Đầu năm 1974, trong chuyến đi thực tế Bình Trị Thiên, lúc về đến thị xã Đồng Hới, tôi được gặp hai nhà văn: Hà Minh Tuân (1929-1992), người gốc Hưng Yên nhưng cả đời gắn bó với Hà Nội, một văn tài của văn học Việt Nam với những tác phẩm đầy cuốn hút như Trong lòng Hà Nội (1957), Hai trận tuyến (1960), Vào đời (1962) và Ma Văn Kháng, người gốc làng Kim Liên, Hà Nội nhưng đang được công chúng văn học rất chú ý với những truyện ngắn viết về cuộc sống, con người vùng cao Tây Bắc. Gặp hai anh, tôi có cảm nhận rằng, chỉ mới ngoài bốn mươi tuổi nhưng những tác phẩm quan trọng của nhà văn Hà Minh Tuân dường như đã được anh hoàn tất. Còn Ma Văn Kháng, cũng sắp vào tuổi bốn mươi, gần mười lăm năm cầm bút, Giải Nhì (không có Giải Nhất) Cuộc thi truyện ngắn Báo Văn nghệ năm 1968, tập truyện Xa Phủ (1969) giàu tính sắc tộc, ngôn ngữ lung linh và nhiều thương cảm nhưng những tác phẩm chủ yếu của anh có lẽ đang còn ở những năm tháng sau này. Thể trạng Ma Văn Kháng không khỏe nhưng qua cách anh quan tâm tới những vấn đề đời sống, qua lối anh suy nghĩ về chuyện đời và nghề văn, tôi cảm nhận anh là nhà văn có bút lực rất dồi dào. Nghĩ, như ước đoán vậy, chứ tôi còn chưa biết rằng khi đó Ma Văn Kháng đang hoài thai một tác phẩm quan trọng của anh, cũng là một tác phẩm lớn cho nền văn học Việt Nam hiện đại: Đồng bạc trắng hoa xòe.
Ma Văn Kháng tên khai sinh là Đinh Trọng Đoàn, sinh ngày 1/12/1936. Năm 1948, Đinh Trọng Đoàn được người anh trai đưa vào trường Thiếu nhi Việt Nam, rồi được chuyến sang Đội thiếu nhi Nghệ thuật của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước. Ít lâu sau, anh gia nhập trường Thiếu sinh quân Việt Nam, được đoàn thể đặt cho cái tên Nguyễn Kháng (Kháng với nghĩa là kháng chiến). Kết thúc thời kháng Pháp, anh được học Trung cấp Sư phạm tại Khu học xá Nam Ninh (Trung Quốc), rồi về dạy học ở Lào Cai. Con đường số phận mỗi lúc một đưa anh xa Hà Nội, lên Tây Bắc trùng điệp rừng núi. Có một thời gian anh được điều đi làm công tác thuế nông nghiệp tại thôn Tùng Dung, xã Nam Cường, huyện Bảo Thắng. Khoảng thời gian ấy anh bị sốt rét ác tính, nằm liệt giường nhiều ngày. Một người bạn lớn tuổi là anh Ma Văn Nho (dân tộc Kinh, quê Phú Thọ), Phó Chủ tịch huyện Bảo Thắng, đã lặn lội tìm thầy thuốc chữa bệnh cho anh. Sau đó, hai người thành anh em kết nghĩa. Và rồi bút danh Ma Văn Kháng là do một ân tình cuộc sống mà có, chứ không phải là một cái tên đặt cho có vẻ dân tộc miền núi, đã ký dưới tác phẩm đầu tay Phố cụt. Truyện Phố cụt đăng tháng 3 năm 1961 trên Báo Văn học, tiền thân của Báo Văn nghệ. Năm 1962, Ma Văn Kháng đi học Đại học Sư phạm Hà Nội. Tốt nghiệp, anh lại lên Lào Cai, vừa dạy học vừa viết những truyện ngắn về cuộc sống, con người trên vùng đất Lào Cai, năm 1969, anh cho in trong cuốn Xa Phủ.
Một bước quan trọng nữa trên đường đời Ma Văn Kháng là anh được điều lên làm thư ký cho ông Trường Minh, Bí thư Tỉnh ủy Lào Cai. Ở cương vị công tác này, Ma Văn Kháng có cơ hội tiếp cận những tài liệu vừa có phần bí ẩn vừa rất sống động về công cuộc tiễu phỉ, trừ gian của Lào Cai nói riêng và của miền Tây Bắc nói chung. Sục vào những tài liệu chất chứa những biến động ghê người, anh hiểu sâu xa cái hiện tượng đặc biệt đến quái dị, là chế độ phong kiến thế tập phiên thần đã tồn tại hàng trăm năm. Thị xã, một con phố nhỏ với biển tên cũ còn sót lại Rue de Carvanes, kéo dài từ Hồ Kiều dọc theo sông Đầm Thi tới cái xóm thuần dân lao động làm nghề cốn bè, đan cót, cắt cỏ ngựa. Con phố dài chừng ba trăm mét và còn mấy căn nhà kiến trúc kiểu Tây Âu của các nhà mại bản như Ả Lim, Trần Ca (người Hoa); vài cửa hàng thuốc Bắc, sòng bạc, mấy quán ăn với những chiếc đèn lồng đỏ treo suốt đêm trước cửa; còn có Sở Mật thám và vài công sở của Nhà nước bảo hộ. Từ con phố chính này, có những hẻm phố với bậc gạch xây dẫn xuống sông Đầm Thi trong xanh quanh năm... Ngoài cái thị xã Lào Cai như vậy, còn một Lào Cai to lớn, bao la, núi rừng hùng vĩ, dữ dội, Ma Văn Kháng cứ thấy hiển hiện khi anh sục vào nguồn tài liệu lưu trữ. Hiển hiện thực sự sinh động là cuộc sống của mấy cán bộ Việt Minh trong chuyến đi vô cùng mạo hiểm, ly kỳ đến các vùng Bắc Hà, Si Ma Cai, Pha Long, Mường Khương, Bản Lầu... nhằm thuyết phục các thổ ty góp công, góp sức tiêu diệt Việt Nam Quốc dân đảng, giải phóng tỉnh nhà. Bởi tình cảm gắn bó sâu sắc với Lào Cai, bằng sức cảm sức nghĩ đang độ dồi dào của một nhà văn, Ma Văn Kháng vô cùng hứng thú với cuộc “độc hành kỳ đạo, độc thiện kỳ thân” đầy kiêu hãnh của những cán bộ Việt Minh. Và rồi, hiện dần lên vóc dáng một tiểu thuyết sử thi, đó là tập đầu có tên là Đồng bạc trắng hoa xòe, anh khởi thảo từ năm 1972.
Ở đây, chúng tôi chỉ nói tới văn chương miền Bắc nước ta, thời gian này, đang rất ổn định với cách viết theo một dòng chủ lưu là biểu dương, minh họa. Tuy Ma Văn Kháng bắt đầu được công chúng văn học yêu mến nhưng anh vẫn chưa thấy hài lòng với những truyện ngắn mình đã xuất bản. Trong sự chưa hài lòng về văn của mình hàm chứa sự chưa hài lòng về văn học đương thời. Anh là người ít nói, nghĩ nhiều, rồi viết với một cảm hứng thật lớn. Một mạch sáu tháng liên tục, Ma Văn Kháng viết xong Đồng bạc trắng hoa xòe, hơn một năm sau mới tập trung sửa chữa. Và đến năm 1979, Nhà xuất bản Văn học cho ấn hành pho tiểu thuyết sử thi dày hơn sáu trăm trang này. Đời sống xã hội cận - hiện đại của Lào Cai và của cả miền đất bao la đầy bí hiểm phía Tây Bắc nước ta được trình bày qua những trang văn giản dị, với một tấm lòng nồng nàn thương yêu lịch sử của nhà văn. Từ cuối năm 1976, Ma Văn Kháng chuyển về Hà Nội, làm việc ở Nhà xuất bản Lao Động, nhưng đời sống của Lào Cai, của Tây Bắc mà anh đã nếm trải mấy chục năm trời vẫn cuộn lên trong anh. Sau khi hoàn thành bản thảo tiểu thuyết Trăng non, Ma Văn Kháng tạm gác lại để dồn sức viết tiểu thuyết với tên ban đầu là Thổ phỉ, năm 1983 được xuất bản với tên là Vùng biên ải. Đây là tác phẩm tiếp theo của Đồng bạc trắng hoa xòe. Những nhân vật mà nhà văn tạo nên lại đi tiếp đường đời của mình. Đó là Bí thư Tỉnh ủy Lê Chính, cán bộ dân sự Nguyễn Bắc, chàng trai Pao... Ma Văn Kháng mô tả họ trong cuộc dấn thân vào cơn lốc của chiến tranh giải phóng. Những thổ phỉ đầu sỏ Giàng A Lử, Châu Quán Lồ cũng tiếp tục xuất hiện rồi hoàn tất vai trò của mình…
*
Dường như dòng chảy của nền văn chương Việt Nam hiện đại mỗi khi có thêm một tài năng lớn nhập vào thì nó được mở mang thêm và chảy mạnh hơn. Có thể nói, Ma Văn Kháng hòa mình vào dòng chảy văn chương nửa sau thế kỷ XX với tác động như thế. Chúng tôi nhận thấy văn chương nước ta từ sau 1945 có thêm một chi lưu đặc biệt. Một số tài năng từ miền xuôi lên sống gắn bó nhiều năm với đời sống, con người các dân tộc ở miền núi như Tô Hoài với Tây Bắc, Nguyên Ngọc với Tây Nguyên... Những nhà văn đó, bằng các tác phẩm tâm huyết cùng những sáng tác của các tác giả dân tộc ít người ở địa phương đã tạo nên một bộ phận đẹp đẽ của văn chương Việt Nam hiện đại - văn chương viết về miền núi và dân tộc. Đi sau Tô Hoài và Nguyên Ngọc một chặng thời gian, Ma Văn Kháng có sự chuẩn bị kỹ hơn về kiến văn và hình thành được tầm nhìn thời cuộc mới mẻ. Thêm nữa, Ma Văn Kháng viết với cảm hứng về một không gian sống mang chiều sâu lịch sử, bao quát và đa dạng, cùng những chặng đường đời nhiều thử thách của các nhân vật. Bởi thế, khác với những tác phẩm của của Tô Hoài, Nguyên Ngọc, Ma Văn Kháng không chỉ kể những câu chuyện đậm tính sắc tộc, anh đã sáng tạo những pho tiểu thuyết sử thi, một thể tài văn chương còn rất mới lạ đối với đời sống văn học Việt Nam thời điểm đó. Và tôi nghĩ, chỉ những thiên sử thi mới có tầm vóc xứng đáng nhất với những vận động lịch sử của miền Tây Bắc cũng như số phận của những con người trên vùng đất này. Vậy nên có thể nói con đường số phận đã trao Ma Văn Kháng cho miền Tây Bắc để anh đảm trách bổn phận mang tính văn học sử đó! Sau những tác phẩm mà chúng tôi nêu ở trên, anh xuất bản tiểu thuyết Trăng non, tiểu thuyết Gặp gỡ ở La Pán Tẩn. Rồi anh viết cả loạt truyện ngắn như Mã Đại Câu, Người quét chợ Mường Cang, Giàng Tả, Kẻ lang thang... sau này in trong tập Móng vuốt thời gian dày gần 500 trang. Có thể thấy Ma Văn Kháng đã sửa lại và viết mới cả loạt tác phẩm trên vào đầu những năm tám mươi là một việc làm rất can trường. Đó là cuộc tự thay đổi mình như anh tâm sự: “Cần phải kết thúc thứ văn chương minh họa, ấu trĩ, thiếu tính đời thực”; là bước đi mới của Ma Văn Kháng, tiến gần đến văn chương cần thiết cho con người, có ích đối với cuộc đời. Ma Văn Kháng là một hiện tượng văn chương lớn. Dòng văn chương viết về miền núi và dân tộc được khởi lên giữa thế kỷ XX và đạt tới những thành tựu những năm cuối thế kỷ XX là một thành công của văn hóa Việt Nam. Trong thành công đó có sự đóng góp của Ma Văn Kháng tài năng.
Nhìn lại đời văn Ma Văn Kháng, chúng tôi hay nghĩ đến lời tuyên bố quan trọng của Paul Eluard, thi hào của nước Pháp, trong diễn văn đọc tại London, nước Anh: “... Tất cả các nhà văn có trách nhiệm khẳng định cuộc đời mình phải bắt rễ vào đời sống nhân loại”. Có thể, những năm mười tám, đôi mươi, Ma Văn Kháng chưa ý thức được cuộc bắt rễ đời mình vào đời sống nhưng con đường số phận anh đã làm điều đó. Cuộc bắt rễ vào đời sống Lào Cai, Tây Bắc suốt mấy chục năm trường đã khiến anh có được những tác phẩm đóng góp thực sự lớn cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Giai đoạn đầu, văn chương Ma Văn Kháng chủ yếu viết về chiến tranh giải phóng, những nhân vật của anh hầu hết là những con người hành động, bị cuốn theo những vận động lịch sử ở vùng thượng du. Đó là những cán bộ, chiến sĩ trong cuộc “độc hành kỳ đạo, độc thiện kỳ thân”, dấn mình vào cơn lốc chiến tranh khắc nghiệt và bi hùng. Đó là những người dân, đời nối đời, sống trong chế độ thổ ty quái dị, như những người trong gia đình Giàng Lầu đầy bi đát. Đó là những thổ phỉ đầu sỏ Giàng A Lử, Châu Quán Lồ... Rồi sự dẫn dắt của số phận lại đưa Ma Văn Kháng về quê hương Hà Nội và cuộc bắt rễ vào đời sống đô thị khiến anh làm nên phần thứ hai đời văn của mình. Cuộc sống thành phố sau chiến tranh nảy sinh nhiều điều không như người ta hi vọng. Đời sống vật chất thật nhiều cực nhọc. Đời sống tinh thần vập vào những bế tắc, cái cao đẹp có nguy cơ bị vùi dập trước những tha hóa đang tràn lan trong xã hội. Ma Văn Kháng đã phải nghĩ ngợi rất nhiều về thân phận của tầng lớp trí thức. Trí thức (hay là “kẻ sĩ” theo cách gọi xưa) có hiểu biết hơn người, nhạy cảm và hay bị dằn vặt trong tâm can nên cũng dễ bị tổn thương trước những hỗn tạp, nhiễu nhương trong đời sống. Một khi cuộc sống xã hội suy thoái, người trí thức gặp rất nhiều những rắc rối trong đời sống riêng tư, dễ sa vào những bi kịch cay đắng. Năm 1977, được dự một hội nghị thi đua, nghe bản báo cáo nhan đề “Tìm diệt tổ mối trong thân đê” của một kỹ sư thủy lợi, Ma Văn Kháng mới biết hầu hết các vụ vỡ đê từ trước tới nay đều do ẩn họa tổ mối mà ra. Trên đường về nhà, anh cứ ngẫm nghĩ về câu thơ của Nguyễn Trãi: “Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ”... Câu thơ xưa, cuộc đời trước mắt bề bộn, ngổn ngang với những va đập ghê gớm khiến lòng đau thắt và thành một ám ảnh nặng trĩu để rồi bùng lên thành cơn xúc cảm mạnh mẽ khiến Ma Văn Kháng viết tiểu thuyết Mưa mùa hạ. Từ cuộc sống ở nơi gia đình anh cư ngụ, ngõ 221 Nguyễn Khuyến, căn buồng 8 mét vuông mà cả nhà sáu người sống chen chúc đến cuộc sống hằng ngày trên đường phố mà anh thường gặp; rồi ở cơ quan, cán bộ, nhân viên đều có cặp lồng cơm đem theo để ăn trưa, cứ gặp nhau là ngồi quanh bàn nước bàn luận về giá cả sinh hoạt tăng chóng mặt, hoặc kể những chuyện vừa xảy ra ở hẻm nọ, phố kia..., tất cả những chi tiết, sự kiện, nhân vật ấy được Ma Văn Kháng tiếp nhận, rồi bằng tâm huyết, tình thương xót cuộc đời và tài năng riêng anh có, đã sáng tạo nên Mưa mùa hạ. Năm 1982, Mưa mùa hạ được xuất bản nhưng gần một năm sau mới được phát hành, nó trở thành cuốn tiểu thuyết gây xôn xao nhất trong đời sống văn chương thời kỳ trước Đổi mới. Trong tác phẩm này có hai nhân vật tích cực theo quan niệm truyền thống đều bị chết: Nam chết vì bạo bệnh, Trọng chết khi đang cứu đê, chống lũ; và còn có một đoạn văn hay xuất thần mô tả cuộc ái ân của loài mối. Những điều đó thành cái cớ cho một số người kêu ca, phàn nàn về Mưa mùa hạ, ngay cả khi nó đã chiếm được lòng yêu mến của đông đảo bạn đọc.
Nghĩ về hiện tượng văn chương Ma Văn Kháng, tôi hay nghĩ đến một hạn chế nặng nề, bao trùm lên nền văn học Việt Nam hiện đại nửa sau thế kỷ XX, đó là tính “định hướng”. Định hướng tuy là một khái niệm trừu tượng nhưng nó chi phối mọi nhà văn khi sáng tác, hầu như họ đều phải làm nhiệm vụ chính trị xã hội của mình là viết sao cho đúng chủ trương, chính sách. Ma Văn Kháng có một trí tuệ rất mẫn tiệp, anh không để bị coi là người đi chệch định hướng nhưng cũng không để cái gọi là “định hướng” kìm hãm. Tài năng và lý tưởng nhân văn đã khiến anh làm được điều đó. Năm 1985, Ma Văn Kháng cho xuất bản Mùa lá rụng trong vườn, rất nhanh chóng, tiểu thuyết này lại được giới quan tâm bàn luận nhiều. Mùa lá rụng trong vườn là một tác phẩm nói về vấn đề gia đình. Sau khi chiến tranh kết thúc huy hoàng, chuyện mưu sinh ngày thường lại khiến một gia đình vốn ổn định trở nên chao đảo. Trên đường phố, trong cơ quan, trường học, nhà máy... nhan nhản chuyện tiêu cực; hầu như nơi đâu cũng gặp con phe, những kẻ buôn bán kiểu bắt chẹt người mua. Cuộc sống ngoài xã hội như vậy, tất yếu nó sẽ chen vào đời sống các gia đình. Quan hệ anh em, vợ chồng, cha con và cả gia tộc nghiêng ngả như gặp sóng to gió lớn. Sự sa ngã của Lý, rồi sự hư hỏng của Cần là những tổn thương rất đau đớn của một gia đình, của cả gia tộc. Dù vậy, vẫn còn có Luận, vừa từng trải vừa nhạy cảm lại nhẫn nhịn. Nhân vật trí thức trong tác phẩm của Ma Văn Kháng thường là những con người tinh tế và nhạy cảm, như Luận. Phải là Luận mới có thể trong đêm đi bộ cả chục cây số về nhà, đứng bên ngoài, nhìn lên căn buồng của hai vợ chồng với tình yêu nồng nàn, êm dịu và mới biết nhìn nhận lẽ đời thật giản dị, thấm thía: “Có dân tộc nào khổ như dân tộc mình! Trong hoàn cảnh (cơ cực) ấy, con người muốn sống được, phải lớn lao, cao thượng lắm, em à...”. Có thể nói, Ma Văn Kháng đã gửi gắm nhiều buồn khổ của đời anh về con người và sự đời vào những nhân vật trí thức mà anh tạo nên. Mưa mùa hạ và Mùa lá rụng trong vườn đã khiến Ma Văn Kháng thành nhà văn ăn khách, được đông đảo bạn đọc ưa chuộng. Hai tiểu thuyết đó của anh như là những dấu hiệu đến sớm của một thời kỳ đời sống xã hội sẽ phải thay đổi khác hẳn trước.
Năm 1986, công cuộc đổi mới như cánh cửa rộng mở. Bút lực đang độ sung mãn, Ma Văn Kháng viết Đám cưới không có giấy giá thú, một tiểu thuyết luận đề vốn rất hiếm trong một nền văn chương quen với biểu dương, minh họa. Tính luận đề của tác phẩm dày đặc và mạnh bạo qua những đoạn đối thoại giao đãi, những khắc khoải tâm tư các nhân vật, đặc biệt là qua ba bức thư của một học sinh, những nỗ lực tìm lời giải đáp cho cuộc nhân sinh đang rơi vào bế tắc. Nhân vật chính của Đám cưới không có giấy giá thú là Tự, một người thường khắc khoải, dằn vặt bởi sự sa sút của người thầy giáo. Anh có nhiều lo lắng và buồn tủi về thế cuộc nhưng luôn gắng dành hết tâm lực cho học sinh. Một người trí thức thật đẹp và cô đơn. Qua tiểu thuyết này, dường như Ma Văn Kháng viết về bản thân, trong cái nhìn tổng quan mấy chục năm, tại một trường cấp 3 bé nhỏ, ở một tỉnh lẻ, với biết bao hạnh phúc và tủi buồn của một thân kiếp cô lẻ. Tác phẩm này chứa đựng những ý tưởng rất không phù hợp với quan niệm chính thống đương thời. Với nhân sinh quan thật minh triết, tác giả lý giải thấu đáo thân phận người trí thức tiểu tư sản ở Việt Nam. Mặc dù là tiểu thuyết luận đề, tác phẩm này vẫn chứa đầy sự sống. Ma Văn Kháng là nhà văn tài ba trong tạo dựng chi tiết sống, nên những trang văn thực sinh động, khiến nội dung tác phẩm đi vào lòng người đọc tự nhiên, thấm thía. Đám cưới không có giấy giá thú được tái bản nhiều lần, bởi nó là luận đề, đã đặt ra cho người đọc những vấn đề lớn về con người, cuộc sống và bởi nó là văn chương sống động với những chuyện của cuộc đời này biết bao nước mắt mồ hôi và phập phồng hi vọng... Hơn mười năm sau, Ma Văn Kháng còn tạo dựng một nhân vật trí thức nữa trong tiểu thuyết Ngược dòng nước lũ là Khiêm. Khiêm cũng trải qua nhiều đau đớn về thể xác và tinh thần nhưng vẫn tiến đến với người đàn bà anh yêu như một cuộc ngược dòng nước lũ tìm tới những giá trị thực của con người. Không mới hơn những tác phẩm trước về ý tưởng xã hội, nhưng qua Ngược dòng nước lũ, nhà văn vẫn truyền cho bạn đọc những lo lắng của người trí thức cứ luôn phải đương đầu với nhiều cạm bẫy trên đường đời; đồng thời khiến người đọc thương cảm khi thấy những chuyện cơm áo hàng ngày cứ ghìm đầu người trí thức xuống.
Ma Văn Kháng là nhà văn đổi mới rất sớm về tư tưởng văn chương ở nước ta nửa cuối thế kỷ XX. Đặc biệt, trong số những nhân vật anh tạo nên, nhân vật trí thức có vai trò quan trọng, là linh hồn và tư tưởng của nhiều tác phẩm. Những năm tám mươi, người đời thực sự lăn lóc trong cuộc kiếm tiền, nhà nghiên cứu văn hóa thì nuôi chó cảnh, các chuyên gia kỹ thuật cuộn thuốc lá điếu đem bỏ mối cho các quán nước vỉa hè, giáo viên không dạy thêm thì buôn tem phiếu. Để sống được, người ta làm bất cứ điều gì để kiếm thêm đồng tiền, kể cả chuyên chở hàng lậu trên tàu thống nhất… Trong cuộc sống xô bồ, chen lấn, người trí thức không né tránh đi đâu được, bởi họ yếu ớt, lại luôn muốn giữ mình trong sạch, nên thường bị rơi vào bi kịch. Ma Văn Kháng là nhà văn viết về bi kịch của những trí thức nước ta hay và thấu tình đạt lý. Ma Văn Kháng viết về bi kịch của người trí thức với sự thương cảm và trân trọng người có học cũng như bản chất chân, thiện của những Trọng, Luận, Kha, Tự, Khiêm (những nhân vật chính trong các tiểu thuyết của anh), mô tả bi kịch cuộc đời họ với những buồn khổ, tủi nhục, bị tước đoạt hạnh phúc, thất bại đau đớn. Anh chỉ đúng căn nguyên: họ là nạn nhân của cái ác hoành hành, cái xấu lộng quyền, sự tha hóa của quản trị xã hội… Ma Văn Kháng yêu quý các nhân vật đó, những nhân cách cao đẹp luôn vượt lên trên tất cả những toan tính tầm thường. Những nhân vật anh tạo nên đã truyền được cho người đọc sự ấm nóng tình yêu cuộc sống và niềm tin rằng cái chân, thiện bao giờ cũng có trong cuộc đời này.
*
Xen giữa thời gian viết tiểu thuyết, Ma Văn Kháng viết rất nhiều truyện ngắn. Những năm tháng khó khăn về cơm áo, gạo tiền, nhất là quãng ngày mới chuyển cư về Hà Nội, các khoản nhuận bút truyện ngắn đăng báo thực sự có ích đối với gia đình anh. Hơn nữa, bản thân Ma Văn Kháng rất yêu thể tài này. Trong nền văn chương Việt Nam hiện đại, Ma Văn Kháng đã tạo được uy tín lớn trong thể tài tự sự nhỏ này. Có những lần gặp nhau, tôi nghe anh nói liên tục về truyện ngắn anh đang viết, sẽ viết. Tính chi ly ra, đời văn Ma Văn Kháng đã viết hơn mười tiểu thuyết và cũng viết, xuất bản hơn mười tập truyện ngắn, trong đó tiểu thuyết Đồng bạc trắng hoa xòe (600 trang), tập truyện Móng vuốt thời gian (500 trang). Truyện ngắn Ma Văn Kháng cũng đạt tới một “đẳng cấp thật lớn” như nhận định của nhà văn Phạm Ngọc Chiểu trong công trình nghiên cứu Ma Văn Kháng: Thành tựu - Thi pháp - Đẳng cấp văn chương (NXB. Văn học, 2024). Nhà văn Phạm Ngọc Chiểu đã dành nhiều tâm sức và kinh nghiệm văn chương của mình để đi sâu, khám phá thế giới nghệ thuật của văn tài Ma Văn Kháng. Chúng tôi rất đồng thuận với nhận định của anh về “đẳng cấp vượt trội” trong truyện ngắn Ma Văn Kháng: “Một là rất tài tình trong phát hiện và nắm bắt tình huống truyện; hai là vốn từ ngữ giàu mĩ cảm lạ thường; ba là kiến văn rất sâu rộng”. Với tài năng như vậy, Ma Văn Kháng đã tạo được một giọng điệu riêng trong truyện ngắn có sức hút rất mạnh, cuốn người đọc vào những cảnh đời, những phận người trong câu chuyện; hơn thế, còn truyền cho người đọc những hiểu biết sâu rộng về đời sống xã hội mà các nhân vật đang sống, khiến tính tư tưởng trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thực sự lớn.
Đặt Ma Văn Kháng trong dòng chảy văn xuôi cận - hiện đại của Việt Nam có thể thấy một sự khác biệt đáng kể. Sau hiện tượng Hoàng Ngọc Phách với Tố Tâm (1925) – tác phẩm được xem là mở đầu cho văn chương lãng mạn, có lẽ do những tích trữ sâu xa của văn hóa dân tộc bỗng gặp những kích thích lớn của văn minh hiện đại, dòng văn chương Việt Nam hiện đại được khai mở. Lập tức, nó có được những tài năng lớn như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Vũ Bằng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao… khiến dòng chảy trào tuôn và tỏa rộng ngay từ những năm ba mươi. Dù đã có những tài năng lớn như vậy nhưng văn chương tả thực giai đoạn đó chỉ đạt tới đỉnh cao trong những tác phẩm tự sự về đời sống xã hội. Tài năng rực rỡ nhất là Vũ Trọng Phụng đã sáng tạo nên thế giới nhân vật là những con người vong quốc nô, chịu đựng vô vàn đau khổ cả tâm hồn và thể xác. Những năm tiếp theo, dòng chảy văn chương tiếp tục với một số nhà văn có sự chủ động nhìn cuộc sống xã hội với những hi vọng mới và muốn xây dựng những nhân vật vươn tới hạnh phúc. Nhưng, xu thế này ngày mỗi thêm nặng tính duy ý chí. Bởi vậy, nhiều thập kỷ liền, trong văn chương nước ta (tôi không đề cập tới văn chương ở phía Nam trước năm 1975) dường như mẫu hình công, nông, binh thành hình mẫu chính yếu, nên cả một quá trình dài, dòng chủ đạo văn chương nghiêng hẳn về biểu dương, minh họa… Ngay phần đầu của đời văn Ma Văn Kháng, dẫu anh có những đóng góp lớn cho văn học nhưng không thể tránh được hết những hạn chế lịch sử của dòng văn chương chủ đạo đương thời. Sự độc đáo của Ma Văn Kháng khi ấy là những tác phẩm của anh chất chứa nhiều sắc thái bi tráng của lịch sử miền Tây Bắc và những nhân vật anh tạo nên có cuộc đời đầy tráng khí. Cho đến những năm tám mươi, Ma Văn Kháng đã có bản lĩnh để nhận thức lại, nhận thức thêm về cuộc sống cùng văn chương. Cuộc sống, dẫu nhiều vùi dập, nhưng lịch sử đã tiến tới thời thống nhất, độc lập, tự chủ và tự cường. Vậy nên con người có bị sa vào bi kịch thì cũng là bi kịch do lề thói quản trị xã hội chứ không còn là bi kịch của thân phận gắn với bi kịch dân tộc hay lịch sử. Điều đó khiến Ma Văn Kháng tài năng nhận thấy cuộc sống với những niềm hi vọng, khác các nhà văn nửa đầu thế kỷ XX. Kinh nghiệm văn học và sự bắt rễ cuộc đời mình vào đời sống rộng lớn đã giúp anh nhìn những người trí thức với tấm lòng thương quý, trân trọng và cả kỳ vọng. Bởi thế, có thể nói, nhà văn Ma Văn Kháng thể hiện rõ bản lĩnh của mình trong dòng chảy văn chương Việt Nam đương đại bằng tài năng riêng anh có cùng vị thế mới của dân tộc Việt Nam.
Đã hơn nửa thế kỷ, kể từ lần gặp anh ở Bình Trị Thiên mà tôi tiên cảm là những tác phẩm chủ yếu của anh còn ở phía trước. Nay thì những tác phẩm quan trọng của anh cũng đã ở phía sau rồi, Ma Văn Kháng đã sắp bước vào tuổi chín mươi, đã cùng gia đình có được căn nhà riêng. Sống trong ngôi nhà này, Ma Văn Kháng đã viết thiên hồi ký Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương kể về đường đời cũng là con đường văn chương của anh. Qua những dặm dài nhiều nhọc nhằn và cũng lắm nhớ thương, số phận không giống bao số phận khác đã khiến anh khác hẳn các đồng nghiệp cả về cách quan tâm đến đời sống xã hội, cả cái tình sâu thẳm đối với văn chương. Trong sáng tác văn học và cả trong hồi ký, Ma Văn Kháng kể những câu chuyện đời, giúp người đời và bạn văn có thêm kinh nghiệm sống để vững vàng, tự tin trong trường đời. Hơn nửa thế kỷ với bút lực dồi dào, câu chữ cuồn cuộn, Ma Văn Kháng là một sức chảy xiết, góp một lực thật mạnh mở mang thêm dòng chảy văn chương Việt Nam hiện đại.