DIỄN NGÔN VỀ THỊ DÂN TRONG ''THỊ DÂN TIỂU THUYẾT'' CỦA NGUYỄN VIỆT HÀ

Bài viết phân tích tác phẩm ''Thị dân tiểu thuyết'' của Nguyễn Việt Hà từ góc độ diễn ngôn đô thị, với trọng tâm là hình tượng con người đô thị, tầng lớp thị dân. Qua đó, góp phần nhận diện phong cách sáng tạo của Nguyễn Việt Hà như một trường hợp tiêu biểu của dòng tiểu thuyết đô thị Việt Nam đương đại.

   Tiểu thuyết về đề tài đô thị trong văn học Việt Nam đương đại hiện diện ngày càng phong phú, đa dạng, làm nổi bật đời sống thị dân, phản ánh những biến đổi sâu sắc trong cấu trúc xã hội và ý thức cá nhân trong bối cảnh đô thị hóa. Trong dòng chảy này, Nguyễn Việt Hà là một trong những tác giả tiêu biểu, với ưu thế về thể loại tiểu thuyết, đã có những dấu ấn nổi bật trong việc khám phá đời sống, thể hiện những quan sát và suy tư có chiều sâu về con người đô thị trong mối quan hệ phức tạp với không gian sống. Từ góc độ phân tích diễn ngôn, bài viết tập trung nghiên cứu tiểu thuyết Thị dân tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà nhằm góp phần làm sáng tỏ cách tác phẩm kiến tạo diễn ngôn về thị dân, quan hệ giữa con người thị dân và không gian đô thị cũng như sự tác động qua lại giữa đời sống đô thị và bản sắc cá nhân, qua đó nhìn thấy cách tác giả phản ánh những đặc điểm của tầng lớp này trong đô thị Việt Nam đương đại.

   Diễn ngôn là một khái niệm liên ngành, được nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực như ngôn ngữ học, ngôn ngữ học phê phán và tâm lý học xã hội. Diễn ngôn mang tính chất xã hội. Khi nghiên cứu diễn ngôn, không thể chỉ dừng lại ở nội dung bề mặt mà cần xem xét hoàn cảnh giao tiếp và chủ thể kiến tạo. Như Sara Mills nhấn mạnh, “diễn ngôn phải được hiểu trong nghĩa rộng nhất của nó: mỗi lời nói đều giả định rằng có một người nói và một người nghe, và người nói có sức ảnh hưởng nhất định tới người còn lại trong cuộc hội thoại”1. Điều này cho thấy diễn ngôn không đơn thuần là sự truyền đạt thông tin mà còn có vai trò định hướng nhận thức và hành động của con người. Một đặc điểm quan trọng khác của diễn ngôn là những quy tắc điều vận không cần thiết phải là một nhận định hay một tập hợp nhận định. Không phải mọi nội dung đều xuất hiện trực tiếp trong phát ngôn, mà luôn có những yếu tố bị khuất lấp, là “những quy tắc và cấu trúc bất thành văn tạo sinh ra các phát ngôn và nhận định đặc thù nào đó”2. Do đó, phân tích diễn ngôn không chỉ dừng lại ở nội dung hiển thị mà còn phải chú ý đến những khoảng trống trong phát ngôn – những gì không được nói mà chỉ hiện diện cũng quan trọng không kém những gì đã được phát biểu, nói như M. Foucault, là “những thực hành có tính điều vận diễn giải cho một số nhận định”3. Diễn ngôn không chỉ phản ánh thực tại mà còn có khả năng kiến tạo nhận thức về thực tại, theo đó, diễn ngôn không phải bộ mặt giản đơn về thực tại mà luôn luôn là những thực hành va chạm, tương tranh. Theo Foucault, “diễn ngôn dẫn truyền và sản sinh ra quyền lực, nó củng cố quyền lực, nhưng cũng phá huỷ và phơi bày nó”, “vừa là những công cụ để đàn áp nhưng đồng thời cũng là những công cụ để kháng chống”4. Điều này có nghĩa là diễn ngôn không chỉ duy trì các cấu trúc quyền lực mà còn tạo ra các diễn ngôn đối kháng, mở ra những khả thể khác cho sự tồn tại của con người, nói cách khác, diễn ngôn luôn trong tình trạng động chứ không tĩnh tại. Khi một chủ thể lên tiếng về một vấn đề, họ không chỉ tham gia vào quá trình tái tạo tri thức mà còn xác lập quyền năng của mình trong việc định nghĩa thực tại.

   Như vậy, phân tích diễn ngôn không chỉ là phân tích nội dung bề mặt mà còn là quá trình khám phá các yếu tố nền tảng của diễn ngôn: hoàn cảnh giao tiếp, chủ thể phát ngôn, quyền lực và những gì bị khuất lấp. Chỉ bằng cách xem xét tổng thể các mối quan hệ này, ta mới có thể hiểu rõ diễn ngôn như một thực thể năng động, tác động đến nhận thức và cấu trúc xã hội theo những cách không hề đơn giản. Diễn ngôn về thị dân, vì thế, cần được hiểu theo một nội hàm linh hoạt là toàn bộ quá trình sản sinh nhận thức về thị dân, đặt trong đầy đủ các mối quan hệ quyền lực và những yếu tố bất thành văn, không chỉ dừng lại ở những phát ngôn, lời nói giao tiếp. Từ nội hàm này, bài viết tiến hành phân tích hình tượng thị dân trong tác phẩm Thị dân tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà.

   1. Thị dân như một chủ thể kiến tạo diễn ngôn

   1.1. Thị dân và các diễn ngôn tự kiến tạo

   Quá trình kiến tạo diễn ngôn về đời sống đô thị của tầng lớp thị dân gắn liền với việc thị dân tự kiến tạo diễn ngôn về chính bản thân họ. Trong tiến trình này, diễn ngôn của tầng lớp thị dân không chỉ đơn thuần mang tính kế thừa hay lặp lại những khuôn mẫu có sẵn mà còn không ngừng dịch chuyển và tái nhận thức. Trong diễn ngôn tự kiến tạo, thị dân hiện lên một cách kiêu hãnh nhưng trong cái chung đó vẫn có sự biến đổi. Từ suy tư về thị dân của Thăng Long - Kẻ Chợ trong điểm nhìn của “ấm” Bình, rằng “người Thăng Long thì ngoài chuyện lịch lãm kiêu bạc thì vừa phải phóng túng vừa phải tiêu sái”5, kiêu hãnh về vị thế “chưa bao giờ tin vào vào kiến thức của đám bình dân, kể cả những người có vẻ xuất chúng” (tr. 152-153), diễn ngôn về thị dân trở nên khác biệt vào thời thuộc địa. Đó là hình dung về những nhà tư sản thời đại mới như ông bà Thái Long được coi là núi của phố (tr. 34), đến chết, ông Thái Long vẫn tỏ ra là người lịch lãm, đài các, không chấp nhận nằm chung phòng bệnh với người khác cũng như “chỉ đòi ăn đồ ăn Tây” (tr. 200), còn bà Thái Long thì sẵn sàng bán đi mọi thứ để chữa bệnh cho chồng nhưng nhất quyết giữ lại, cấm con cháu không được bán ngôi nhà cũ (tr. 200). Thị dân thời thuộc địa tự cho mình vẫn có phẩm chất hơn người, qua lời khẳng định mơ hồ của cha An Tôn Thông: “Tôi đoán người viết ra nó là một người Hà Nội. Giáo dân ta hồi đấy nhiều người giỏi chữ Tây lắm” (tr. 121). Tiếp tục sang thời đại mới, diễn ngôn mà tầng lớp thị dân tự kiến tạo là những con người lãng mạn và kiêu hãnh. Ông Lâm quả quyết thời của mình là những con người “nổi tiếng hiền lành” (tr. 141), chính bản thân ông quyết tâm viết một tiểu thuyết về khu phố mà ông tự hào gọi là phả, sử ký về tổ tiên đáng nể, “tiểu thuyết theo kiểu nói nhỏ vỉa hè của đám thị dân” (tr. 364). Ông Lâm là đại diện đáng kể nhất của quá trình tự kiến tạo diễn ngôn của thị dân khi không chỉ viết tiểu thuyết mà còn giữ đăng mục hai tờ báo lá cải “Sống ở Hà Nội”, “Phố nghĩ”, lập tài khoản mạng xã hội viết tạp văn (tr. 364). Thời của ông Lâm, thị dân kiêu hãnh về mình “Phúc đức được truyền thừa sẽ đem lại sự cao quý sang trọng. Ông mày là ai, cụ mày là ai” (tr. 290). Nhưng đến giai đoạn của thế hệ sau nữa, diễn ngôn tự kiến tạo của thị dân không còn quá tự tin và kiêu hãnh về bản thân, “Anh cũng giống như Hà Nội của anh. Càng có nhiều nhà cao tầng thì lại càng lùn” (tr. 271), mà đã xuất hiện những diễn giải khác biệt, thậm chí đối lập, xuyên tạc về những diễn ngôn cũ. Thị dân Hà Nội tự ý thức về mình rằng chính bản thân mình cũng đang thay đổi, cũng đang thâu nhận những giá trị lẫn lộn của đời sống đương đại. Những trường hợp này, giống như Foucault lập luận, thông qua diễn ngôn, các cá nhân được “sản xuất” ra như những chủ thể có bản sắc riêng và quá trình này là một quá trình cộng hưởng tập thể, quá trình sản xuất diễn ngôn ấy trong tiến trình hoạt động của mình “không ngừng gây ra một loại kích thích diễn ngôn rộng khắp”6. Thị dân, khi đặt trong tiến trình lịch sử này, đặt trong quá trình diễn tiến của thời gian, không chỉ chịu sự ảnh hưởng, tiếp thu những ý nghĩa trong quá khứ từ đời trước kiến tạo như những lực lượng kiến tạo diễn ngôn không tên trong suy nghĩ mà “ấm” Bình tự ràng buộc lên chính mình mà còn là quá trình chủ động kiến tạo ý nghĩa cho chính bản thân mình trong không gian sống là đô thị. Quá trình liên tục tái hiện, tiếp diễn, điều chỉnh giá trị quá khứ này thể hiện quá trình sản xuất ra chủ thể thị dân – một quá trình mà ở đó, mọi cá nhân thị dân đều tham dự vào công việc diễn giải, giằng co, tái tạo và cả sự phản kháng lại những giá trị đã được định sẵn. Diễn ngôn mà thị dân tự kiến tạo có sự biến chuyển, thể hiện sự cởi mở, linh động của quan niệm về chính bản thân mình.

   1.2. Thị dân giữa các diễn ngôn đối kháng

   Diễn ngôn không chỉ là một quá trình nhận thức một chiều về bản thân và hoàn cảnh, mà quan trọng hơn, là tổng thể của những xung lực tương tranh, liên tục sản sinh các khả thể mới. Nói như Foucault, trong Lịch sử tính dục: “Ở đâu có quyền lực, ở đó có sự kháng chống”7. Do vậy, diễn ngôn mà thị dân kiến tạo về đô thị trong Thị dân tiểu thuyết cần đặt trong thế giao thoa, đối thoại, đối kháng nhau. Sự đối kháng có thể tìm thấy ở đa dạng các diễn ngôn trong tương tác với nhau. Chẳng hạn, trong tiểu thuyết có sự đối thoại giữa diễn ngôn chính thống (thường mang tính quy phạm, nhấn mạnh trật tự, sự phát triển, điều tốt đẹp...) với diễn ngôn mà thị dân kiến tạo, vốn mang tính phản biện, giễu nhại, đôi khi có cả sự châm biếm và mỉa mai. Những diễn ngôn không nhất thiết phải hiện diện như những nhận định hay câu nói (lưu ý đến sự hiện diện một cách khuất lấp của các diễn ngôn), thị dân khi muốn mỉa mai tình trạng vô thần của con người, chỉ cần đặt những người “quan niệm kiên tín, chết là hết” (tr. 73) cạnh “các đấng thánh” (tr. 73). Thị dân thường mỉa mai diễn ngôn chính trị quan phương, chính thống, chẳng hạn “ông cố bán sách kinh ở ngay nhà thờ, bị bắt giam bảy năm tù không tuyên án vì tội nghe đài địch “Lời Đức Mẹ nhủ”” (tr. 112-113) cho thấy đời sống con người thị dân nằm trong những đan xen phức tạp giữa những diễn ngôn chính trị và diễn ngôn tôn giáo. Sự đối kháng bằng cách kiến tạo các diễn ngôn giễu nhại chính thống thể hiện qua mẩu ký ức của nhân vật thị dân Tùng, hồi tưởng về con gái của ông Trưởng Ban phụ huynh làm nghề kinh doanh nhà nghỉ. Thứ bị giễu nhại ở đây không phải là nhân vật người con gái mà là một đại diện – một lực lượng kiến tạo diễn ngôn – trong lĩnh vực văn học, khi con gái của ông chủ nhà nghỉ đọc lên một cách “thảm thiết” một bài thơ kể về dự cảm tương lai về đời sống tốt đẹp, không còn nạn mại dâm trong xã hội, rồi kết lại một câu: “Chẳng biết bây giờ con bé có làm cùng chỗ với bố mẹ nó không” (tr. 182). Kiến tạo diễn ngôn mỉa mai chống diễn ngôn quyền lực, thị dân tạo ra một tình huống có tính chất vạch trần bộ mặt của truyền thông, khi kể chuyện một Vụ phó công khai gạ tình một nữ sinh, nhưng sau đó lại “hiện hình lên ti vi ở chương trình có hay không hợp pháp hoá mãi dâm, con dê già ấy kiên quyết nói “không”” (tr. 180). Sự mỉa mai quyền lực còn thể hiện ở chỗ kiến tạo những diễn ngôn vạch trần sự ngăn cấm phi lý về tính dục, về tình huống dở khóc dở cười khi cả thành phố Hà Nội đương thời tuyệt nhiên không dung chứa một không gian cởi mở về tính dục như nhà nghỉ, vợ chồng muốn thuê phòng ở khách sạn mậu dịch cũng không dám ngủ cùng buồng dù có giấy đăng ký kết hôn, cuối cùng dẫn đến kết cục là cô Hảo bị bắt quả tang cặp với một cán bộ nhưng lỗi lầm tuyệt nhiên chỉ hướng về nữ giới, “tội đĩ điếm không to bằng tội hủ hoá. Và đấy là tội trọng” (tr. 198). Sự phức tạp của những diễn ngôn đối kháng càng phức tạp hơn khi người kể lại câu chuyện là ông Lâm với diễn ngôn kỳ thị sự lăng loàn nhưng chính ông cũng bị người trần thuật vạch trần là kẻ chuyên dẫn gái trẻ đi nạo thai. Các kiến tạo diễn ngôn của tầng lớp thị dân, trong tương quan với diễn ngôn chính thống được kiến tạo, luôn mang màu sắc mỉa mai, giễu nhại. Cần nhìn nhận quá trình này là một hiện tượng hoàn toàn bình thường của nhận thức, như Foucault nhận diện, “ta không nên tưởng tượng một thế giới diễn ngôn được phân chia giữa diễn ngôn được chấp nhận và diễn ngôn bị loại trừ, hoặc giữa diễn ngôn chi phối và diễn ngôn bị chi phối; mà như vô số các yếu tố diễn ngôn có thể có vai trò trong các chiến lược khác nhau”8.

   Diễn ngôn, như vậy, không phải sự nhận thức và tư duy đơn hướng. Diễn ngôn luôn gắn liền với quyền lực và sự kháng cự. Những xung lực trong thế tương tranh là mối quan hệ quyền lực không ổn định, nơi mà mỗi diễn ngôn được phân tích trên đề cập đến, dù là diễn ngôn chính thống hay diễn ngôn phi chính thống của tầng lớp thị dân, đều bị thách thức. Diễn ngôn không phải hệ thống cố định mà luôn chuyển động, biến đổi qua sự đấu tranh của các quyền lực, những lực lượng kiến tạo ý nghĩa luôn trong thế tranh chấp nhau. Trong mối quan hệ đối kháng giữa diễn ngôn “chính thống” và diễn ngôn của thị dân, có thể nhận thấy quyền lực luôn tồn tại ở nhiều tầng lớp và được thể hiện qua các mối quan hệ có tính chất đối thoại. Hành vi của thị dân là mỉa mai và giễu nhại những diễn ngôn chính thống, không chỉ là biểu hiện của sự kháng cự, chịu đựng mà đó còn là cách thức mà những nhóm quyền lực bên dưới, không nằm trong dòng chủ đạo trong cấu trúc quyền lực, đang cố gắng định nghĩa lại mối quan hệ quyền lực trong phạm vi đô thị mà mình ảnh hưởng và sinh sống. Nói như Foucault, đó là tương quan mạng lưới “giữa siêu quyền lực và quyền lực cấp thấp”9. Hành vi lộn trái, lật tẩy tri thức truyền thông mà nhân vật Vụ trưởng trong tiểu thuyết kiến tạo nên được phân tích một cách đặc biệt. Nhân vật Vụ trưởng biểu đạt tri thức về việc cấm mại dâm trong môi trường truyền thông và trong cuộc họp, đó là môi trường luôn tìm cách định nghĩa, áp đặt nhận thức lên đời sống. Người trần thuật thị dân, với tiếng nói trong tiểu thuyết của mình, nói ngược và giễu nhại phát biểu đó. Qua đó, diễn ngôn mà thị dân kiến tạo mở ra những khả năng nhận thức mới, giúp phơi bày những mâu thuẫn và sự giả dối tiềm ẩn trong hệ thống quyền lực chính thống. Đồng thời, các thị dân trong phân tích trên không chỉ tạo ra các diễn ngôn đối kháng mà còn khẳng định một vị thế xã hội khác biệt so với các tầng lớp quyền lực, tức là bản thân thị dân trong quá trình tạo lập diễn ngôn đã tái hiện luôn cả sự phân tầng của xã hội mà thị dân đang sinh sống. Khi thị dân mỉa mai các diễn ngôn chính thống (như trường hợp kể chuyện cô Hảo bị bắt quả tang đi lại vụng trộm với người cán bộ cốt cán), họ không chỉ phản ánh sự phân biệt và bất công trong xã hội mà còn phê phán sự thiếu công bằng, nhìn thấy được sự phân tầng trong cấu trúc quyền lực, nơi mà quyền lực cấp cao luôn tìm cách định nghĩa lại hành vi phạm tội (trường hợp này rất giống với quá trình kiến tạo diễn ngôn về các điều phạm tội mà Michel Foucault đã phân tích và tái hiện chi tiết trong Giám sát và trừng phạt10. Diễn ngôn của thị dân khi định nghĩa bản sắc của mình thể hiện ở việc sử dụng các diễn ngôn kháng cự để chống lại quyền lực hiện hành và phản ánh những điều bị che khuất.

   Như vậy, hình tượng thị dân từ góc độ chủ thể kiến tạo diễn ngôn cho thấy sự phức tạp và đa chiều. Trong diễn ngôn tự kiến tạo, thị dân đô thị Hà Nội vừa muốn chứng tỏ rằng mình có sự sang trọng, đặc biệt, song cũng vừa cho thấy rằng ở họ có tính cởi mở và dung nạp rất lớn. Tiếp cận thị dân từ góc độ chủ thể tạo diễn ngôn, có thể nhìn thấy vai trò năng động của thị dân trong quá trình diễn giải, kiến tạo, tái cấu trúc các giá trị văn hoá - xã hội trong môi trường đô thị.

   2. Thị dân như một đối tượng được kiến tạo diễn ngôn

   2.1. Thị dân và các diễn ngôn chính thống

   Thị dân, trong quá trình sinh sống trong không gian đô thị, ngoài vai trò là lực lượng chủ thể kiến tạo những diễn ngôn, đương nhiên khi soi chiếu ở chiều ngược lại về sự tương tác của những diễn ngôn, họ còn là những đối tượng bị định dạng bởi những diễn ngôn khác. Các diễn ngôn này thường tìm cách phân loại, đánh giá, giới hạn cách hiểu về thị dân dựa trên những chuẩn mực hoặc những yêu cầu, kỳ vọng về chuẩn mực trên các phương diện đạo đức, lối sống và ý thức hệ. Trong khung khổ của diễn ngôn chính thống về thị dân, tầng lớp này bị đặt dưới áp lực phải trở thành những người Hà Nội theo một “chuẩn mực” nhất định. Những chuẩn mực này không chỉ đóng vai trò mô tả một hình mẫu lý tưởng mà trên tư cách là diễn ngôn còn buộc thị dân hoặc phải thích nghi hoặc phải đối kháng với nó. Diễn ngôn chính thống về đô thị xây dựng nên hình ảnh của thành phố lý tưởng, đồng thời xây dựng cả những quy định ngầm (diễn ngôn ẩn khuất) về cách thị dân cần ứng xử. Đó là những chính trị gia trong điểm nhìn của thị dân luôn tìm cách “bịa ra những cái chết mang vẻ cao cả” (tr. 122) khi bàn luận về ý nghĩa của cuộc sống; giữa xung lực một bên là chính trị gia, nhà cầm quyền phát biểu và bên còn lại là thị dân tiềm tàng sự phản kháng “chỉ là lộng ngôn khoe ngôn” (tr. 122). Diễn ngôn áp đặt lên thị dân sẽ khiến cho cái nhìn, quan niệm về thị dân bị đông cứng, giống như cô gái nhà quê bị ông Lâm lừa tình, “nhưng có một điều sâu xa liệu có lầm lẫn, cô bé vẫn tin là có một thứ người Hà Nội quân tử và sang trọng” (tr. 148), bất chấp việc ông Lâm có tiếng hoang đàng. Diễn ngôn áp đặt không chỉ theo cách mà lực lượng bên ngoài chi phối trực tiếp, đó còn có thể là, nói như Foucault, “một thứ bạo lực”11 mà người trong cuộc tự nguyện chấp nhận, đó là hiện tượng “ấm” Bình bị chi phối về định nghĩa người Hà Nội tử tế thì nghiễm nhiên phải “luôn có lòng yêu và trọng cái đẹp” (tr. 168). Diễn ngôn chính thống có thể chi phối đến nhận thức của chính thị dân một cách rất phức tạp, luôn công khai hoặc ngầm thực hành những dán nhãn lên thị dân. Khi cô Hảo bị bắt quả tang vụng trộm với ông cán bộ miền trong, chính diễn ngôn chính thống – đại diện là bà Phó Chủ tịch phường đã dẫn đầu và khuyến khích thực hành dán nhãn này: “Cô Hảo bị mấy thằng lưu manh vỉa hè đặt cho nickname là “phò”. Người đầu tiên công khai gọi là bà Phó Chủ tịch phường” (tr. 199). Diễn ngôn chính thống đã đồng nhất tư tưởng chính trị và sở thích cá nhân với nhau, như cách diễn ngôn yêu nước cách mạng đã khiến Đội Nhân chỉ uống rượu cúc, từ chối rượu Tây và cho việc “cậu “ấm” ghét Pháp nhưng lại mê rượu địch” (tr. 164) là trái với lẽ thường.

   Theo Foucault, diễn ngôn không chỉ là quá trình tạo ra mà còn là công cụ để định hình danh tính, tính chất, tên gọi của sự vật. Ông phân tích quá trình này rất kỹ trong ví dụ về việc những hành vi, cử chỉ tính dục đã bị bóp méo và biến dạng dần dần ra sao về mặt tên gọi trong Lịch sử tính dục12 và gọi đó là quá trình mà “từng chút một, người ta che giấu đi tính trần trụi”13 của sự vật. Ở trường hợp tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà, thị dân vừa là chủ thể tích cực kiến tạo các diễn ngôn nhưng cũng là đối tượng bị định dạng, bóp méo tính chất của hành vi bởi các diễn ngôn khác. Quá trình tường thuật một cách giễu nhại về sự định danh cái chết của các chính trị gia, “bịa ra những cái chết mang vẻ cao cả” cùng một lúc cho thấy hai quá trình này: diễn ngôn chính trị gia xây dựng, còn diễn ngôn thị dân tiêu huỷ nó. Hay các tiêu chuẩn về đạo đức, lối sống, nền nếp, ý thức hệ Nho giáo đã được áp đặt làm chuẩn mực cho hình ảnh của người Hà Nội, từ đó định hình cái nhìn và thị dân, tạo ra những lăng kính nhận thức mà chính ông Lâm, kẻ làm chủ cuộc chơi trong cuộc tình chóng vánh ấy, là nạn nhân trong diễn ngôn của cô gái tỉnh lẻ. Diễn ngôn chính thống, mà hình thức tồn tại ẩn khuất của nó, không chỉ mô tả một hình mẫu lý tưởng về đô thị mà trong quá trình hoạt động, nó còn đòi hỏi thị dân phải thích nghi. Qua việc dán nhãn và áp đặt trật tự đạo đức như việc dán nhãn “phò” cho cô Hảo bởi bà Phó Chủ tịch phường, có thể thấy cách diễn ngôn chính thống sử dụng phương tiện ngôn ngữ để củng cố quyền lực và củng cố những ranh giới đạo đức mà nó cho là đúng đắn, cũng như hiện tượng đồng nhất tư tưởng chính trị và sở thích cá nhân. Điều này cho thấy diễn ngôn không chỉ phản ánh mà còn chi phối cách mà xã hội nhìn nhận, đánh giá và xử lý các hành động của cá nhân, một dạng “bạo lực” mà trong đó người ta tình nguyện chấp nhận. “Ấm” Bình chấp nhận quy chuẩn về người Hà Nội mà diễn ngôn quá khứ trước ông đề ra, không ý thức được đây là một áp lực mà tự nguyện trong nội tâm. Diễn ngôn áp đặt, như thế, không chỉ là công cụ từ bên ngoài mà còn có hiện tượng nội hoá thành một phần ý thức và hành động của cá nhân. Các diễn ngôn trong phân tích trên có chức năng phân loại và định vị người Hà Nội – không chỉ là dán nhãn mà còn là việc xác định tiêu chuẩn hành vi. Sự tồn tại của tổng hoà những tiêu chuẩn hữu hình và vô hình này tạo ra một hệ thống chuẩn mực chặt chẽ, mà theo Foucault, là “những giới hạn đã được giam hãm rất chật hẹp”14, đó là một cơ chế của quyền lực định hình và giới hạn các khả năng tư duy, hành động của đối tượng. Khi thị dân bị áp lực bởi chuẩn mực này, họ có nhiều lựa chọn ứng xử: hoặc là lựa chọn thích nghi, chịu đựng để công nhận là một “thị dân” theo đúng khuôn khổ “nhãn dán”; hoặc lựa chọn “đối kháng” thông qua những hành động phản kháng gián tiếp không công khai, như trong sự mỉa mai hay phê phán trong diễn ngôn của chính họ, mà nhân vật người trần thuật khi kể chuyện về quá khứ của cô Hảo đã biểu lộ một phần. Một phương diện khác cần phải nhận thấy là theo cách tiếp cận của Foucault, diễn ngôn không tồn tại độc lập mà luôn gắn liền với thực hành xã hội, là “những dạng điều vận mà ta tiếp nhận trong thực tại”15. Việc diễn ngôn chính thống dàn dựng hình ảnh người Hà Nội như một mẫu số lý tưởng dẫn đến việc một số thị dân phải điều chỉnh cách nhìn nhận về chính bản thân. Sự điều tiết qua quá trình dán nhãn và áp đặt này không chỉ là việc miêu tả thực tại mà còn góp phần sản sinh ra những thực hành cụ thể, vừa tuân thủ vừa kháng cự những quy tắc đạo đức mà quyền lực bên trên áp đặt xuống. Những diễn ngôn chính thống không chỉ tạo ra một tiêu chuẩn lý tưởng về cách nhìn nhận thị dân mà còn đồng thời định hình, hạn chế và sản sinh ra những phản kháng từ phía đối tượng được chi phối. Đây là quá trình tương tác phức tạp giữa việc kiến tạo và định dạng, trong đó quyền lực hiện hữu qua ngôn từ và các quy chuẩn xâm nhập vào các thực hành xã hội.

    2.2. Thị dân và các diễn ngôn tự phản tư

   Ở phương diện khác, thị dân trở thành đối tượng của sự kiến tạo diễn ngôn còn đến từ chủ thể kiến tạo là chính thị dân – bài viết muốn đề cập đến những diễn ngôn tự giễu nhại và phản tư của thị dân. Việc tự kiến tạo diễn ngôn này, định nghĩa như Foucault, là quá trình mà ở đó “cái được hình thành là một trật tự chính trị của cuộc sống, không phải bằng việc nô dịch người khác, mà bằng sự khẳng định bản thân”16. Sự tự chất vấn, nghi hoặc của các nhân vật không ngừng đặt ra vấn đề về căn tính thị dân, rằng họ là những người Hà Nội có văn hoá hay là kẻ lạc lõng trong một đô thị hỗn độn, Hà Nội là không gian giàu truyền thống hay chỉ là nơi pha tạp của các giá trị. Diễn ngôn giễu nhại không đến từ bên ngoài mà chủ yếu đến từ chính nội bộ tầng lớp thị dân thường xuyên tự hoài nghi, tự giễu cợt về chính mình. Điều này cho thấy bên trong thị dân tồn tại những phản tư sâu sắc. Khi được khen ngợi rằng làm phép cho người quá cố hệt như cha xứ, nhân vật “tôi” thị dân thể hiện ngay suy nghĩ “thực ra là giống hệt như phim, tôi thích dòng châu Âu hơn dòng Hollywood” (tr. 114), coi việc mình làm phép – một công việc yêu cầu sự nghiêm túc, trang trọng thành sự nhại lại các phim phương Tây như trò chơi. Thị dân chất vấn về ý nghĩa của văn minh đô thị, tỏ ra nghi ngờ trước sự tiến bộ của nó, “y học hiện đại thường huênh hoang tâng bốc là một sự tiến bộ bậc nhất của văn minh” (tr. 116). Hay trước những kiến tạo diễn ngôn về ý nghĩa đời sống thị dân mang màu sắc tôn giáo, “sống là một trạng thái nhất thời về thời gian. Chết cũng vậy. Giống như mùa Đông và mùa Xuân. Không bao giờ lại nói mùa Đông trở thành mùa Xuân hay Xuân lại trở thành Hạ được” (tr. 126), ông Lâm đáp lại bằng một thái độ cười nhạo và hoài nghi những giá trị: “Vậy nên chỉ nói, thanh niên chuyển thành trung niên, rồi chuyển thành ông lão rồi chuyển thành thây thối. Không được nói là trở thành hay trưởng thành” (tr. 127). Thực tế đời sống đô thị diễn ra khiến những người từng kiên định và tự tin vào diễn ngôn về bản thân mà họ tự kiến tạo cũng phải lung lay. Đứng trước cơn sốt bất động sản, ông Lâm, người viết những cuốn thần phả, sử ký, tiểu thuyết về phố của ông, cũng phải bị “loạn ăn loạn ở” (tr. 271) vì phân vân bán luôn căn nhà ở phố. Sự thay đổi về thời thế càng về sau càng khiến thị dân nhìn thấy sự mất mát của văn hoá phố ngày trước: vì bệnh thành tích mà trẻ con tuyệt đối không được đúp, con cháu trong nhà thì đi xuất khẩu lao động, những giá trị quan tưởng như vững bền bởi diễn ngôn tự kiến tạo nay lung lay, “hầu hết nhìn ngôi nhà hương hoả thì đều không thấy bàn thờ, chỉ thấy một cục tiền” (tr. 274). Ngay cả người trần thuật thị dân, đứng trước sự đổi thay, cũng bộc lộ sự phản tư thông qua lời trần thuật: kể về những người kiên định với nghề của gia đình như bán sách thì liên tục bị miêu tả với những tính từ như “chập cheng”, “vụng về”, “dở hơi” (tr. 276). Đó là diễn ngôn ngầm ẩn, không hề bộc lộ nhận định, nhưng qua lời trần thuật có thể thấy chính người trần thuật thị dân đã góp phần tạo nên những diễn ngôn tự phê bình lên chính tầng lớp mình, tương tự như cách miêu tả một cách giễu nhại sự hỗn tạp, lẫn lộn về văn hoá của đời sống thị dân thời buổi mới: “Đàn bà mặc xịp Vera nhái viền đăng ten, đàn ông diện T-shirt Gucci Tàu chói đỏ. Bởi hôm trước ở giao lộ cách hẻm chưa đầy trăm thước, có một xe tải chở xăng đan bị lật, nên hôm ấy cả xóm hầu như đều đi dép xăng đan” (tr. 312-313).

   Diễn ngôn không phải dòng chảy đơn hướng mà luôn tồn tại mối quan hệ qua lại giữa chủ thể tạo dựng và đối tượng bị tạo dựng. Thị dân thực hành những diễn ngôn trong thế chủ động như việc tự giễu quá trình làm lễ như trong phim hay thái độ hoài nghi của ông Lâm cũng đồng thời phản ánh rằng bản thân bị ảnh hưởng và bị định hình bởi chính những diễn ngôn nội bộ ấy. Qua đó, thị dân liên tục tự chất vấn về căn tính của mình, tạo nên một quá trình phản tư nội tâm, đồng thời lại tái khẳng định hoặc thách thức những giá trị tự kiến tạo của bản thân. Diễn ngôn có thể là công cụ thể hiện sự kháng cự không chỉ từ bên ngoài mà còn có thể từ chính nội bộ của chủ thể. Ở đây, diễn ngôn tự giễu nhại và phản tư của thị dân thể hiện qua những lời nói mỉa mai, châm biếm chính các giá trị, chuẩn mực mà bản thân tầng lớp này đã tự kiến tạo trong đời sống đô thị. Những lời “thực ra là giống như phim” hay sự hoài nghi với y học hiện đại cho thấy thị dân không chỉ tiếp nhận các giá trị văn hoá và công nghệ mà còn liên tục đặt câu hỏi làm lung lay định nghĩa cứng nhắc về văn minh đô thị. Qua đó, họ tạo ra diễn ngôn phản biện về nó, không khuất phục những hình mẫu lý tưởng mà tự kiến tạo, mở ra việc định hình bản sắc trong bối cảnh biến động của không gian đô thị. Diễn ngôn nội bộ mà thị dân kiến tạo còn mở ra một quá trình phản tư sâu sắc về ý nghĩa và văn hoá của đời sống. Câu nói “sống là một trạng thái nhất thời về thời gian” vốn là một thành tựu của quá trình chủ động kiến tạo diễn ngôn của thị dân, nay ông Lâm phản hồi về nó là quá trình trần tục hoá nó, kéo tôn giáo về thế tục, có thể thấy thị dân luôn đặt ra vấn đề về giá trị mà chính họ từng tạo lập trong quá khứ. Diễn ngôn ở đây mang tính sản xuất, từ những sự phản tư, chất vấn nội tại này, những giá trị mới, những “sự khẳng định bản thân”17 mới được hình thành, dù đó có thể là những giá trị phản kháng với những diễn ngôn của chính bản thân trong quá khứ hay của bên ngoài. Diễn ngôn tự phê bình này trở nên rõ ràng hơn khi giá trị tự kiến tạo như văn hoá phố ngày trước đối đầu với cơn sốt bất động sản. Hình ảnh ngôi nhà hương hoả biến tướng thành cục tiền không chỉ phản ánh sự xói mòn của giá trị truyền thống mà còn là lời tự nhận định đáng thương của một tầng lớp khi đối diện với biến đổi xã hội. Qua diễn ngôn tự kiến tạo, thị dân cũng nhận ra những mâu thuẫn, bất cập trong tầng lớp của bản thân, thể hiện qua việc phê bình chính tầng lớp của mình là dở hơi, vụng về… Quá trình phản tư của thị dân, đối thoại với chính giá trị mình từng kiến tạo, như thế, không chỉ là dấu hiệu của mâu thuẫn nội tại mà còn là động thái mở ra khả năng tái cấu trúc, tái định hình giá trị văn hoá đô thị.

   3. Kết luận

   Từ góc nhìn diễn ngôn, Thị dân tiểu thuyết thể hiện quá trình thị dân vừa là chủ thể kiến tạo vừa là đối tượng bị kiến tạo trong không gian đô thị trong tiến trình liên tục đổi mới. Thị dân hiện lên không như một bản thể bất biến mà luôn vận động giữa các diễn ngôn. Sự dao động này vừa phản ánh khả năng tự phản tỉnh và tái định vị bản thân của thị dân trong một không gian đô thị đang biến động mạnh mẽ. Tác phẩm của Nguyễn Việt Hà vì thế không chỉ là một tiểu thuyết đô thị mà còn là diễn ngôn về chính đô thị – nơi quyền lực, ký ức và bản sắc luôn được diễn giải và kiến tạo. Qua đó, Thị dân tiểu thuyết góp phần mở ra những khả thể mới cho việc đọc và viết về đô thị như một thực thể văn hóa - lịch sử sống động.

 

 

 

Chú thích:
1, 7 Sara Mills (1997), Discourse, NXB. Routledge, p. 208, 42.
2, 3, 4, 11, 14, 15 Sara Mills (2021), Michel Foucault, NXB. Dân trí, tr. 99.
5 Nguyễn Việt Hà (2019), Thị dân tiểu thuyết, NXB. Trẻ, tr. 160. Từ đây, ghi chú trực tiếp nguồn trang (tr. ) sau những trích dẫn trong sách này.
6, 8, 12, 13, 16, 17 Michel Foucault (2024), Lịch sử tính dục, NXB. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 55, 159, 28-31, 30, 195, 195.
9, 10 Michel Foucault (2022), Giám sát và trừng phạt: nguồn gốc nhà tù, NXB. Tri thức, tr. 119, 112-121.

Bình luận

    Chưa có bình luận