CẢM THỨC SINH THÁI TRONG TẬP NGỤ NGÔN HIỆN ĐẠI ''CHÚNG TÔI CÓ MẶT'' CỦA VÕ HỒNG

Từ góc nhìn sinh thái, bài viết phân tích thế giới nhân vật loài vật trong tập truyện ngắn ngụ ngôn hiện đại ''Chúng tôi có mặt'' của nhà văn Võ Hồng để làm rõ hơn cách tác giả lý giải các mối quan hệ giữa vạn vật với con người và gửi gắm những bài học nhân sinh mang đậm truyền thống của dân tộc.

   Võ Hồng là một trong những tác giả tiêu biểu của văn xuôi miền Nam giai đoạn 1954-1975. Tên tuổi của ông cùng những trang viết nhẹ nhàng, bình dị, thâm thuý, lắng sâu tình người, tình đất đã đi vào ký ức văn hoá của nhiều thế hệ bạn đọc Việt Nam.

   Từ Mùa gặt – một truyện ngắn viết trên bích báo của học trò lớp đệ tam trường Collège Quinhon – được Võ Hồng (với bút danh Ngân Sơn) gửi đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy năm 1939, “mô tả lại làng quê của mình, có con trâu, con bò, củ khoai củ sắn, cô chú bác trong làng, đám bạn nhỏ và sau đó là cảnh mùa gặt lúa ở nơi làng quê nghèo khó của mình. Truyện không có nhân vật, chỉ có cảnh con người tất bật với việc đồng áng”. Tác phẩm này đã mở ra trang đầu tiên cho sự nghiệp sáng tác của ông. Phải đến Hoài cố nhân, 20 năm sau, ông mới thật sự bước vào con đường văn chương chuyên nghiệp, để rồi trong hơn tám thập kỷ sống và viết, ông đã để lại di sản về một nhân cách cao đẹp và một tâm hồn thiết tha hoài niệm và yêu thương.

   Gắn bó một đời, sống và viết để “trả hiếu” cho quê hương, nhà văn đất Ngân Sơn, Tuy An trong hơn 100 truyện ngắn, truyện dài, đặc biệt là 8 tiểu thuyết và nhiều bài bút ký, tuỳ bút đã để lại trong lòng người đọc chân dung “một khuôn mặt đặc biệt Việt Nam - tiếng nói của một tâm tưởng trong một bản sắc của tình tự con người sống động trên phần sống của mình, keo sơn với phần sống thực của quê hương qua từng chặng đường lịch sử”.

   Điểm qua chưa đầy đủ, đã có hàng trăm bài viết về ông từ những người đọc đầu tiên như Nguyễn Văn Xuân (1960), Phạm Công Thiện (1963), Tạ Tỵ (1972), tám bài viết đặc sắc và một bài phỏng vấn trong Tạp chí Văn số 32 năm 1974 - số đặc biệt dành cho Võ Hồng, hay những bài viết và công trình công phu về cuộc đời và tác phẩm của ông bởi tác giả Nguyễn Thị Thu Trang (2003). Ở nước ngoài, có Nguyễn Lệ Uyên và các tác giả của Thư quán bản thảo (2009), đặc biệt sau khi Võ Hồng từ giã cuộc đời năm 2013, xuất hiện thêm hàng loạt bài viết của nhiều cây bút với nhiều góc tiếp cận như Đặng Tiến, Trần Huiền Ân, Phạm Chu Sa, Đào Đức Tuấn, Nguyễn Vy Khanh (2016)… Cuộc hội thảo kỷ niệm 100 năm ngày sinh Võ Hồng tại quê hương Phú Yên thương nhớ của ông năm 2022 cũng góp thêm nhiều tiếng nói khẳng định những đóng góp quý báu về văn chương và phẩm hạnh của tác giả Hoài cố nhân, tiêu biểu như bài của các tác giả Huỳnh Như Phương, Võ Văn Nhơn, Nguyễn Thị Thanh Xuân, Trần Hoài Anh, Trần Xuân An... Thế nhưng, khác hẳn với các đề tài quen thuộc như quê hương trong cơn lửa đạn loạn ly, niềm hoài nhớ khôn nguôi về những nếp sinh hoạt êm đềm đã mất hay những câu chuyện học đường trong trẻo, những bài học giáo dục nhẹ nhàng rèn giũa nhân cách, tập truyện mang tính chất ngụ ngôn hiện đại Chúng tôi có mặt của Võ Hồng lại mang một phong cách sáng tác khác hẳn. Đây như một sự thể nghiệm về chuyển đổi thể loại và điểm nhìn nhân vật được tái bản nhiều lần và đăng tải toàn văn trên Thư viện Quảng Đức, nhưng lại hầu như không được nhắc đến trong tầm đón nhận của người đọc. Chỉ có hai ý kiến đề cập trực tiếp đến tác phẩm này. Đầu tiên, phải kể đến bài viết Võ Hồng, người luôn nặng lòng với quê hương (2018) của tác giả Nguyễn Lệ Uyên, trong đó bà đã dành một nửa dung lượng bài viết để giới thiệu Chúng tôi có mặt và phân tích 4/30 truyện. Ý kiến thứ hai, vào năm 2013, tác giả Nguyễn Thị Thu Trang trong công trình Võ Hồng - nhà văn (bản điện tử) có điểm tên tập truyện rất ngắn Chúng tôi có mặt và tóm tắt cũng rất ngắn 2 truyện Cố vấn luôn có lýTrị giá của giá trị. Phải chăng do đây chỉ là một tập truyện đơn giản viết về loài vật? Hay là truyện viết cho trẻ con vốn vẫn bị xếp hàng thứ yếu sau truyện ngắn và tiểu thuyết về phương diện nghệ thuật?

   Thực tế, tập truyện đã được phổ biến rộng rãi ở dạng ebook lẫn sách nói trong tủ sách Phật học, được xếp vào thể loại truyện thiếu nhi và tái bản 3 lần. Đây là một đóng góp độc đáo ở giá trị gìn giữ và bồi đắp hồn người trong chiều sâu văn hoá dân tộc. Cách xây dựng câu chuyện, cách nâng niu trân trọng từng con vật quanh mình vừa mang motif truyện ngụ ngôn dân gian, vừa cho thấy một cảm thức sinh thái độc đáo, mở ra một hướng tiếp cận mới cho sáng tác của Võ Hồng cũng như cho truyện ngụ ngôn hiện đại Việt Nam.

   Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ khảo sát tác phẩm, kết hợp phương pháp phân tích tổng hợp, loại hình và phê bình sinh thái để làm rõ hơn giá trị đặc sắc của tập truyện ngụ ngôn hiện đại đầy giá trị nhân văn này, đồng thời khẳng định cảm thức sinh thái tôn trọng sinh mệnh muôn loài đã được thể hiện rất sớm trong sáng tác của Võ Hồng từ những năm 1970 như một trong những cây bút tiên phong.

   1. Chúng tôi có mặt – ngụ ngôn hiện đại giàu sắc thái nhân sinh

   Trong 14 tác phẩm gồm truyện ngắn, thơ và truyện thiếu nhi xuất bản sau 1975 của Võ Hồng, Chúng tôi có mặt là một tập truyện khá đặc biệt. Tác phẩm tập hợp 30 truyện ngắn và rất ngắn (truyện dài nhất 15 trang, ngắn nhất 5 trang), được khởi viết từ năm 1972 nhưng mãi đến hai mươi năm sau, 1992, mới được xuất bản. Ngay trong Lời mở đầu, Võ Hồng viết: “Tôi viết tập truyện nhỏ này với niềm say mê thích thú chưa từng có. Một mình trên căn gác, suốt ngày tâm hồn đắm vào thế giới loài vật những cọp những beo, cáo, gấu, chìa vôi, bìm bịp, chèo bẻo... tôi tưởng như chúng đang chạy nhảy và đối thoại quanh tôi. Thật là những giờ phút kỳ diệu”. Đúng vậy, thế giới nhân vật đã cho ông “những giờ phút kỳ diệu” ấy trong tập Chúng tôi có mặt là một thế giới thu nhỏ của toàn bộ sinh vật muôn loài. Ông trân trọng gọi tên sự hiện diện của từng con vật nuôi trong nhà như Chó, Mèo, Heo, Bò, Gà, Vịt, Ngỗng (trong Hữu thân hữu khổ, Tinh thần ái hữu, Chân dung hạnh phúc…). Hay những con vật hoang dã ngoài rừng: Cọp, Sư Tử, Cáo, Gấu, Chồn, Beo, Khỉ, Thỏ, Nai, Heo Rừng… (Hoàng hôn của quyền lực, Khi khốn khổ mới biết ai là bạn, Khi tiểu nhân đắc thế, Nơi kẻ có quyền cái xấu cũng đẹp…). Từ tất cả chim muông trên trời cũng được điểm danh: Sáo Sậu, Cưỡng, Hoạ Mi, Bạch Yến, Hồng Yến, Cuốc, Két, Gầm Ghì, Quạ, Sếu, Cò, Bìm Bịp, Ác Là, Gõ Kiến, Chào Mào, Chim Sẻ, Quành Quạch, Chìa Vôi… (Trái núi đẻ ra con chuột, Khi kẻ trí chết vì người ngu), đến toàn bộ những loài dưới nước: Rái Cá, Cá lớn, Cá nhỏ, Tôm, Cua, Ốc, Hến, Nhện nước, Nòng Nọc, Đỉa Mén, Đỉa Trâu, Cung Quăng, Niềng Niễng và cả họ tộc nhà Rắn… (Trái núi đẻ ra con chuột). Chưa hết, cả những loài vốn bị coi là ký sinh như Bọ Chét, Rệp, Rận hay cả đời chui rúc dưới đất như Trùn, sống trong bóng tối như dòng họ nhà Chuột cũng có mặt (Huy chương nào cũng có mặt trái, Chìa khoá của hạnh phúc, Luôn có một kẽ hở). Có kẻ oai quyền như Vua Cọp, Sư Tử. Có kẻ nhỏ bé như Muỗi Cỏ, Ruồi, Lằn Xanh. Đặc biệt, nhân vật Diêm Vương trong Những cái cân cũng thường sai cũng lười biếng, qua loa, đại khái, xử kiện một cách máy móc, phán tội chỉ tính theo số đầu sinh mạng bị con người giết hại mà không phân biệt lý lẽ công bằng.

   Thực vật xuất hiện khiêm tốn hơn, là các loại cây và hoa bất kể sang hèn như Tùng Bách, Tường Vi, Thược Dược, Cúc, Bằng Lăng, Thuỷ Tiên, Tứ Quý, Lài, Hồng Môn, Lan, Chùm Rụm… trong Niềm ân hận của người quân tử, hay cây Ớt mập mạp và cây Ớt còi trong Bạo phát bạo tàn.

   Các nhân vật là loài vật trong tác phẩm này được nhân hoá, có thể nói năng, đi đứng, suy nghĩ, yêu đương, hành động một cách lém lỉnh hay đạo mạo, chính trực hay gian xảo giống như thế giới con người, dù vẫn mang những đặc điểm riêng của giống loài. Bóc tách lớp ý nghĩa qua từng hình ảnh, ngôn ngữ, cử chỉ, hành động của các nhân vật này trong từng truyện, có thể thấy rõ ràng đây không chỉ là những câu chuyện dành cho thiếu nhi. Với đặc trưng của thể loại ngụ ngôn, 30 truyện là 30 bức tranh như những vở kịch một màn, dựng lên một thế giới sinh động, phong phú, bình dị của cỏ cây và muôn loài động vật hoang dã mà gần gũi, quen thuộc. Trong đó chứa đựng những bài học nhân sinh về cách sống cho mọi lứa tuổi, mang nhiều ý nghĩa theo cách nhìn của nhà văn - nhà giáo Võ Hồng, dù ông khiêm tốn giãi bày trong lời mở đầu: “Những truyện loại này người ta quen gọi là ngụ ngôn. Với tôi thì không hẳn đúng bởi tôi không có hậu ý dạy điều khôn dại mà chỉ muốn người đọc chơi vui với một thế giới hồn nhiên dễ thương”. Ông không răn dạy ai, mà quan niệm rằng viết là một sự tự răn mình. Khen chê về cái tốt và cái xấu của loài người, điều đó không lạ. Mượn hình thức ngụ ngôn, điều đó không mới. Nhưng khi hiểu tâm lý người đời tới mức coi “tính tốt nhiều khi chỉ là tính xấu trá hình”... thì ta sẽ không quá khen ai, cũng chẳng quá chê ai. Sẽ không nghĩ rằng tôi muốn ám chỉ ai qua những truyện này, bởi chính tôi tự biết mình có đủ tính xấu như mọi người, khác nhau chỉ ở độ nặng nhẹ mà thôi.

   Chúng tôi có mặt của Võ Hồng có sự kết hợp motif của truyện ngụ ngôn truyền thống qua thủ pháp nhân hoá nhân vật và kết cấu ẩn dụ. Tên truyện gần với nhiều truyện ngụ ngôn dân gian, song có độ dài lớn hơn, kết cấu tình tiết phức tạp hơn, số lượng nhân vật đông hơn và mang nhiều cảm xúc, trầm tư suy ngẫm. Võ Hồng đã hiện đại hoá thể loại này: mỗi truyện là một màn kịch sống động, hóm hỉnh với kết cấu đa dạng, không bị gói gọn trong những bài học luân lý, châm ngôn. Tác phẩm cũng không quá đề cao kết cục nhân quả ở một số truyện mà thường bỏ lửng, tạo ra sự bất ngờ, có khi là hụt hẫng. Người đọc sẽ không bị những công thức truyền thống của truyện ngụ ngôn dân gian làm mất đi hứng thú khi dễ dàng đoán ra kết cục. Tuy nhiên, câu chuyện không chỉ dừng lại ở việc vui chơi. Dù nói “không hậu ý dạy điều khôn dại”, nhà văn cũng không hề phủ nhận tính chất đạo lý, giáo dục của các câu chuyện mượn đời sống của động vật, thực vật để gán cho chúng những tâm tư, tình cảm của con người: “Cười xong, suy nghĩ một chút, nhẹ nhàng. Nếu thấy có một khuyết điểm nào đó giống của mình thì tự sửa hoặc đề phòng. Của người thì rộng lượng tha thứ”. Qua đó, chúng ta có thể nhận rõ những bức tranh phản ánh xã hội loài người qua cái nhìn ý nhị, có lúc khoan hoà, có khi dí dỏm của ông.

   Những tật xấu của con người như khoác lác, hám lợi, ba hoa cũng được Võ Hồng chế giễu trong Hãy tìm cái xấu của mình trước, Khi khốn khó mới biết ai là bạn, Khó xoá một định kiến, Tinh thần ái hữu, Ảo tưởng đẹp hơn sự thực. Trong truyện đầu tiên, tác giả miêu tả thật sinh động thế giới côn trùng ở Đầm Lác: Dơi, Bọ Hung, Chuột Chũi, Quạ, Két, Quành Quạch, Chích Choè… nơi con lớn ăn hiếp con nhỏ, con mạnh đè nén con yếu. Một hôm, cư dân Đầm Lác quyết định cử Bọ Hung làm hương quản. Câu chuyện trở nên khôi hài khi từ lúc có chức vụ, bác Bọ Hung vốn hiền lành, ít nói, ai nói gì cũng bỏ ngoài tai, bỗng trở nên ba hoa, nhiều khi còn cả gan phiêu lưu vào những lĩnh vực mình không hề biết, rồi hoạnh hoẹ mấy chị Tò Vò, Cà Cuống, mắng mỏ chị Bọ Xít là bẩn, là hôi… mỗi khi đuối lý. Câu chuyện bật ra tiếng cười hả hê khi tác giả cho Rệp Cây len lén bò gần chân Bọ Hung và phát hiện ra mùi hôi chính là từ Bọ Hung. Kẻ xấu không tự biết mình mà chỉ lo moi móc cái xấu của người khác.

   Truyện Khó xoá một định kiến mang ý nghĩa giáo dục nhẹ nhàng rằng ở đời nên bớt khoe khoang, khoác lác. “Bước vào đời với những tính tốt, những hành động tốt, cử chỉ tốt… Kẻ xung quanh sẽ kết luận tốt về cậu em. Ngược lại, nếu chỉ có tính xấu, hành động xấu, cử chỉ xấu thì họ kết luận xấu. Sau này dù có đổi xấu thành tốt thì họ vẫn giữ thành kiến trong một thời gian dài”. Truyện Khi tiểu nhân đắc thế lại đưa ra cái nhìn nghiêm khắc đối với Cáo. Vì tội mách lẻo, đâm thọc, Cáo bị Gấm Sao đánh cho một trận. Nó khóc lóc, van xin tha tội. Khi bị Gấm Sao kẹp chặt tưởng chết, Cáo ra sức vùng vẫy, không ngờ mũi nhọn của nó đâm trúng một mụt nhọt ở háng Gấm Sao, khiến Gấm Sao đau đớn đột ngột bỏ đi. Cáo bất ngờ thoát nạn, liền quay lại trở mặt, huyênh hoang khoe rằng thế võ và chiến lược của mình đã đánh bại Gấm Sao. Người đọc có thể thấy sự liên văn bản trong truyện Cố vấn luôn có lý của Võ Hồng với truyện ngụ ngôn dân gian Việt Nam như Đẽo cày giữa đườngQuạ mượn lông công. Nhân vật Bò Cộ vì ghen tức, nghi ngờ Bò Bỉnh ve vãn vợ mình nên quyết tìm cách chạy nhanh như Ngựa để rượt theo. Nghe lời Dê, Bò Cộ đến Phòng khiếu nại đòi xin cái đuôi ngựa. Nghe lời Heo, nó lại xin cái bờm ngựa. Nghe lời Cò, anh ta lại cưa bỏ đôi sừng của mình cho giống đầu Ngựa. Cuối cùng, lần nào cũng thất bại, mục đích phi nước kiệu tan thành mây khói. Cái dáng “Bò không ra Bò, Ngựa không ra Ngựa” khiến tập thể Bò khinh bỉ, còn tập thể Ngựa thì phẫn nộ, coi đó là một sự xúc phạm. Truyện Hữu thân hữu khổ làm người đọc phải bật cười vì cái vòng luẩn quẩn kiểu “Mèo lại hoàn mèo”. Trâu cho mình là kẻ khổ nhất, nào ngờ khi gặp Chó, Ngựa, Chìa Vôi, Cá, con vật nào cũng kể lể, cho rằng mình mới là kẻ khổ nhất trần gian. Trâu buồn bã, lặng lẽ về chuồng nằm, không muốn hỏi ai nữa. Bỗng nó bật cười ngả nghiêng khi nghe tiếng ông chủ cãi nhau với vợ, phân bì: “Bà hành hạ tôi mọi giờ. Nói thiệt, con trâu con ngựa, thậm chí con chó còn sướng hơn tôi”.

   Bức tranh hiện thực xã hội mạnh thắng yếu thua, kẻ chức quyền hống hách cũng hiện lên đậm nét trong Hoàng hôn của quyền lực. Truyện kể về tuổi xế chiều của một con Cọp già hết thời, cô độc, muốn tìm bạn nhưng các con vật kẻ thì sợ hãi chạy trốn, kẻ lỡ bị bắt gặp thì tìm kế thoát thân. Chỉ có Trùn đất và Heo Rừng là nói thẳng sự thật và không hề khiếp sợ. Tác giả để cho người đọc tự ngẫm bài học về cách sống của kẻ cầm quyền: “khi trẻ hung bạo, gieo rắc tai hoạ, loài nào cũng nơm nớp lo sợ” lại còn sống với một “bộ mặt đạo đức giả”, khác với Heo Rừng “thiệt thà cục mịch, đáng húc thì húc, đáng chạy thì chạy, minh bạch”. Truyện Tinh thần ái hữu phê phán những kẻ chỉ giỏi lý thuyết suông, thiếu thực tế và chỉ trích việc lập ra các hội nhóm nhưng thực chất chỉ để đấu đá lẫn nhau. Nỗi lòng thái sử lại mang dáng dấp hiện đại khi phơi bày những ung nhọt của xã hội đương thời. Đó là chuyện góc khuất nơi triều đình, Cọp vợ nhận đút lót, ép Vua Cọp giao cho kẻ bất tài làm nguyên soái đánh giặc. Màn kịch hài hước diễn ra khi nguyên soái Tê Giác nghênh ngang, chậm chạp, phát lệnh xuất quân một cách ngọng nghịu, làm trò hề cho cả triều thần. Nào ngờ, “chó ngáp phải ruồi”, nhờ ngu dốt cứ xông loạn vào phía đỉnh núi mà đối phương không phòng bị, Tê Giác lại đánh thắng trận. Khổ thân cho Thái sử Cồng Cọc, muốn ghi chép công trạng mà chờ mãi Tê Giác không báo cáo được đã dùng chiến thuật nào, chỉ lắp bắp hai câu: “Dạ… nhào tới”, “Thì cứ… nhào tới”.

   Thói xu nịnh, luồn cúi kẻ có quyền chức trong triều đình của tân vương Cọp cũng làm người đọc liên tưởng đến kiểu Bộ quần áo mới của Hoàng đế trong truyện cổ Andersen, được Võ Hồng gọi đích danh trong nhan đề Nơi kẻ có quyền cái xấu cũng đẹp. Tân vương bị tai nạn nên có tật cong lưng. Triều thần ai cũng lo tập ngày đêm cho lưng mình cũng cong theo. Tân vương thích một cây mè dại mộc mạc chứ không phải các loài hải đường, mẫu đơn vương giả, triều thần cũng giành giật nhau trồng cây mè trước cửa để lấy lòng vua. Xã hội của Cọp hay chính là xã hội con người, thời nào cũng không thiếu kẻ chăm chăm mưu lợi, cúc cung một cách mù quáng. Vấn đề đáng sợ là cả một tập thể quần thần mang trọng trách với dân với nước lại hành xử như vậy.

   Kẻ trí chết vì người ngu là câu chuyện về Thiêu Thân và Muỗi Cỏ với những triết lý sâu sắc: “Anh thắng kẻ quyền lực tài trí nhưng lại bị bại vì đứa ngu khờ. Anh thắng kẻ thù đối mặt nhưng lại bị bại vì đứa mà anh tưởng là tri kỷ”. Chìa khoá của hạnh phúc cũng là một truyện đồng thoại nhiều ý nghĩa về cách sống ở đời. Lũ Chuột nhà chạy loạn xạ ban đêm làm cụ Trâu mất ngủ. Trâu bèn bày mưu, kể chuyện gieo vào tâm trí bọn trẻ mơ ước về một không gian khoáng đãng, có trời cao đất rộng, có núi đồi, đồng ruộng và những quả rừng thơm phức mà chúng chưa hề biết. Ngược lại, với lũ Chuột đồng, cụ lại kể về cuộc sống ấm cúng, không phải chịu mưa dầm lạnh lẽo, có lúa, có gạo và cả tivi. Thế là cả Chuột Đồng lẫn Chuột Nhà đều thôi chí choé mà trầm tư mơ tưởng về nơi chốn lý tưởng mà cụ vẽ ra. Trâu đắc chí vì kế sách của mình hiệu quả. Nhưng, triết lý Trâu dạy cho Trâu Nghé mới thật là điều để giới trẻ ngẫm nghĩ: “Này con, muốn có Hạnh Phúc ở đời, phải biết hạn chế sự ham muốn. Khi không có cái mình thích, hãy thích cái mình có”.

   Có những truyện mà đọc qua một lần thật sự chưa thể giải mã ngay những thông điệp tác giả gửi gắm, chẳng hạn như truyện Lâu đài trên cát. Khỉ Thọt sống trong một khu rừng rậm hoang vu, không biết từ khi nào đã có ý niệm “Khỉ là tổ tiên của loài người” và tin vào những lời nịnh hót dối trá của Két rằng loài người là con cháu của Khỉ Thọt, nhớ tổ tiên lắm và sẽ đón về. Một hôm, có đoàn thám hiểm đến rừng sâu dựng lều, Khỉ Thọt cho rằng đó là con cháu hiếu thảo nên đưa gia đình đến nhận họ hàng. Ngay cả khi bị người trong đoàn thám hiểm xua đuổi không được và bị bắn mấy phát, Khỉ Thọt cũng không hiểu nổi tại sao con cháu loài người lại chào đón tổ tiên bằng thứ văn minh máy móc kỳ lạ như vậy. Phải chăng, ngoài việc nhắc lại thuyết tiến hoá của Darwin, học thuyết về nguồn gốc loài người bắt nguồn từ vượn, sâu xa hơn, tác giả muốn cảnh tỉnh sự băng hoại đạo đức của xã hội công nghiệp hiện đại, nơi máy móc thay thế khiến con cháu xa rời nguồn cội, vô ơn, bạc bẽo, phủ nhận tổ tiên và thậm chí nã súng vào quá khứ?

   Nói đến những bài học triết lý về quy luật cuộc sống, Chúng tôi có mặt còn có hai truyện nhẹ nhàng về loài thực vật khá xúc động và đáng suy ngẫm. Bạo phát bạo tàn mượn hình ảnh của hai cây Ớt. Một cây tốt tươi mập mạp. Một cây còi cọc, “hẩm hiu đơn thân chống cự với rầy nâu, với kiến đỏ” và bị chế giễu, khinh khi. Nhưng rồi quy luật sinh diệt tuần hoàn… Lũ ớt tươi tốt ngày nào còn huyênh hoang đâu biết vòng đời ngắn ngủi, lụi tàn đã đến. Ớt Còi sống tằn tiện, phát triển chậm chạp từng nhánh khẳng khiu, từng lá nhỏ nhưng lại sống sót được ba năm. Hiểu quy luật đất trời, Ớt Còi bình thản chờ ngày tàn lụi. Võ Hồng đã kín đáo nói với chúng ta một triết lý giản đơn: Cuộc sống thịnh suy đều là quy luật. Thịnh không huênh hoang, suy không buồn nản. Ung dung tự tại, biết mình biết người, nhận rõ quy luật tuần hoàn của tạo hoá mà an yên vui sống. Phải chăng đó cũng là cách sống mà bản thân ông đã lựa chọn. Thế giới thực vật trong câu chuyện thứ hai, Niềm ân hận của người quân tử cũng là một thế giới rất thực: có kẻ cao ngạo, có kẻ kiêu kỳ, có kẻ an phận và có kẻ bị hiểu lầm. Qua cuộc trò chuyện giữa cây Tường Vi và cây Bách Tùng, ban đầu Chùm Rụm bị chê trách vì “cong lưng uốn cổ nịnh theo bàn tay người mà khoe hình Phượng hình Long” khi để người ta cắt uốn thành các hình cây kiểng. Bách Tùng, hình tượng của người quân tử, cũng điềm đạm đồng tình: “Cong lưng uốn mình, chiều theo ý thức của người ta thì đúng là không hay”. Thế nhưng, có ai thấu được khát vọng tự do, vượt thoát khỏi cảnh cá chậu chim lồng của loài cây kiểng trong nhà người. Phải chăng đó cũng là tiếng lòng của người con đất Ngân Sơn, bao mùa mưa nắng giấu kín nỗi nhớ thương, chưa một lần trở lại Tuy An. Hãy nghe Chùm Rụm xót xa nhắn gửi về quê hương: “Có dịp bay qua doi núi Lò Gốm thôn Ngân Sơn xin nhắn dùm với mấy bụi Chùm Rụm nơi đó rằng tôi nhớ bà con, thèm về thăm bà con, thèm về ở cạnh bà con. Nhưng biết làm sao đây? Mang hình dáng lố lăng này về, bà con sẽ nghĩ sao? Liệu có chấp nhận tôi không?”. Và cũng như mượn lời Bách Tùng khi hiểu ra sự thật: Mình vẫn bị cái dáng xấu xí của Chùm Rụm ảnh hưởng. “Bị xuyên tạc, bị chê bai, bị hiểu lầm mà không lên tiếng giãi bày, đính chính”… “Chùm Rụm cho qua đi những nỗi bất bình. Âm thầm lắng chịu. Một phẩm cách cao hơn mình. Cao hơn mình…”.

   Người đọc không khỏi chùng lòng trước bài học đầy ý nghĩa trong truyện cuối cùng, Sự im lặng của mặt trời, qua lời bác Thỏ Gái dạy bảo Thỏ Non: “Ta thấy ta rõ hơn. Ta có những khuyết điểm. Những khuyết điểm đó khiến ta bị chê thì được, bị khinh thì không”. Giả trá không phải là để chê, mà là để khinh. Nhiều câu trong lời Thỏ Bạch là những trải nghiệm sâu sắc: “Mỗi hoàn cảnh sẽ rèn cho ta mỗi thái độ (…) nhưng sự ở đời vốn không toàn hảo nên mình phải sống như một kẻ chột mắt. Có nghĩa là mình hãy “nhìn cái tốt với con mắt sáng, cái xấu với con mắt đui”. Làm sao có thể “vừa giữ cho được nụ cười. Gắng giữ một điểm lạc quan dẫu nhỏ”. Câu cuối cùng của cả tập truyện khiến người đọc không khỏi liên tưởng đến cuộc đời của nhà văn, dường như “Mặt trời còn cô đơn hơn ta biết bao!”.

   Với ngôn ngữ bình dị gói trọn âm hưởng của một miền quê nghèo, mỗi câu chuyện ngụ ngôn hiện đại của Võ Hồng vẫn đong đầy những giá trị đạo đức truyền thống quen thuộc của dân tộc. Tác phẩm đi vào lòng người bởi chính cái mộc mạc, hồn nhiên, vừa trẻ thơ vừa sâu lắng, mang trọn bản sắc tâm hồn của một người con nặng tình với quê hương xứ sở. Võ Hồng hoàn toàn ý thức khi chủ động “để những con thú nói ngôn ngữ bình dân của địa phương tôi, thứ ngôn ngữ hàng ngày mà văn chương hay tránh. Tôi thương yêu và tôn trọng ngôn ngữ đó bởi nó phản ảnh nếp sinh hoạt tinh thần của bà con quanh tôi và sợ chỉ chừng vài ba thế hệ nữa là nó sẽ mất. Nó sẽ trở nên trí thức, sẽ không khác văn chương viết trên sách báo”.

   2. Chúng tôi có mặt - cảm thức sinh thái về sự bình đẳng của muôn loài

   Đọc truyện ngụ ngôn hiện đại của Võ Hồng, nếu tinh ý sẽ thấy, ngoài cách xây dựng tình huống cho Chuột, Khỉ, Cọp, Nai, Ngựa, Bọ xít, Tò vò… có suy nghĩ, tình cảm, nói năng, ứng xử như con người, tác giả còn dành cho thế giới tự nhiên một sự trân trọng qua cách gọi tên đích danh các nhân vật ngụ ngôn của mình. Ông không hề dùng danh từ chỉ loại nào trước tên các loài động vật, thực vật mà viết trực tiếp tên của các nhân vật, đặc biệt còn viết hoa một cách trân trọng. Điều này nói lên thái độ hoàn toàn ý thức, trân trọng giá trị nội tại của tự nhiên, đặc biệt là sinh mệnh muôn loài của tác giả.

   Hãy nghe ông bộc bạch: “Tôi không nỡ dùng chữ “Thế giới súc vật” để chỉ cái thế giới hồn nhiên này. Chữ “súc vật” đã bị loài người dùng làm lời mắng chửi, khinh miệt nặng nề. Cả ngay chữ “vật”: loài vật, con vật... chỉ khi gọi đúng tên: Rắn, Trùn, Bọ Xít, Cọp, Heo... họ mới bình đẳng với người”.

   Đòi hỏi sự bình đẳng cho những loài vật trong lời mở đầu này của Võ Hồng thấm đẫm tinh thần Luân lý tôn trọng sinh mệnh (The Ethics of Reverence for Life) của bác sĩ, nhà triết học, thần học Albert Schweitzer, vốn được sáng lập trên tinh thần chủ nghĩa bình đẳng sinh vật, không chỉ với con người mà “bao gồm tất cả mọi sinh vật trên trái đất này”. “Luân lý học tôn trọng sinh mệnh phản tư chủ nghĩa nhân loại trung tâm, thúc đẩy con người lấy phương thức tư duy khác để đối đãi và tôn trọng tất cả các sinh mệnh”.

   Văn học dân gian Việt Nam cũng đã mang tư tưởng “vạn vật hữu linh”, coi trọng những vật nhỏ bé trong tự nhiên và cho rằng chúng cũng có linh hồn, tình cảm như con người. Có lẽ đó cũng là nguồn cội để văn chương Việt Nam có cách xây dựng nhân vật loài vật độc đáo của riêng mình. Võ Hồng nhấn mạnh sự khác biệt giữa “súc vật” và “loài vật”, cho thấy ông hoàn toàn ý thức được việc tôn trọng sinh mệnh của chúng. 30 truyện bao gồm một thế giới động vật đa dạng trên trời, dưới nước, ngoài rừng hay trong nhà, cũng như những cây cỏ hoa lá gần gũi nhất. Bằng sự quan sát tinh tế đặc điểm của từng loài, ông đã cho tất cả mang những nỗi buồn, niềm vui, suy nghĩ và cách ứng xử như chính đời sống con người. Ông hay nhắc đến Cọp nhưng lại cho Cọp phải thua những con vật nhỏ bé hơn như Trùn. Những con vật nhỏ bé, yếu đuối, những cây hoa dại như Chùm Rụm, bụi Ớt… cũng biết suy nghĩ, nhớ thương, lo lắng. Cảm thức nâng niu sinh mệnh, coi muôn loài bình đẳng này thật gần với quan niệm của nhà văn Mexico Leslie Marmon Silko: “Không điều gì bị bỏ qua hay bị coi thường. Mỗi con kiến, mỗi con thằn lằn, mỗi con chim sơn ca đều được thấm đẫm giá trị to lớn chỉ đơn giản vì chúng hiện diện, chỉ đơn giản vì chúng đang sống ở một nơi mà bất kỳ sự sống nào cũng đều quý giá”. Tinh thần tôn trọng từng con vật nhỏ nhoi và hạnh phúc khi được bầu bạn với chúng còn được Albert Schweitzer nâng lên thành vấn đề đạo đức của con người: Con người thực sự có đạo đức chỉ khi người đó tuân theo sự thôi thúc phải giúp đỡ mọi sự sống mà mình có thể cứu giúp, và khi người đó tránh gây tổn thương bất cứ sự sống nào. Với người ấy, bản thân sự sống đã là thiêng liêng. Người ấy không làm vỡ một tinh thể băng lấp lánh trong nắng, không hái lá khỏi cành cây, không bẻ gãy một bông hoa, và cẩn trọng để không giẫm nát một con côn trùng khi bước đi. Nếu làm việc dưới ánh đèn vào một buổi tối mùa hè, người ấy thà đóng cửa sổ lại, chịu đựng không khí ngột ngạt, hơn là thấy từng con côn trùng lao vào ánh sáng và cháy sém đôi cánh.

   Không dừng ở đó, bên cạnh việc trân trọng sự sống quý báu như một phẩm chất đạo đức mà con người cần có, Võ Hồng còn cho các nhân vật của mình lên tiếng phản kháng lại thế giới tàn ác của con người. Thậm chí truyện Trái núi đẻ con chuột còn dựng lên một màn kịch tố khổ, nơi muôn loài họp lại để lên án tội ác của con người đã cư xử tàn tệ với chúng: Heo Rừng thì bị sập bẫy, gần đứt ngón chân; Cáo bị bẫy kẹp đứt một lóng đuôi; Sóc bị bắn tên, luộc, xào, nướng; Nai bị rình bắn lấy gạc nấu cao; Rái Cá bị ném lựu đạn xuống nước; Thỏ, Voi bị bắt thồ hàng, bị đập vào đầu; Sáo Sậu bị giam cầm làm cảnh; Rắn thì gặp đâu giết đó; Gầm Ghì bị bắt sống, vặt trụi lông rồi bỏ lên lò than đỏ… Thế nhưng tác giả chỉ khéo léo lồng ghép bài học phê phán để độc giả tự suy ngẫm, còn trong tác phẩm, ông lại để câu chuyện ở phần cuối trở về với việc phê phán những tật xấu của chính muôn loài – tức con người. Khi kết tội loài người thì rất mạnh miệng, nhưng khi phân chia nhiệm vụ thì ai cũng chối đẩy với đủ lý do bệnh tật, công việc. Đến khi có lương thì ai cũng nhận và cuộc họp chỉ toàn cãi vã, đùn đẩy, bất đồng rồi đành hẹn kỳ họp sau.

   Tính chất châm biếm của truyện ít nhiều cũng phản ánh xã hội loài người, đồng thời cho thấy những nhận thức về tôn trọng sinh mệnh và giải phóng động vật đã được thể hiện rất sớm trong sáng tác của Võ Hồng so với những người cùng thời. Lắng nghe Võ Hồng chia sẻ cách ông quan niệm về các nhân vật loài vật trong truyện của mình: “Hẳn nhiên loài vật không phong phú suy nghĩ như người. Nhưng khi cho chúng những suy nghĩ của người, ta sẽ yêu thương chúng hơn, đời ta giàu thêm bạn. Có những bà nói chuyện với chó mèo, có những ông nói chuyện với trâu bò như chúng hiểu được tiếng người. Mặt họ sáng rực phúc hậu, lúc đó”. Một mối quan hệ giữa con người và vạn vật thật gắn bó, yêu thương, bình đẳng biết bao khi nhà văn đặt chúng lên cương vị người bạn của chính mình, giúp cho đời sống tình cảm của mình thêm giàu có tình thương. Điều này thật đúng với cuộc đời và cốt cách trầm lặng, khép kín, nho nhã, đôn hậu của người hiền đất Phú Yên mà bao thế hệ người đọc lẫn học trò mến yêu, tôn kính.

   Nếu tính từ thời điểm ông sáng tác Chúng tôi có mặt (giai đoạn 1972), mặc dù vấn đề sinh thái đã trở thành mối quan tâm của nhiều nhà môi trường thế giới, trong bối cảnh con người phải đối mặt với chiến tranh, môi trường bị huỷ hoại, nguồn sống cạn kiệt, khí hậu biến đổi và rơi vào khủng hoảng sinh thái nghiêm trọng, thì những nghiên cứu về sinh thái trong văn học vẫn chưa được đề cập đến trong đời sống học thuật của văn chương Việt Nam. Mãi đến năm 2011, phê bình sinh thái mới được chính thức giới thiệu ở Việt Nam trong sự tiếp nhận còn khá dè dặt. Đến khoảng 5 năm sau, lĩnh vực này mới ghi nhận những thành tựu bước đầu và dần được phổ biến rộng rãi cho đến nay. Với trình độ ngoại ngữ thông thạo của một giáo sư đệ nhị cấp từ những năm 1955, Võ Hồng hoàn toàn có khả năng tiếp cận các tư tưởng sinh thái tiến bộ của thế giới lúc bấy giờ, tuy nhiên chưa có minh chứng nào cho sự tiếp xúc ấy. “Võ Hồng cô đơn vi hành trên lộ trình nghệ thuật do mình chọn lựa. Nhà văn không dễ dàng chấp nhận sự thiếu chân thành, không chạy theo thị hiếu độc giả, không thoả mãn đòi hỏi nhất thời của thị trường chữ nghĩa” (Tạ Tỵ). Có lẽ, cảm thức sinh thái của ông xuất phát từ chính quan niệm tôn trọng sinh mệnh muôn loài và bản chất tâm hồn yêu thương sâu nặng với đất nước và con người. Với tâm niệm “trả hiếu” cho quê hương, ông đã chủ động đến với những quan niệm sinh thái tiến bộ một cách hoàn toàn tự nhiên và ý thức, và tập truyện này là một thử nghiệm cách tân mới mẻ trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông.

   3. Kết luận

   Từ việc chọn nhân vật loài vật làm trung tâm (animal-centered), trao quyền kể chuyện cho loài vật, Võ Hồng đã tạo nên một góc nhìn đảo ngược: thế giới không còn xoay quanh con người mà chính là xoay quanh các loài động thực vật mang linh hồn sống như con người. Từ quan niệm trân trọng sinh mệnh muôn loài, ông đã cho các nhân vật ứng xử bình đẳng ngang hàng, ai cũng có quyền sống, quyền ứng xử theo cách lựa chọn của mình. Bằng cách đứng về phía những kẻ bé nhỏ, tầm thường, yếu thế trong xã hội, truyện ngụ ngôn hiện đại của ông thực sự là một thử nghiệm mới mẻ, thấm đẫm tư tưởng sinh thái tiến bộ của thời đại hôm nay.

   Cái hay trong các câu chuyện là thế giới ấy qua lăng kính của một nhà giáo, nhà văn Võ Hồng vẫn rất thành công khi kết hợp với các motif truyện ngụ ngôn, lồng ghép và gửi gắm vào từng câu chuyện những bài học nhân sinh giá trị.

   Nói chung về văn chương Võ Hồng, Châu Hải Kỳ trong bài viết Khía cạnh giáo dục trong tác phẩm của Võ Hồng đã nhận định: “Chúng ta thường thấy ông nghiêng về khía cạnh tốt của tâm địa nhân vật và không nhằm gây giận hờn thù oán, ghét hận”. Ông cũng nhấn mạnh: “Khi đọc ông, người đọc dẹp được tính ích kỷ cá nhân để sống chung hoà hợp thuận thảo với kẻ khác, tập được tính khoan dung…”. Đặt loài vật bình đẳng với con người, gán cho chúng những suy nghĩ, tình cảm của con người, yêu thương chúng để “đời ta giàu thêm bạn” chính là quan điểm nhân văn đúng đắn nhất mà tác phẩm của Võ Hồng chưa bao giờ rời xa.

   Có thể thấy, từ rất sớm, nhà văn đã đến với tư tưởng sinh thái một cách thật tự nhiên như chính quan niệm về đời sống của ông. Cuối cùng, cách đặt tên tác phẩm Chúng tôi có mặt – như câu trả lời điểm danh trước Thượng Đế mà tác giả tưởng tượng mọi loài đang đứng trước Ngài, bình đẳng, không khúm núm, xun xoe như con người mà “dõng dạc trả lời khiêm cung và thuần nhã biết bao” – cũng là một minh chứng đẹp cho tinh thần tôn trọng sinh mệnh trong tư duy sáng tác truyện ngụ ngôn của Võ Hồng, thật đáng cho hậu thế học hỏi và kế thừa.

   Chúng tôi có mặt với 30 câu chuyện đẹp, 30 bức tranh miêu tả cuộc sống loài vật với những quan sát tinh tế, cung cấp những kiến thức thú vị về động vật, thực vật, cũng là 30 bài học tự răn mình, đối nhân xử thế qua cách nhìn cuộc đời điềm đạm, đầy trách nhiệm của một nhà giáo. Những câu chuyện nhẹ nhàng mà sâu lắng, thật gần gũi với đời sống văn hoá dân tộc, thấm đẫm triết lý tôn trọng sinh mệnh muôn loài đã khiến văn chương Võ Hồng, dẫu hơn nửa thế kỷ trôi qua, vẫn ấm áp và gần gũi với bao thế hệ người đọc.

   Tiếc rằng trong sách giáo khoa các cấp, những câu chuyện giàu ý nghĩa giáo dục và tính nhân văn này dường như vẫn còn bị lãng quên.

 

 

 

Tài liệu tham khảo:
1. Schweitzer, Albert (2002), “The Ethic of Reverence for Life”, Excerpted from Civilization and Ethics (Part II of The Philosophy of Civilization), translated by John Naish. Pdf version: https://www. animal-rights-library.com/texts-c/ schweitzer01.htm
2. Glotfelty, Cheryll & Fromm, Harold (1996), The Ecocriticism Reader: Landmarks in Literary Ecology, Publisher: University of Georgia Press, Athens and London.
3. Cao Thế Dung (1974): “Tiểu thuyết Võ Hồng, Quê hương - trí nhớ và con người”, Tạp chí Văn, số 32, tr. 50-63.
4. Võ Hồng (2011), Chúng tôi có mặt, NXB. Phương Đông.
5. Châu Hải Kỳ (1974): “Khía cạnh giáo dục trong tác phẩm của Võ Hồng”, Tạp chí Văn, số 32, tr. 87-92.
6. Huỳnh Như Phương (2022): “Võ Hồng, phẩm hạnh của văn chương”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 6, tr. 21–32.
7. Nguyễn Thị Thu Trang (2012): “Võ Hồng và tình yêu quê hương”, ngày đăng: 14/11/2019, ngày truy cập: 15/10/2022. Nguồn: https://vanhocsaigon.com/vohong-va-tinh-yeu-que-huong/
8. Nguyễn Thị Tịnh Thy (2017), Rừng khô, suối cạn, biển độc và văn chương, NXB. Khoa học xã hội, tr. 30.
9. Tạ Tỵ (1972): “Võ Hồng và quê hương bất hạnh”, Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay, NXB. Lá Bối, tr. 613-696.
10. Nguyễn Lệ Uyên (2018): “Võ Hồng, người luôn nặng lòng với quê hương”, in trong Trang sách và những giấc mơ bay, tập 1, Thư ấn quán xuất bản.

Bình luận

    Chưa có bình luận