nhập lính nhảy dù thì Ngạc hết sức khuyên can: “Em hãy thử bình tĩnh lại xem sao… Tại sao lại chiến đấu cho một kẻ ngoại xâm - một kẻ thù đô hộ đã đặt xiềng xích trên vai mình. Dù cho mình muốn - mà ở trong hàng ngũ vì mục đích thù hằn nào cũng đã hỏng”5. Chiến tranh mỗi ngày một ác liệt và lan rộng. Dân tị nạn trong các làng quê chạy lên thành phố thêm đông. Chiến tranh đã xô đẩy Ngạc gặp Tân trong bệnh viện. Tân cũng tuổi như Ngạc, cậu ta bị cưa cụt mất một chân. Toàn bộ câu chuyện của Tân diễn ra thật phi lý khiến Tân không còn đức tin. Những ngày sau đó, Tân không trở về quê mà ở lại bệnh viện. Anh ta bán máu để kiếm sống và chờ chết. Người đọc đau thắt lòng khi nghe Tân nói: “Tôi là một thứ nông dân bị bứt khỏi đồng ruộng, để trở thành một kẻ đứng góc đường ăn xin. Phải rồi, ăn xin chứ tôi thì còn làm gì được nữa. Tôi cũng sắp chết rồi, anh nhìn tôi. Tại sao tôi lại thế này?”6. Không khí chiến tranh vẫn vây phủ, thành phố trong cảnh “tranh tối tranh sáng”. Tất cả hiện thực đổ vỡ, đớn đau, phi lý đó như một nọc độc cứ ngấm vào tâm hồn Ngạc.

   Hạnh phúc gia đình đổ vỡ đã tạo ra sự cô đơn, trống vắng trong tâm hồn Ngạc từ sớm. Mẹ chết từ năm Ngạc lên hai tuổi, sau đó ít lâu, bố cũng hoá điên. Ngạc lớn lên trong tình thương của chú thím và ông nội. Song sự bù đắp đó chưa bao giờ đủ để sưởi ấm trái tim bé nhỏ của Ngạc. Chuyện ông nội từng hãm hiếp một đứa ở, chuyện về bố Ngạc bỏ nhà đi và mỗi lần trở về kèm theo một đứa nhỏ, chuyện ông và bố đấu khẩu nhau, kể tội nhau, chuyện về bố Ngạc phát điên và người chú bỏ nhà ra đi… - những câu chuyện trái ngang, buồn đau của gia đình đã thiêu đốt trái tim Ngạc. Trong cõi lòng mình, Ngạc thương mẹ, thương bố, oán giận ông nội: “Tôi ghét và muốn cho ông tôi chết đi - dù ông đã nuôi cho tôi ăn học. Từ ngày hiểu biết tôi không ăn nói ngọt ngào nữa. Tôi xưng tôi với ông nội như một thằng du đãng, vô giáo dục, không chút ngượng miệng”7. Ngạc ghét ông nội nhưng lại phải ở cùng ông, ăn cơm ông. Điều đó càng khiến cậu ta bực bội, bế tắc. Mỗi lần bất chợt nhìn thấy vết sẹo trên má mình, Ngạc lại căm thù mẹ thằng Hùng (em cùng cha khác mẹ với Ngạc). Người đàn bà đó đã nhẫn tâm cầm cái chậu sành và bất ngờ đập vào mặt Ngạc vì ghen ghét bố Ngạc. Người đàn bà bị bắt, Ngạc được cứu sống nhưng vết sẹo thì in dài theo năm tháng. Đó là vết thù mà sau này nhìn thằng Hùng, Ngạc lại căm thù người phụ nữ đó và ghét luôn nó. Tình người trong ngôi nhà Ngạc sống thật nhạt nhẽo, lạnh giá, vô vị.

   Về tình yêu của Ngạc, dù Ngạc yêu Hiền đã mấy năm, bạn bè và gia đình Hiền đều biết nhưng không hiểu sao tình yêu giữa hai người chỉ là những ngày tháng bằng lặng: “… Tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện chúng tôi lấy nhau, lập gia đình rồi đoàn tụ bên nhau. Tự nhiên trong tôi lại mang những ý nghĩ tan vỡ. Tôi thấy bất lực. Nếu như lấy nàng rồi tôi có mang hạnh phúc cho ai không? Và chính ngay cả tôi nữa? Những bom đạn, khói lửa ngột ngạt bên những cái chết cách chúng tôi không xa, làm tôi cảm thấy cái hèn mọn của số phận, cái bất trắc của cuộc sống”8. Cuộc sống buồn tẻ, tâm trạng chán chường đã khiến Ngạc dửng dưng tất thảy, đó là nguyên nhân dẫn tới tình yêu đổ vỡ. Lâm đã bày mưu để bắt cóc Hiền và hãm hiếp nàng, kết quả Hiền trở thành vợ của Lâm. Điều đó khiến Ngạc đau đớn, trái tim Ngạc tưởng chừng vỡ vụn: “Tôi sợ tôi khóc trước mặt nàng, tôi vội vàng rời khỏi căn nhà, tôi nghĩ thế là tôi không bao giờ còn lý do để trở lại đó nữa… Tôi đi như chạy, thế là hết, tôi mất Hiền, không một niềm hy vọng”9 . Khi cầm khẩu súng thằng Thu đưa cho, Ngạc nghĩ đến sự trả thù: “Tôi nghĩ đến thằng Lâm - tên khốn kiếp. Tao muốn bắn vào giữa mặt mày cho tan ra”10. Thật may là Ngạc không gặp Lâm.

   2.4. Con người cô đơn, bất lực, tha hoá

   Đọc Tuổi nước độc, ta nhận ra sự phi lý của xã hội, sự cô đơn, bế tắc và tha hoá của con người. Không ai hiểu hết nỗi lòng cô đơn của Ngạc cho đến khi nỗi lòng ấy được bộc bạch qua bức thư gửi người chú ruột. Sự cô đơn và bế tắc trong suy nghĩ đã khiến Ngạc trở nên mất phương hướng. Ngạc vô cớ nện cho con chó Tây một cái vào đầu khi nó đang vẫy đuôi với Ngạc, nhìn vết sẹo trên mặt mình, Ngạc căm thù ngay chính đứa em cùng cha khác mẹ với mình. Ngạc tìm cách sỉ nhục nó quá mức, khiến thằng Hùng cầm cả cái bàn là đánh vào mặt Ngạc. Buồn chán khiến Ngạc uống rượu say suýt nữa thì hiếp dâm ả gái điếm mà Ngạc tưởng là “con bé Tàu lai”. Hình ảnh người thím đi tìm chồng bị vướng mìn “hỏng cả mắt, gãy cả chân tay” cứ ám ảnh Ngạc. Ngạc đã bắn chết người thím, giúp thím “chết đi cho đỡ khổ”. Trong Tuổi nước độc, ta bắt gặp nỗi cô đơn, sự bế tắc dẫn tới tha hoá không riêng ở Ngạc mà còn diễn ra ở các nhân vật khác như ông nội Ngạc, bố Ngạc và những đứa em.

   Nỗi cô đơn và tâm trạng chán chường vì những điều phi lý, vì mất niềm tin được mô tả và biểu hiện qua nhiều nhân vật như Trương, Vịnh, Thịnh, Trịnh, Hợp. Trong đó, nhân vật Tân mà Ngạc tình cờ gặp ở bệnh viện là nhân vật thể hiện rõ nét nhất của một tâm hồn lạc lối, bế tắc và mất phương hướng. Tân cũng giống như Ngạc chán ghét chiến tranh, chán ghét những điều phi lý, mất hết niềm tin. Tân có một gia đình hạnh phúc ở quê gồm bố mẹ và anh trai. Chiến tranh đến đã làm mọi thứ đảo lộn: bố chết còn Tân bị cắt mất chân. Chiến tranh đã xô đẩy Tân khỏi ngôi nhà thân yêu của mình, biến anh ta thành phế nhân và sống đời lưu lạc. Ngạc cũng như Tân, vừa mang nỗi đau về thể xác vừa mang nỗi đau lớn về tâm hồn. Ý thức thoát khỏi con người phóng thể để vãn hồi nhân vị đã thôi thúc Ngạc hành động và cuối cùng Ngạc cũng ra đi. Ngạc tìm đến gia đình Vịnh, nơi có mẹ Vịnh và chị Huệ là những người thương Ngạc. Chiến tranh tiếp tục lan rộng và kéo dài, Ngạc vẫn đi bên lề cuộc chiến và thừa nhận sự yếu hèn, bất lực của mình: “Chiến tranh đang diễn ra, chúng tôi đứng trước những thảm trạng lớn lao của cả một dân tộc, chúng tôi muốn làm một cái gì đó có ích cho mọi người, nhưng… với sự nhỏ bé của mình. Chúng tôi vô vọng trong cuộc sống”11.

   3. Kết luận

   Viết về thân phận con người trong biến động lịch sử, Tuổi nước độc của Dương Nghiễm Mậu cho thấy chiến tranh thật tàn nhẫn. Nó đảo lộn tất cả các chuẩn mực xã hội, phá hủy hết thảy những giá trị tốt đẹp. Thân phận con người trong chiến tranh khốn khổ, mỏng manh, rẻ rúng. Họ phải đối mặt với nhiều khó khăn, nguy hiểm trong cuộc sinh tồn. Nhân vật Ngạc cùng những người bạn ý thức được vai trò của cá nhân trong cơn biến động lịch sử xã hội to lớn đó nhưng bất lực trước thực tại. Sự bất lực, bế tắc đó đã đẩy Ngạc rơi vào cô đơn, chán chường, lạc lõng, bế tắc và tha hóa. Đó cũng là trạng thái tinh thần chung của những người bạn của Ngạc. Những người bạn đã quyết định ra đi như một sự trốn chạy, mỗi người một kiểu. Ngạc cũng ra đi nhưng bên lề cuộc chiến. Tương lai Ngạc sẽ sống như thế nào là một câu hỏi khó trả lời. Miêu tả tinh tế những chuyển biến trong nội tâm cũng như hành động của nhân vật trước biến động lịch sử, tác giả đã bộc lộ sự bất bình, căm ghét của mình đối với chiến tranh, đối với quân xâm lược. Đồng thời, bày tỏ nỗi khát vọng kiếm tìm bản ngã của con người. Dẫu chưa có một kết thúc trọn vẹn, song Tuổi nước độc đã thể hiện rõ những tình cảm sâu sắc của tác giả dành cho nhân vật, nhất là nhân vật chính. Đó chính là sự trăn trở về thân phận con người, về ý nghĩa tồn tại của con người khi đối diện với sự tan vỡ, mất mát và sự bế tắc trong cuộc sống. Đây chính là tư tưởng nhân văn cao đẹp và cũng là tư tưởng hiện sinh trong tác phẩm.

 

 

 

Chú thích:
1 Trần Thái Đỉnh (2005), Triết học hiện sinh, NXB. Văn học, tr. 56.
2 Trần Hoài Anh (2023), Lý luận - phê bình văn học miền Nam 1954-1975: Tiếp nhận và ứng dụng, NXB. Hội Nhà văn.
3 Hà Minh Châu (2021): “Dấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết của Nguyễn Thị Hoàng”, nguồn: https://nsti.vista.gov.vn/publication/download/ hE/qFZhsUehEsUeZh.html.
4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 Dương Nghiễm Mậu (2021), Tuổi nước độc, NXB. Hội Nhà văn, tr. 15, 51, 66, 21, 24, 87, 90, 102.

Bình luận

    Chưa có bình luận