Nhà văn Pháp Marcel Prust (1871-1922) quan niệm: “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì thế giới được tạo lập”; “Một cuộc khám phá mới không chỉ là tìm được vùng đất mới mà còn nhìn bằng cặp mắt mới” (Đi tìm thời gian đã mất). Khi Bảo Ninh viết tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh1, đề tài về cuộc chiến tranh chống Mĩ đã rất quen thuộc, quen thuộc đến nỗi nhà xuất bản yêu cầu đổi tên tác phẩm thành Thân phận của tình yêu mới có thể bán sách được. Thế nhưng, khi Nỗi buồn chiến tranh xuất hiện, nó vẫn tạo nên tiếng vang lớn, gây chấn động văn đàn. Tạo nên tiếng vang ấy là do cuốn tiểu thuyết đầu tay của Bảo Ninh có tư tưởng riêng và phong cách độc đáo.
Phong cách của cuốn tiểu thuyết đáng gọi là kiệt tác này được biểu hiện trước hết và chủ yếu ở cái nhìn riêng của Bảo Ninh về chiến tranh. Cái nhìn riêng, mới mẻ này có cơ sở từ quan niệm mới về văn chương và từ sự trải nghiệm cá nhân của nhà văn. Với Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã khước từ cái nhìn theo khuynh hướng sử thi mà nhìn chiến tranh qua thân phận con người, lấy con người cá nhân và thân phận con người làm hệ quy chiếu.
Qua cái nhìn của Bảo Ninh, chiến tranh và hậu quả của nó được cảm nhận như nỗi đau buồn, day dứt, triền miên, vô hạn. Nỗi đau buồn ấy bao trùm lên toàn bộ tác phẩm, được thể hiện chủ yếu qua tâm trạng, qua dòng hồi tưởng của Kiên – nhân vật trung tâm của cuốn tiểu thuyết – người lính trinh sát năm xưa của quân đội Bắc Việt, đang đi tìm và quy tập hài cốt tử sĩ của sư đoàn, cả khoảng thời gian khi anh đã giải ngũ, trở về với đời sống bình thường. Những ký ức, những dòng hồi tưởng của Kiên khi gặp kỷ niệm về chiến tranh cứ trào lên như những đợt sóng, tầng tầng lớp lớp, trùng điệp, cứ đứt rồi lại nối, có lúc chồng chéo, đồng hiện, xáo trộn cả thời gian và không gian. Qua dòng hồi tưởng và suy ngẫm của Kiên, hình ảnh những người đồng đội của anh (và cả những người lính bên kia chiến tuyến nữa), những cuộc đối đầu một mất một còn hiện ra, qua đó, làm nổi bật sự ác liệt, tàn bạo, hủy diệt của chiến tranh. Những người lính trong bối cảnh chiến tranh ác liệt không chỉ hiện ra qua hành động chém giết bạo tàn mà còn qua tâm trạng, những suy nghĩ và cách ứng xử của con người trong những tình huống cụ thể. Họ không chỉ hiện lên một lần, ở thời điểm hiện tại mà còn được tái hiện nhiều lần qua những dòng hồi tưởng, những suy nghĩ sâu sắc, nhiều chiều, đầy day dứt khi đất nước đã có hòa bình của Kiên. Cứ như thế, những mảnh nhỏ, mảnh vỡ, thật cụ thể, đầy ấn tượng về chiến tranh lần lượt hiện ra, đan cài, chồng chéo, qua đó làm hiển hiện ra cuộc chiến tranh Việt - Mĩ theo cách nhìn riêng của nhà văn.
*
Qua cái nhìn của Bảo Ninh, chiến tranh hiện ra với bộ mặt thật tàn bạo; chiến tranh là chết chóc, là bi kịch, thảm họa đối với con người ở cả hai phía. Cái nhìn ấy được gợi lên ngay từ những trang đầu tiên của cuốn tiểu thuyết, ở thời hiện tại, qua lời kể của người trần thuật: “Mùa thu đầu tiên sau chiến tranh đến với miền hậu cứ Cánh Bắc của mặt trận B3 êm ả nhưng muộn màng…”2. Kiên tham gia đội thu nhặt hài cốt tử sĩ của sư đoàn. Gặp lại những vùng đất Kiên đã từng chiến đấu năm xưa, những hồi ức về chiến tranh ùa về trong tâm trí anh: “Vùng này là vùng Kiên thông thuộc. Chính là ở đây vào cuối mùa khô năm 69, mùa khô cực kỳ cùng khốn của toàn cõi B3, tiểu đoàn 27 độc lập, cái tiểu đoàn bất hạnh mà anh là một trong mươi người may mắn còn được sống, đã bị bao vây rồi bị tiêu diệt mất hoàn toàn phiên hiệu. Một trận đánh ghê rợn, độc ác, bạo tàn… Mùa khô ấy, nắng to gió lớn, rừng bị tưới đẫm xăng đặc, cuồn cuộn lửa luyện ngục. Các đại đội đã tan tác đang cố co cụm, lại bị đánh tan tác. Tất cả bị na-pan tróc khỏi công sự, hóa cuồng, không lính không quan gì nữa rùng rùng lao chạy trong lưới đạn dày đặc, chết dúi ngã dụi vào biển lửa. Trên đầu trực thăng rà rạp các ngọn cây và gần như thúc họng đại liên vào gáy từng người một mà bắn. Máu tung xối, chảy tóe, ồng ộc, nhoe nhoét. Trên cái trảng hình thoi ở giữa truông, cái trảng mà nghe nói đến ngày nay cỏ cây vẫn chưa lại hồn để mọc lên nổi, hồi đó la liệt xác người bị pháo bầy đốn hạ, thân thể dập vỡ, tanh bành, phùn phụt phì hơi nóng” (tr. 6-7). Trong trận chiến kinh hoàng ấy, Tiểu đoàn trưởng của Kiên gào to: “Thà chết không hàng… Anh em, thà chết…!”; “mặt tái dại, hốt hoảng hoa súng ngắn lên […], anh ta tự đọp vào đầu, phọt óc ra khỏi tai” (tr. 7). Chứng kiến cảnh ấy, Kiên “líu lưỡi, kêu ố ố trong họng” (tr. 7). Bọn Mĩ xông tới, “tiểu liên kẹp bên sườn. Đạn dày đặc tủa tới như đàn ong lửa” (tr. 7). Kiên thoát chết, nhưng đã bị “thần chết sờ soạng”, “mồm và vết thương không ngừng nhểu máu, thứ máu của xác chết, lạnh và nhớt. Rắn rết bò qua người anh” (tr. 7). Những ngày sau đó, “diều quạ bay rợp trời, và sau khi bọn Mĩ rút lui thì mưa ập xuống, lụt rừng. Bãi chiến trường biến thành đầm lầy, mặt nước màu nâu thẫm nổi váng đỏ lòm. Trên mặt nước lềnh bềnh xác người sấp ngửa, xác muông thú cháy thui, trương phình trôi lẫn với cành lá và những thân cây to nhỏ bị mảnh pháo băm” (tr. 7). Sau trận ác chiến, tàn bạo, đẫm máu ấy, chẳng còn ai nhắc đến Tiểu đoàn 27 nữa, “mặc dù vô khối hồn ma quỷ ra đời trong trận bại vong ấy hiện vẫn lang thang khắp các xó xỉnh bụi bờ ven rừng dọc suối chưa chịu chầu trời. Còn cái truông núi vô danh mịt mù lam chướng này thì từ bấy có cái tên là Gọi Hồn, cái tên nghe dựng cả tóc gáy” (tr. 8). Sau những ngày khủng khiếp ấy, “đi đêm ở vùng này có thể nghe thấy tiếng chim chóc khóc than như người”; “cũng không thể thấy ở đâu như ở đây các loại măng lại nhuộm một màu đỏ dễ sợ đến vậy, đỏ như những tảng thịt ròng ròng máu” (tr. 8). Ở đây, khi trời tối “cây cối hòa giọng với gió rên lên những bản nhạc ma. […] Có lẽ là núi là rừng chứ không phải con người đã làm nảy sinh ra những huyền thoại rùng rợn, những truyền thuyết man rợ, nguyên thủy nhất về cuộc chiến tranh vừa qua” (tr. 8). Ngòi bút tiểu thuyết của Bảo Ninh đã đặc tả một trong những trận đánh kinh hoàng, đẫm máu, tàn bạo của cuộc chiến tranh Việt - Mĩ. Đây là những trang văn hay bậc nhất viết về sự tàn bạo, hủy diệt của chiến tranh. Cái hấp dẫn của những trang văn này không phải chỉ là sự hấp dẫn tự thân; nó không chỉ gây chú ý ở tính chất ác liệt của một trận đánh mà còn hướng tới làm nổi bật chủ đề của thiên tiểu thuyết, góp phần lý giải sâu sắc vì sao chiến tranh muôn thuở xưa nay lại là nỗi buồn đau của con người.
Bảo Ninh đã chọn lọc những chi tiết điển hình để dệt nên bức tranh chiến trận hãi hùng, nhằm tô đậm nỗi khủng khiếp, kinh hoàng của chiến tranh. Qua những dòng hồi tưởng của Kiên, những gì mà Kiên trực tiếp chứng kiến và cả những gì mà đồng đội của anh kể lại, cái hiện thực chiều sâu về chiến tranh, cái hiện thực bị khuất lấp mà cái nhìn mang khuynh hướng sử thi không nhìn thấy, đã hiện lên, đạt tới tầm mức cao nhất của sự chân thật nghệ thuật. Trong tâm trí Kiên, cho đến mãn đời anh vẫn còn nhớ đến Quảng, người tiểu đội trưởng đầu tiên của mình. Quảng bị đốn ngã trên đường vận động chiến, “bụng rách trào ruột”, “xương xẩu dường như gãy hết, mạng sườn lõm vào, tay lủng liểng, và hai đùi tím ngắt”. Không chịu được đau đớn, Quảng “hạ lệnh” mà như van nài Kiên: “Bắn anh đi em”; “Thương anh đừng bắt anh lê lết mãi […]. Cho anh được chết đi… một phát thôi” (tr. 99-100). Sau kỳ nghỉ bài bạc và hút xách, một thời gian sau, “Thịnh “con” hi sinh trong cận chiến, đạn trúng tim, không kịp một tiếng kêu, ngã sấp…” (tr. 38). Sau đó chừng nửa giờ, “Vân chết cháy cùng với chiếc T54 đầu đàn. Thân xác ra tro nên chẳng cần huyệt mộ”. Còn Thành thì chết ở Cầu Bông, “và cũng bị thiêu trong quan tài thép cùng với tổ lái”. Cả trung đội chỉ còn Từ là đã cùng Kiên đánh đến cửa sổ 5 sân bay Tân Sơn Nhất rồi mới hi sinh.
Không sao chịu nổi nỗi kinh hoàng của cuộc chiến tranh ác liệt kéo dài, nạn đào ngũ đã lan tràn cả trung đoàn. Can là người lính gốc nông dân có khả năng “thích hợp tuyệt đối với cảnh địa ngục chiến hào” (tr. 22), nhưng cũng không sao thoát khỏi tình cảnh của những người lính “Tâm hồn bấn loạn, ngôn ngữ độc thoại rối mù, họ bị thực cảnh chiến tranh đầy ải tàn nhẫn, làm cho suy sụp sâu sắc cả thể xác lẫn tinh thần” (tr. 22). Trước khi đào ngũ, Can đã nói với Kiên: “Mình vào đây làm gì khi để mẹ già ở nhà cơ cực, không nơi nương tựa, ngày đêm than khóc nhớ con…” (tr. 22). Dù đã được Kiên khuyên can: “Đi như thế này là tự sát và nhục nhã lắm!” nhưng Can vẫn đào ngũ và chết thật thê thảm: “Cái xác lở loét, ốm o như xác nhái bị dòng lũ xô táp lên một bãi lau lầy lụa. Mặt của xác chết quạ rỉa, miệng nhét đầy bùn và lá mục, nom cực kỳ tởm”; cái hố mắt “trông như hai cái tăng xê, mà chưa chó gì mà đã mọc rêu xanh lè, rõ ghê!” (tr. 25).
Tiểu thuyết của Bảo Ninh cũng nói tới dường như đủ mọi thứ chuyện của người lính, những cách thức mà họ tìm cách vượt thoát ra ngoài bầu không khí căng thẳng, ngột ngạt của chiến tranh. Đó là những cảnh người lính đánh bài, hút xách, “nhờ khói hồng ma mà quên mọi nông nỗi đời lính, quên đói khổ, chết chóc, quên béng ngày mai” (tr. 14). Đó là chi tiết, một hôm, Thịnh “con”, giữa tro tàn của một ngôi làng, đã bắn chết một con vượn rất to, nhưng đến khi “ngả nó ra, cạo được sạch bộ lông thì ối giời đất ôi, con vật hiện nguyên hình một mụ đàn bà béo xệ, da xùi lở nửa xám nửa trắng hếu, cặp mắt trợn ngược. Cả lũ bọn Kiên thất kinh, rú lên, ù té, quẳng tiệt nồi niêu dao thớt” (tr. 9). Đó còn là cảnh tượng xảy ra ở truông Gọi Hồn vào mùa mưa cuối cùng của cuộc chiến tranh, “trong mưa rơi buồn thảm, trung đội trinh sát “nông trường 3” đã sống một thuở yêu đương say đắm lạ lùng” (tr. 27). Tình tiết này gợi liên tưởng đến tiểu thuyết Phía Tây không có gì lạ của nhà văn Erich Maria Remarque (1898-1970) viết về Thế chiến lần thứ nhất. Nhưng tình tiết những người lính “vượt rào” trong sinh hoạt của tiểu thuyết Bảo Ninh, một mặt, thể hiện cái nhìn nhân bản về con người của nhà văn; mặt khác, “câu chuyện tình bi thảm và mông muội giữa các đội viên trinh sát” “với ba cô gái bị chiến tranh cầm tù giữa rừng sâu núi thẳm năm xưa” (tr. 37) cũng chỉ đóng vai trò như một cảnh trong bức tranh toàn cảnh, thể hiện cái nhìn của nhà văn về chiến tranh, làm nổi bật thảm kịch của con người trong chiến tranh, tô đậm cái tột cùng đau thương, khốc liệt, bạo tàn của chiến tranh. Có thể nói, Bảo Ninh đã thành công trong việc tái hiện những mảnh vỡ/ mảnh ghép của chiến tranh, cứ hé ra cánh cửa này rồi lại khép lại, mở ra cánh cửa khác, vừa để cho nhân vật tuông ra ngoài đón chút không khí dễ thở lại đẩy chúng quay về bầu không khí ngột ngạt, cứ ngỡ là niềm vui nhưng hóa ra vẫn cứ trở về với điệp khúc nỗi buồn; qua đó, làm nổi bật cái nhìn buồn đau về chiến tranh.
Như trên đã viết, chiến tranh là nỗi buồn đau của con người, là cái nhìn bao trùm, xuyên suốt tác phẩm. Khi vừa bước vào cuộc chiến, Phương đã nói với Kiên: “Em nhìn thấy tương lai. Đây là sự đổ nát. Sự tiêu hủy” (tr. 148). Cảnh ở phi trường Tân Sơn Nhất ngày chiến thắng cũng được hiện ra qua cái nhìn đau buồn về chiến tranh. Ấy là cảnh “khắp phi trường tiếng súng ăn mừng đã loạn lên. Lính quan rầm rập, nườm nượp. Người chạy tới, người chạy lui khiêng dỡ, đạp phá ầm ầm ào ào, nhốn nháo như chợ” (tr. 109). Suốt đêm, Kiên lang thang trong phi cảng “xem lính tráng vét “đồ cổ”, nhập hội ăn nhậu đập phá. Cuộc hoan lạc ồ ạt song ít vui, đúng hơn là tuyệt nhiên chẳng vui một chút nào. […] Hòa bình ập tới phũ phàng, choáng váng đất trời và xiêu đảo lòng người, gây bàng hoàng, gây đau đớn nhiều hơn là niềm vui” (tr. 113). Qua cái nhìn của Bảo Ninh, chiến thắng mà nặng trĩu biết bao đau đớn: “Khắp phi trường, từ ngoài đường băng vào đến trong nhà ga, tiếng súng rầm rộ quay cuồng tràn lên trên mọi tiếng ầm à khác. Pháo hiệu xanh, đỏ, vàng, tím, cùng những loạt đạn vạch đường làm ửng hồng vòm trời. Dường như một trận động đất, dường như một cuộc đại náo thiên cung. Không thể nào không rùng mình cảm thấy rằng ra đi cùng với ba chục năm trường chiến trận là cả một thời, là cả một thế giới với biết bao nhiêu là cuộc đời và số phận, là sự sụp đổ của một góc trời cùng với đất đai và sông núi” (tr. 114). Niềm vui chiến thắng ở đây khác hẳn với tiếng ca vui đầy hào sảng: “Mùa xuân này về trên quê ta/ Khắp đất trời biển rộng bao la…” (Mùa xuân trên Thành phố Hồ Chí Minh) đã từng làm say đắm lòng người. Qua tâm trạng của Kiên, Bảo Ninh dường như rất sớm nhận ra cái mặt trái, cái chìm sâu, cái vẻ khuất lấp của chiến thắng: “Cũng như họ, cũng trải qua những cảnh tượng không thể nào quên của chiến thắng, mà đám lính chiến tụi anh lại không có được tâm trạng sáng choang, bay bổng, ào ào sướng vui như họ là cớ làm sao? Tại sao cảm giác ngột ngạt lại đến với bọn anh quá sớm như thế, hầu như là chưa nhắc kịp chân ra khỏi chiến hào nữa kia?” (tr. 114).
Nỗi đau buồn chiến tranh vừa được nối tiếp vừa được cộng hưởng với nỗi buồn thời hậu chiến. “Bây giờ thì đã qua cả rồi, tiếng ồn ào của những cuộc xung sát đã im bặt. Gió lặng cây dừng. Và vì chúng ta đã chiến thắng nên đương nhiên có nghĩa là chính nghĩa đã thắng, điều này có một ý nghĩa an ủi lớn lao, thật thế. Tuy nhiên, cứ nhìn kỹ mà xem, cứ nhìn vào sự sống sót của bản thân mình; cứ nhìn kỹ vào nền hòa bình thản nhiên kia và cái đất nước đã chiến thắng này mà xem: đau xót, chua chát và nhất là buồn xiết bao” (tr. 227-228). Đất nước đã có hòa bình nhưng biết bao người đã hi sinh. Kiên ao ước: “Giá mà giờ phút hòa bình là giờ phút phục sinh tất cả những người đã chết trận nhỉ” (tr. 44) thì Sơn lại thốt lên: “Hừ, hòa bình! Mẹ kiếp, hòa bình là thứ cây mọc lên từ máu thịt bao anh em mình, để chừa lại có chút xương. Mà những người được phân công nằm lại gác rừng le là những người đáng sống nhất”. Kiên đặt hi vọng ở những người sẽ được sinh ra ở thế hệ sau thì Sơn cất tiếng: “Ờ, thì cũng phải hi vọng thôi, tất nhiên. Nhưng chả biết khi mô con cháu ta mới đủ lớn khôn. Với lại chúng sẽ lớn khôn theo kiểu gì, ai mà biết. Chỉ biết bao nhiêu cái tốt đẹp đã bị giết. Còn sót chút nào thì bọn chúng mang đổi chác nốt rồi” (tr. 44). Có thể nói Nỗi buồn chiến tranh đã nói lên được cái ác liệt, tàn bạo của chiến tranh, nói lên được những đau khổ của con người trong chiến tranh và trong thời đại mình đang sống.
*
Qua cái nhìn của Bảo Ninh, chiến tranh hiện lên như một hoàn cảnh làm biến dạng nhân tính, làm tha hóa con người. Vừa mới chạm vào chiến tranh, trong trận mưa bom ở nhà ga Thanh Hóa, Kiên đã trực tiếp nhìn thấy bộ mặt tàn bạo của nó. Bầu không khí đen ngòm, ngột ngạt của chiến tranh đã bao trùm tất cả. “Giữa biển điên rồ những tiếng gầm tiếng nổ, khói đặc và lửa táp, không thể trông thấy rõ rệt một cái gì, mà cũng chẳng có thì giờ dù chỉ nửa tích tắc để chạnh nghĩ đến mạng sống của ai đấy. Bởi vì, không còn gì nữa cả trong cái thế giới kinh khủng, bị bóp nghẹt, bị nén lại đến mức này: Không có ánh mặt trời, không có không khí, hơi thở, không còn con người, lòng nhân, tình trắc ẩn…” (tr. 352-353). Lần đầu tiên Kiên “thấy người bị giết, thấy sự dã man, thấy máu trào lếnh láng. Trời ơi, và từ đấy… cả thế hệ anh đã lao vào trận chiến một cách hăng say, một cách hung dữ, đã làm đổ máu mình, đổ máu người. Hàng đọi máu, sông máu…” (tr. 130). Đối diện với kẻ thù, Kiên cũng như những người đồng đội của anh chỉ có một nhiệm vụ là tiêu diệt chúng. Kiên “chửi gằn và khinh bỉ xiết cò. Điểm xạ AK bắn gần đến nỗi tên ngụy bật khỏi gốc cây như bị búng đi” (tr. 18). Kiên “nghiến răng, đứng phơi ra chúc họng súng xuống, điên cuồng nã từng phát đóng đanh lên cái thân xác còn nóng hổi sức sống đang oằn oại đau đớn trong cơn rung giật giãy chết” (tr. 19). Cảnh hành quyết bốn tên thám báo đã để lại ấn tượng nặng nề, tạo nên giấc mơ kinh hãi của Kiên. Qua lời tâm sự của Phát, ta thấy anh cũng day dứt khôn nguôi về hành động của mình với người lính bên kia chiến tuyến: “Tôi nhớ tới con người ấy, nhớ tới sự ngu ngốc bạo tàn của tôi. Thà rằng tôi giết phứt ngay anh ta. Đằng này… là người thì không ai đáng phải chịu một nhục hình như tôi đã bắt anh ta phải chịu” (tr. 98). Can trước khi đào ngũ cũng tâm sự với Kiên: “Cả đời đi đánh nhau, thú thật, tôi chả thấy cái trò này là vinh” (tr. 24). “Tôi không sợ chết, nhưng cứ bắn mãi, giết mãi thế này thì chết hoại tình người. […] Tôi vẫn tự nhủ là tránh giết người bằng dao và lê, nhưng mà quen tay mất rồi. Thế mà hồi nhỏ tôi đã suýt nữa thi đỗ vào trường dòng đấy” (tr. 22).
Ngòi bút tiểu thuyết của Bảo Ninh đã phơi bày biết bao những cảnh tượng, những hành động phi nhân của con người trong chiến tranh. Ấy là cảnh Kiên và Tạo “voi” quỳ bên khẩu Mã lai bắn xả vào dòng thác tàn binh của trung đoàn 45 đang tháo chạy khỏi vùng đất trống Phước An rìa ngoài Buôn Ma Thuột. “Không phải bắn nữa mà là tàn sát. Chưa bao giờ có nhiều xác người đến thế bày ra trước mắt Kiên” (tr. 131). Ấy là cảnh một tay “cục súc”, “tên súc sinh”, một thằng cha “Chí Phèo”, “túm lấy chân một người chết xềnh xệch kéo đi”, “dã man kéo sền sệt cái xác khốn khổ […] choãi chân vặn lưng lấy đà, quăng mạnh, liệng bổng người ta lên” (tr. 108-109). Bước ra khỏi chiến tranh, những người lính sống sót trở về cũng khó có thể trở lại với đời sống bình thường. Sơn nói với Kiên: “thời đại của cánh ta hết rồi. Mà nói thật chứ sau chiến thắng oai hùng này những thằng lính chiến đấu như ông ấy mà ông Kiên, chả trở thành người bình thường được nữa đâu. Ngay cả giọng người, mẹ kiếp, xin nói là còn chán mới hòng có lại để giao tiếp với đời” (tr. 45). Hồi ức về những cảnh bạo tàn của chiến tranh đã kích thích trong Kiên “Thói hiếu sát. Máu hung tàn. Tâm lý thú rừng. Ý chí tối tăm và lòng dạ gỗ đá”. Kiên “chóng mặt, choáng hồn đi vì niềm hưng phấn man rợ khi bật sống dậy trước mắt một trận chiến bằng báng súng và lưỡi lê” (tr. 49). Chiến tranh đã nhào nặn Kiên, từ một thanh niên trong trắng, nhạy cảm và tế nhị trong tình yêu trở thành kẻ “tàn bạo hung dữ, trở thành kẻ sát nhân ngay trước mắt” người yêu. “Một con người khác, một con người máu me, ù đặc, lỳ lợm, vô tri giác, một con người chết chóc đang hung hãn hồng hộc thở trong Kiên chứ không còn là chính bản thân anh nữa” (tr. 252). Sau từng ấy năm trời sống trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, tiếp tục sống trong thời hậu chiến, Kiên trở thành “một ma men” (tr. 119), một “quái nhân” (tr. 120), “đã trở nên hoàn toàn sa đọa, đã trở nên thác loạn, đã ngập chìm trong tủi nhục, oán hờn và lú lẫn” (tr. 106). Kiên vẫn thường thấy lại ở mình và những người xung quanh “những giờ phút dài dằng dặc trong những giờ phút mất hồn này, một trạng thái như bị nhồi bông vào óc, không sợ hãi, không phấn chấn, không vui, không buồn, chẳng thiết gì, chẳng lo cũng chẳng mong gì, một trạng thái ù lì, mụ mị, đánh đồng người khôn người dại, người gan kẻ nhát, đánh đồng lính với quan thậm chí đánh đồng thù bạn, cuộc sống cõi chết, hạnh phúc đau khổ” (tr. 255). Kiên cũng như nhiều đồng đội của anh bước ra từ cuộc chiến với chấn thương tâm hồn nặng nề: “Trở về sau chiến tranh, cho đến tận bây giờ, tôi đã phải chịu đựng hết hồi ức này sang hồi ức khác, ngày này qua ngày khác, đêm thâu này thấu đêm thâu kia thử hỏi đã bao năm ròng?” (tr. 49). Nhiều hôm không đâu giữa phố xá đông người, Kiên “đi lạc vào một giấc mơ khi tỉnh. Mùi hôi hám pha tạp của đường phố bị cảm giác nồng lên thành mùi thối rữa”, Kiên “tưởng mình đang đi qua đồi “Xáo Thịt” la liệt người chết sau trận xáp lá cà tắm máu cuối tháng Chạp 72”. Có đêm Kiên “giật mình thức dậy nghe tiếng quạt trần hóa thành tiếng rú rít rợn gáy của trực thăng vũ trang”; thót người lại trên giường, Kiên “nín thở chờ đợi một trái hỏa tiễn từ tàu rà phụt xuống. “Chéo-éo-éo… Đoành””. Kiên cũng không thể nào “bình tâm nổi trước cảnh bọn lính Mĩ mặc áo giáp đang gào lên trên màn ảnh truyền hình. Tôi như sẵn sàng nhập thân trở lại với cảnh lửa, cảnh máu, những cảnh chém giết cuồng dại, méo xệch tâm hồn và nhân dạng…” (tr. 49).
Với Bảo Ninh, chiến tranh không được nhìn như một hoàn cảnh để sàng lọc con người; không được xem như môi trường nuôi dưỡng phẩm chất anh hùng, mảnh đất gieo mầm chủ nghĩa anh hùng cách mạng; mà là cái hoàn cảnh bạo tàn làm tha hóa con người, là “những cơn ác mộng hủy diệt tâm hồn và lột trần nhân tính” (tr. 93). Từ trong trang sách của Bảo Ninh, hơn một lần vang lên tiếng kêu: “Nhân tính! Mẹ kiếp”; “Nhân tính! Tình người…!”; “Hãy coi chừng xem lại nhân tính” (tr. 111-113) trong hoàn cảnh chiến tranh.
*
Qua cái nhìn của Bảo Ninh, chiến tranh, hoàn cảnh của thời đại chiến tranh làm tan vỡ tình yêu và hạnh phúc của con người. Chiến tranh và hoàn cảnh thời hậu chiến, không chỉ nhào nặn Kiên “trở thành kẻ sát nhân”, “ù đặc, lỳ lợm, vô tri giác” (tr. 9) mà còn làm biến đổi cả Phương, từ một nữ sinh sắc đẹp trẻ trung, tươi rói, “một sắc đẹp bừng cháy sân trường Bưởi” (tr. 144) thành một kẻ khác: “Một sắc đẹp đến vậy, trẻ trung đến như thế nhưng lem luốc, tàn hại rã rời và đầy bất cẩn. Một sự thác loạn ngưng thành khối thất vọng ủ ê” (tr. 159-160)”; “Một cách vô phương cứu vãn, từ một bạn gái tươi đẹp, bừng sáng vẻ thanh tân tự tâm hồn, luôn luôn tha thiết, luôn luôn đằm thắm, trong phút chốc biến thành một người đàn bà khác hẳn, xiết bao xa lạ đối với anh, một người đàn bà từng trải, đã gạt bỏ mọi ảo tưởng và đã tan biến niềm hi vọng, lạnh nhạt vô tình, dửng dưng với tất thảy, với bản thân nàng, với anh, với quá khứ, với cảnh ngộ tang thương đau khổ của mọi người, của đất nước” (tr. 270-271); đã biến đổi Phương từ một cô gái “chẳng những đẹp người mà tính nết lại rất dễ thương”, “thật đẹp và thật can đảm, giàu tự tin, lòng dạ trong sáng” (tr. 274) trở thành một kẻ “hư hỏng”, “lõa lồ phô phang bất chấp đời” (tr. 269), sống buông thả, “tung trời chơi và phá”, đôi khi tự cảm thấy mình “như con vật” (tr. 160).
Chiến tranh là cái nguyên cớ vừa trực tiếp vừa sâu xa làm tan nát mối tình đầu của Kiên và Phương. Chiến tranh đã chia lìa Kiên và Phương, mỗi người một ngả. Phương nói với Kiên trong cái đêm hè đi cắm trại ở Đồ Sơn: “Chỉ sợ chúng mình không kịp sống và yêu… Không kịp, đã mất hết!” (tr. 204). Phương muốn chia sẻ những điều bí mật với Kiên về người cha của anh trong buổi chiều hôm trước buổi học cuối cùng, bởi dường như Phương đã linh cảm thấy sự bất ổn đang chờ đón họ: “Bởi chẳng còn đêm nào như đêm nay. Chẳng còn bao giờ nói được với nhau nữa. Bởi vì anh đi đường anh thì em cũng đi đường em” (tr. 150). Trong cái đêm tuyệt vời thơ mộng, tuyệt vời trong sáng bên hồ Tây, “Vị thần bảo hộ cứu tinh cho sự trinh trắng và trong sạch của đôi bạn, chẳng phải ai khác ngoài chính họ” (tr. 147). Hỡi ôi, cái sự trinh trắng và trong sạch ấy lại bị chiến tranh cùng với bối cảnh bạo tàn của nó cướp mất! “Chiến tranh thì nó có chừa bất kỳ một cái gì mà nó không ngấu nghiến và không chà đạp!” (tr. 260). Bóng dáng của chiến tranh vừa thấp thoáng xuất hiện đã như báo hiệu trước sự tan vỡ của mối tình giữa Kiên và Phương: “Bắt đầu từ đêm ấy, dông tố đen ngòm một thời. Từ đêm ấy bắt đầu những sự kiện ghê gớm” (tr. 204). Trong cái đêm hai đứa tình tự bên hồ Tây, Phương đã bộc bạch với Kiên: “em là đứa con gái lạc thời và lạc loài… Anh lại là người con trai đúng thời. Vậy mà tại sao chúng mình yêu nhau, yêu bất chấp tất cả, bất chấp cả sự khác nhau quá lớn giữa hai đứa?” (tr. 149); “Anh say mê cuộc chiến tranh đến đứng ngồi không yên” (tr. 149); “Anh muốn hiến cuộc đời mình cho sự nghiệp gì đó, còn em thì quyết định sẽ phung phí đời mình, sẽ hủy diệt nó trong cuộc loạn ly này” (tr. 151). Mùa hè năm sau Kiên vào bộ đội; mùa thu lên đường đi B dài. Phương tiễn anh đi vào chiến trường. Trong cái cảnh xô bồ, bát nháo, hỗn loạn của chiến tranh, Phương đã bị hãm hiếp trên toa tàu hàng. Sau sự cố đau lòng ấy, Phương đã nói với Kiên: “Chúng mình không có lỗi. Chẳng ai có lỗi cả. Chúng mình sinh ra trong trắng từ thơ ấu, lớn lên trong trắng biết bao. Yêu nhau như thế. Em yêu anh và anh cũng vậy. Tốt đẹp và trong trắng. Ước mơ, hi vọng. Mẹ em như thế. Cha anh như thế. Một cuộc đời đẹp đẽ biết nhường nào… Và em là vợ anh chứ sao, nhưng đó là số phận trước đây, còn bây giờ là một số phận khác, chúng mình đã chọn nó. Chọn mà không hiểu. Và gọi là chọn chứ kỳ thực là không thể tránh được. Quên hôm qua đi. Cũng đừng lo lắng ngày mai. Biết thế nào được mà lo. Càng không nên dằn vặt đau khổ. Để làm gì… Nghe em, ngủ đi. Đừng nghĩ, nghĩ làm gì. Đằng nào thì anh cũng thành ra thế, mà em thì thành ra thế này mất rồi…” (tr. 263). Sau chiến tranh, họ gặp lại nhau nhưng đâu còn nữa mối tình đầu hồn nhiên, trong trắng. Phương sống buông thả, sống trong chán chường và thất thường: “Hầu như năm nào chẳng thế, đang tung trời chơi và phá, nàng lại thình lình như thể định đi tu”. Nàng sống “với những thú vui” mà Kiên “biết là nàng chán ngấy” (tr. 158), mặc dù thừa nhận với Kiên là “em không yêu ai ngoài anh cả” (tr. 162), còn Kiên cũng nói vẫn còn yêu Phương, nhưng họ không thể tiếp tục sống bên nhau. Chua chát biết bao lời của Phương nói với Kiên, cái lời cắt nghĩa sâu xa vì sao mà tình yêu của họ tan nát: “Ôi, Kiên! Lý ra thì mình đã có cuộc đời hạnh phúc bên nhau. Nhưng nông nỗi vì đâu mà thế này, em cũng chẳng biết nữa. Em không thể sống với anh như thế được. Chúng mình nên xa nhau, anh hiểu dùm cho em.” (tr. 161). Thì ra cũng bởi tại chiến tranh! Với Kiên, bóng đen của chiến tranh bao phủ lên toàn bộ cuộc đời anh, thật khủng khiếp, “một cuộc chiến tranh chẳng những mãi mãi đè nặng, mãi mãi ám ảnh mà về thực chất nó còn là nguyên nhân của mọi khúc đoạn và nông nỗi của đời anh, kể cả hạnh phúc, kể cả đau khổ, niềm vui và nỗi buồn, tình yêu và oán hờn” (tr. 78). Khi đau đớn mà vẫn dứt khoát chia tay với Kiên, Phương đã đến tìm anh. Nàng nói với Kiên: “Anh, em phải sang gặp anh. Anh không thể biết được tất cả mọi điều đâu. Những điều mà một người đàn bà như em phải trải qua. Em phải trả giá cho những việc em đã làm. Em đã hư hỏng. Đôi khi em thấy mình như con vật. […] Em tự kết liễu đời mình, có phải không? Kết liễu trong lạc thú và trong sự độc ác đối với anh” (tr. 160). Kiên cũng chua chát và đau đớn như Phương qua lời đáp: “Đời anh cũng thế, hết rồi” (tr. 160). Ngay từ những giờ phút đầu tiên đối mặt với chiến tranh, Kiên đã nhận ra: “Chiến tranh trong phút chốc đã không còn là như anh vẫn tưởng. Nỗi đau đầu tiên trong đời lính, hầu như mơ hồ, hầu như không có thật, bám riết lấy Kiên. Chính từ đấy, từ lúc bị giằng bật ra khỏi Phương, đời Kiên bắt đầu thực sự đẫm trong máu, trong thương đau, trong thất bại” (tr. 211). Kiên và Phương, cũng như những con người đã từng đi qua cuộc chiến tranh lâu dài và ác liệt, đều bị bầm dập bởi chiến tranh, và cuộc đời họ thời hậu chiến, chua chát thay, ít nhiều đều bị tha hóa: “Buồn thay, họ là những người tình tuyệt vời lại là những người cô độc vĩnh viễn, chẳng những đã mất mát lứa đôi mà còn mất đi khả năng yêu đương và bởi những ám ảnh mà trở nên suy đồi theo cái cách của họ” (tr. 280). Qua cái nhìn có chiều sâu của Bảo Ninh, cả tuổi trẻ, tình yêu, sự trong trắng và những gì cao quý của con người đều bị vùi dập, tàn phá bởi chiến tranh.
*
Trong quan niệm của Bảo Ninh, chiến tranh không chỉ làm tan nát tình yêu, hạnh phúc mà còn làm thui chột, hủy hoại cả nghệ thuật cao quý, sang trọng. Chiến tranh, hoàn cảnh của đất nước có chiến tranh phải tập trung vào vấn đề quyền sống của dân tộc, đời sống bát nháo, xô bồ của thời hậu chiến, đã làm mai một, lệch lạc sự phát triển lành mạnh của nghệ thuật. Nếu không có chiến tranh, có thể cái năng khiếu nghệ thuật của Phương sẽ được nuôi dưỡng và phát triển. Bà mẹ của Phương nói với Kiên: “Bác chỉ có một sở nguyện là hướng Phương vào nghệ thuật cao quý của cha nó… âm nhạc cổ điển và đàn pianô… Bác rất hãi cái đàn ghi ta và những ham mê ca xướng của nó…”. Do “gien âm nhạc” và nhất là do được mẹ kèm dạy từ nhỏ, Phương đàn pianô rất khá “nhưng càng lớn Phương càng biếng tập”. Phương cho rằng: “Dương cầm, nó quá trang trọng, quá cao sang và cồng kềnh nữa, mà chúng mình đang ở thời đại loạn, phải gọn nhẹ, sắc bén thì mới nhập cuộc được” (tr. 237). Chiến tranh, rồi bối cảnh của thời hậu chiến đã làm lệch hướng năng khiếu nghệ thuật của Phương. Đôi lần Kiên buộc phải đến nhà hát để xem công diễn những vở ca kịch mà Phương có sắm vai, Kiên cảm thấy “xấu hổ, vì ngượng thay cho nàng, cho những vai diễn khác…”. “Tất cả, những gì anh đang phải cụp mắt xuống để khỏi phải nhìn đều là sự phô bày đến tột độ cái bất tài, cái thô thiển nhảm nhí, cái kiêu hãnh trắng trợn, cái thảm hại vô vị của nền nghệ thuật đặc trưng cho đời sống tinh thần thời hậu chiến” (tr. 239). Không chỉ có “vẻ đẹp lạc thời và lạc loài” (tr. 142) mà năng khiếu nghệ thuật bẩm sinh của Phương cũng lạc thời. Về phương diện này, Phương là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng cho một năng khiếu thiên bẩm bị lạc thời, bị lỡ vận. “Vận hội của một đời sống tinh thần cao cả, hoàn mĩ, của một đời sống văn hóa thiên bẩm, của những giá trị nhân phẩm bị bỏ phí” (tr. 239).
Trong thời đại chiến tranh triền miên, ác liệt, mọi giá trị của đời sống đều phải theo hệ quy chiếu của lợi ích, quyền sống tối thượng của dân tộc, cộng đồng, thì nghệ thuật cũng khó có điều kiện thuận lợi để nảy sinh, phát triển. Hoàn cảnh chiến tranh cũng chi phối khuynh hướng nghệ thuật của thời đại; nỗi buồn chiến tranh cũng gắn liền với nỗi buồn nghệ thuật. Cha Kiên là một họa sĩ tài năng nhưng không hợp thời – một nghệ sĩ lạc thời. Ông không chấp nhận yêu cầu tầm thường hóa nghệ thuật, gò ép nghệ thuật vào cái khuôn khổ cứng nhắc, phi nghệ thuật: “Phải hạ tính vĩnh cửu xuống mà thêm chất phàm tục vào!”; “Phải xác định thành phần giai cấp cho sông núi!” (tr. 137) và khao khát “sẽ cho ra đời một kiệt tác!” (tr. 137). Những bức tranh in đậm cá tính sáng tạo, những cách tân nghệ thuật độc đáo của ông trở nên lạc lõng với khuynh hướng nghệ thuật cơ bản của một đất nước lấy số phận của cộng đồng, của dân tộc làm thước đo cho mọi giá trị thẩm mĩ của thời đại. Ông bị phê phán là “hạn chế về lập trường quan điểm”, “càng ngày càng xa lạ với thẩm mĩ của quần chúng nhân dân lao động”, đã biến hội họa “thành những chân dung ma quỷ” (tr. 137). Ông “bị phê phán và bị đánh đổ”, sống trong nghèo túng và trong con mắt mọi người, ông là “nhân vật bất mãn đáng ngờ, một tay hữu khuynh”, “đang trở thành lẩm cẩm và kỳ quặc” (tr. 136). Trước khi chết, người họa sĩ tài năng và cô đơn này “đã đốt hết kho tàng báu vật của suốt cuộc đời không ngừng vẽ và vẽ. Đốt sạch không còn bức nào trong cái đêm ông cảm thấy thần chết giục giã” (tr. 138-139). Cái buổi tối mà ông nhờ Phương nhóm lửa ở góc sân thượng để đốt tranh ấy, “cô không nghĩ là ông say, ông mất trí mà lập tức hiểu ngay là ông sắp chết. Như thể là ông tự vẫn trước đã rồi sau đấy mới lìa đời vậy”. Tuy lúc đầu Phương sợ cuống, hết hồn, nhưng chỉ chốc lát, “cô đã bị cuốn hút vào không khí trang nghiêm ma quái dập dờn tỉnh mê của buổi tế lễ thần. Kỳ ảo, huyền bí nhưng đích thực là một ác mộng. Một niềm đam mê tà giáo. Choáng ngợp tâm hồn Phương là vẻ bừng sáng tuyệt vọng của cái đẹp bùng cháy lên. Và trong sắc lửa và sắc diện của con người tử vì đạo: đau đớn, say cuồng, tột cùng hạnh phúc. Một thứ hạnh phúc lộn ngược” (tr. 143). Qua ngòi bút Bảo Ninh, hình ảnh người họa sĩ tài năng, đầy tâm huyết với nghệ thuật, khao khát cho ra đời một kiệt tác mà suốt đời phải sống trong bi kịch, kết cục phải tiêu hủy toàn bộ tác phẩm của mình là một biểu tượng bi tráng về một nghệ sĩ đầy tài năng mà lạc thời, sinh ra nhầm thế kỷ. Vậy là qua cái nhìn sâu sắc của Bảo Ninh, không chỉ tuổi trẻ, sự trong trắng, tình yêu mà cả nghệ thuật, cũng bị hủy hoại bởi chiến tranh. Thân phận mỗi con người, thân phận của tình yêu và thân phận của nghệ thuật đều bị vùi dập, hủy diệt bởi chiến tranh.
*
Trong Nỗi buồn chiến tranh, ẩn sâu trong nỗi đau buồn chiến tranh là khát vọng hòa bình. Tô đậm nỗi đau buồn chiến tranh, tiểu thuyết của Bảo Ninh vừa là tiếng nói thiết tha đừng bao giờ quên cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc ta cùng với cái giá vô cùng to lớn mà chúng ta đã trả để giành chiến thắng, vừa là lời kêu gọi thống thiết phải giữ vững hòa bình. Trong quan niệm của Bảo Ninh, “hòa bình chẳng qua là thứ cây mọc lên từ máu thịt anh em mình” (tr. 44), từ máu thịt của biết bao con người đã hi sinh. Vì thế, khi đất nước đã có hòa bình, bằng mọi giá phải giữ lấy hòa bình. Từ trong chiều sâu thăm thẳm của nỗi đau buồn chiến tranh bừng sáng lên khát vọng hòa bình. Khát vọng ấy lóe lên trong tâm trí của Kiên, với tư cách là người lính, vào cái đêm Phương đi cùng với anh trên con tàu đang chạy vào Vinh: “Đêm tối chiến tranh mênh mông bao phủ miền châu thổ. Những ý nghĩ và tình cảm rồ dại bật dậy trong lòng Kiên: thôi thì vứt bỏ tất, không có đại đội, không có tiểu đoàn, không có chiến tranh nào hết, cứ mãi mãi bên nhau thế này, mãi mãi không rời xa nhau!” (tr. 199). Là người lính trải qua mấy năm chiến trận, Kiên đã từ chối đi học sĩ quan, không muốn mình trở thành “những hạt thóc tốt nhất cho mùa sau”; “Chẳng những không muốn mà chắc chắn chẳng bao giờ đi học, chịu trở thành hạt giống cho những vụ mùa chiến tranh liên miên” (tr. 19). Anh “chỉ có thể sống và chỉ có thể vui lòng chết trong hàng ngũ những người lính thường […], sẵn sàng chịu mọi tai họa của chiến tranh tuy nhiên không bao giờ là những người chủ chiến…” (tr. 20). Với Kiên, đây là “cuộc chiến tranh cuối cùng” (tr. 78). Khát vọng ấy trở thành niềm mong muốn với sức mạnh thôi thúc mạnh mẽ khi Kiên cùng với Sư đoàn 10 hành quân kỳ diệu “Thần tốc! Thần tốc nữa” băng qua vùng thảo nguyên bao la miền Nam Tây Nguyên. Trên góc trời cực nam cao nguyên, “trước ngày kết thúc chiến tranh, trong lòng anh lần đầu tiên bừng lên tình yêu cuộc sống hòa bình, lòng thương mến ngưỡng mộ đối với đời sống lao động yên hàn, bình dị và êm ấm tuyệt đối tương phản với bạo lực, chém giết và tàn phá” (tr. 233). Khát vọng ấy còn được bộc lộ qua dòng suy nghĩ của Kiên, với tư cách là nhà văn, đang viết cuốn tiểu thuyết về chiến tranh, với mong muốn, sau cuộc chiến tranh ác liệt này, không bao giờ có chiến tranh nữa, không bao giờ có “những huống cảnh chiến trận kinh hoàng, những cảnh huống mà cầu trời cho đừng có ai đó trên đời này lại một lần nữa phải lâm vào” (tr. 93). Đang yên ổn sống trong hòa bình, nào có ai, có dân tộc nào muốn đất nước có chiến tranh: “Trai đất Việt thực ra không ham chiến trận lắm đâu như người ta hay đồn, hăng chiến phải nói là mấy ông trí thức tuổi sồn sồn bụng to chân ngắn. Còn với dân chúng, cơn binh lửa vừa rồi đã đủ đau thấu tới ngàn năm” (tr. 78).
Bảo Ninh đã miêu tả tâm trạng náo nức của biết bao người khi chiến tranh kết thúc được trở về nhà, về quê hương, trở về với cuộc sống đời thường, trở lại với con đường riêng của mỗi cuộc đời, “Những cuộc đời có lẽ chẳng sung sướng gì và cũng đầy tội lỗi, nhưng vẫn là cuộc đời đẹp đẽ nhất mà chúng tôi có thể hi vọng, bởi vì đấy là đời sống hòa bình” (tr. 282). Dường như lo lắng người đọc không hiểu đúng ý đồ nghệ thuật của mình, ngay sau đấy, Bảo Ninh khẳng định: “Đấy chắc chắn là điều mà tác giả thực sự của tác phẩm này muốn nói” (tr. 282). Đúng vậy, nói rất nhiều, sâu sắc, thấm thía và đầy ám ảnh về nỗi đau buồn chiến tranh cũng là để thể hiện khát vọng hòa bình, để khẳng định cuộc đời đẹp đẽ nhất là được sống trong hòa bình. Đúng vậy, chiến tranh là một hoàn cảnh đặc biệt, là biến cố khủng khiếp đối với mỗi dân tộc và mỗi con người. Sớm hay muộn thì chiến tranh cũng phải kết thúc để con người được sống trong hòa bình, sống cuộc sống đời thường. Khát vọng hòa bình, được sống trong hòa bình là khát vọng sâu xa nhất, muôn thuở của mỗi con người. Đúng như triết lý nhân sinh được gửi gắm qua lời khuyên của dượng Kiên với anh, trước ngày anh đến từ biệt ông lên đường nhập ngũ: “Nghĩa vụ của một con người trước Đất Trời là sống chứ không phải là hi sinh nó, là nếm trải sự đời một cách đủ ngành ngọn chứ không phải là chối bỏ… Không phải là ta khuyên con trọng mạng sống hơn cả nhưng mong con hãy cảnh giác với tất cả những sự thúc giục con người lấy cái chết để chứng tỏ một cái gì đấy. […] Cuộc đời còn rất dài với bao nhiêu hạnh phúc và lạc thú phải hưởng của con kia có ai sống hộ cho con được bây giờ?” (tr. 61-62). Cuộc đời là món quà quý giá nhất mà tạo hóa ban tặng cho mỗi chúng ta duy nhất một lần. “Nghĩa vụ của một con người trước Đất Trời là sống”, đó là cái lẽ sống đời thường, bình dị, chính đáng, muôn thuở, muôn đời của con người.
*
Cái nhìn chiến tranh của Bảo Ninh mặc dù có tô đậm nỗi đau buồn nhưng đâu phải là cái nhìn một chiều, phiến diện về chiến tranh. Do có độ lùi về thời gian, vượt thoát khỏi khuynh hướng văn học mang tính chất sử thi, cái nhìn về chiến tranh của Bảo Ninh vừa sâu sắc vừa đa chiều.
Cái nhìn mới về chiến tranh của Bảo Ninh trước hết là do thời đại mở ra cho nhà văn, tạo điều kiện cho anh nhìn thấy những chân trời mới. Kiên “cũng như mọi người ngày nay anh nhìn cuộc đời đâu phải chỉ từ một ô cửa duy nhất nào” (tr. 60). Cuộc chiến tranh chống Mĩ vừa hiện lên như lẽ sống còn của cả dân tộc, vừa là nỗi đau buồn của con người Việt Nam. Bảo Ninh đã tạo nên một cái nhìn song hành, mấp mé ranh giới giữa thực và ảo, giữa ý thức và vô thức, giữa thiện và ác, giữa nhân tính và thú tính, giữa tốt và xấu, giữa đúng và sai, dành một dư địa nhất định cho người đọc suy ngẫm để nhận ra lẽ phải. Viết Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh vẫn đứng vững trên lập trường dân tộc. Trong Nỗi buồn chiến tranh vẫn có những trang viết xúc động về sự hi sinh của những người lính. Vẫn bộc lộ sự cảm thông với những tình cảnh, những nỗi niềm, tâm sự riêng tư, sâu kín, đầy nhân bản của những người cầm súng thường xuyên phải đối mặt với cái chết. Vẫn biết ơn và không bao giờ quên Hòa cùng với “biết bao đồng đội thân yêu ruột thịt, vô số và vô danh, những người lính thường, những liệt sĩ của lòng nhân, đã làm sáng danh đất nước này và đã làm nên vẻ đẹp tinh thần cho cuộc kháng chiến”. Kiên nghiệm ra rằng “Bản thân anh nếu không nhờ sự che chở đùm bọc, được cưu mang và được cứu rỗi trong tình đồng đội bác ái thì ắt rằng đã chết từ lâu, không vì bị giết chết cũng sẽ tự giết mình bằng một cách nào đó để thoát khỏi gánh nặng chém giết, gánh nặng bạo lực mà thân phận con sâu cái kiến của người lính phải cõng trên lưng đời đời kiếp kiếp” (tr. 227). Trong Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã viết những trang văn đầy cảm động, khắc họa thành công hình tượng Hòa – cô giao liên – đã tự nguyện hi sinh để đồng đội mình được sống bằng hành động đánh lạc hướng bọn lính Mĩ, thu hút bọn chúng về phía mình để giải thoát cho Kiên, để anh êm thấm trở về chỗ khe cạn, dẫn cả đoàn tải thương tiếp cận bờ sông và vượt sang ngang trót lọt. Với Kiên, sự nghiệp thiêng liêng và đau khổ của người lính chống Mĩ sống mãi trong tâm hồn anh “trước tiên như một lời trăn trối. Kiên hiểu rất rõ rằng sứ mệnh của cuộc đời anh là đến một ngày nào đấy phải nói lên được nội dung của lời trăn trối ấy” (tr. 78). Kiên cũng như biết bao người đã trải qua cuộc chiến, đều không thể nào quên, đều coi cuộc chiến đã qua nâng đỡ tinh thần của mình, trong cuộc sống thời hậu chiến: “không phải là cuộc sống mới, thời đại mới, không phải là những hi vọng về tương lai tốt đẹp đã cứu giúp tôi, mà trái lại những tấn thảm kịch của quá khứ đã nâng đỡ tâm hồn tôi, tạo sức mạnh tinh thần cho tôi thoát khỏi vô tận những tấn trò đời hôm nay” (tr. 50). Vẫn chan chứa một niềm tin, chiến tranh dù có tàn bạo đến đâu, cũng không thể hủy diệt được tình yêu và cái đẹp. Ngòi bút của Bảo Ninh càng tô đậm nỗi đau buồn chiến tranh lại càng làm nổi bật niềm tin mãnh liệt ấy: “Càng từng trải chiến tranh, càng chứng kiến nhiều hơn sức mạnh hủy diệt, sức mạnh biến tất cả thành tro bụi của nó, Kiên càng tin rằng chiến tranh không tiêu diệt được cái gì hết. Tất cả vẫn còn đó, vẫn y nguyên” (tr. 275). Bảo Ninh đã viết những dòng say sưa nồng nàn, những lời có cánh về sự bất tử của cái đẹp: “Bất chấp chiến tranh kinh khủng, bất chấp bạo tàn và ô nhục, bất chấp sự rơm rác của những định kiến và những giáo điều gò khuôn cuộc sống của con người, Phương của anh vẫn vĩnh viễn trẻ trung, vĩnh viễn ở ngoài thời gian, vĩnh viễn bên ngoài mọi thời buổi. Vĩnh viễn nàng tuyệt đẹp, đẹp không chung một nét với bất kỳ kiểu người đẹp nào mà đời từng được biết: nàng như là thảo nguyên vừa qua mùa mưa lướt vào mùa gió, cuồn cuộn sóng cỏ xô bờ, rợp trời hoa cúc tơ hồng bay. Nàng xinh đẹp, mê dại và bất kham, hấp dẫn đến lịm người bởi một sắc đẹp kỳ ảo và khôn lường, đẹp một cách đau lòng, đẹp như một sắc đẹp bị chấn thương, như thể một sắc đẹp lâm nguy, mấp mé bên bờ vực” (tr. 275). Phương là một trong những hình tượng phụ nữ đẹp nhất trong văn học Việt Nam từ sau 1975, là biểu tượng của cái đẹp lộng lẫy, kỳ ảo, bị chiến tranh hủy hoại.
Như trên đã viết, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh đã vượt thoát khỏi cái nhìn mang tính sử thi có phần cứng nhắc, phân tuyến thật rạch ròi, dứt khoát giữa ta và địch. Thấm đượm trong cái nhìn về con người trong chiến tranh của Bảo Ninh là tấm lòng nhân ái, là niềm xót thương vô hạn của nhà văn đối với thân phận con người. Trong những ngày đi tìm hài cốt của đồng đội, Phán đã kể cho Kiên nghe chuyện một người lính ngụy bị thương: “Tên tuổi anh ta tôi không biết, chỉ biết anh ta là lính của liên đoàn 6 biệt động quân; người Nam hay Bắc hay Trung cũng chả biết vì anh ta chỉ rên, rên thì dân xứ nào cũng một giọng như nhau. Và ta hay ngụy thì cũng rên như vậy” (tr. 96). Nhìn xác những người phía bên kia ngổn ngang ở phi trường Tân Sơn Nhất, một người lính đề nghị: “Ta xúm tay vào dọn dẹp chỗ xác này đi […]. Nói chung họ cũng là người” (tr. 110). Đa phần những con người ấy, xét đến cùng, đều là nạn nhân của chiến tranh. Trong suốt những tháng trời đi thu nhặt hài cốt, Kiên đã “lặng lẽ tìm thấy biết bao thành viên bị lãng quên của đại gia đình những người tử trận”. Anh xiết bao đau buồn khi nhận ra: “Dưới lòng sâu đất ấm của đại ngàn họ chung nhau một số phận. Không có người vinh kẻ nhục, không có kẻ hùng người nhát, không có người đáng sống và kẻ đáng chết. Chỉ người tên tuổi còn đó, người thì thời gian đã xóa mất rồi, và người thì còn chút xương, người chỉ đọng chút bùn lỏng” (tr. 26). Với Kiên, hình ảnh cô gái bị chết ở sân bay Tân Sơn Nhất, “nỗi ám ảnh và niềm oan khốc cuối cùng ấy” đã thành ra như là “niềm thương nhớ”, “để lại bóng hình thương tâm mật thiết, mãi mãi chẳng tàn phai” (tr. 115). Kiên đầy dằn vặt, xót thương khi nhớ lại hình ảnh cô gái hôm qua nằm chết trần truồng ở ngưỡng cửa hải quan, “giờ đây đã dứt bỏ tấm vải liệm bằng rèm cửa sổ và cả bộ đồ người ta mặc vào cho cô trước lúc đem đi chôn cô cũng rũ tuột, lõa lồ khủng khiếp bơi tới với anh...”. Song, Kiên “không thấy sợ, không thấy ghê tởm trước cái ảo giác lạnh cứng này, trái lại. Thương xót não nề, tim anh thắt đau. Đây là một con người đã bị giết hại và bị lăng nhục, một thân phận bị chính Kiên coi rẻ và xổ toẹt. Không được quên, không được quên tất cả những gì đã xảy ra trong cuộc chiến này, số phận chung của chúng ta, cả người sống lẫn người chết!” (tr. 114-115). Cái nhìn, tầm nhìn vượt qua ranh giới cứng nhắc, tưởng chừng như bất di bất dịch một thời của Bảo Ninh, quả là táo bạo, đầy bản lĩnh và cũng thấm đượm nhân tình!
*
Một nhà văn chỉ có những cảm giác lẻ tẻ về chiến tranh thì chưa phải là nhà văn chân chính viết về chiến tranh. Chỉ khi nào có cái nhìn riêng, quan niệm riêng về chiến tranh và bằng tài năng nghệ thuật tạo nên được thế giới nghệ thuật riêng, một cuộc chiến tranh riêng của mình thì mới xứng đáng là nhà văn viết về chiến tranh.
Viết Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh có ý thức đối thoại với những quan niệm của những nhà văn viết về chiến tranh trước ông và đưa ra quan niệm riêng của mình. Theo Bảo Ninh, viết về chiến tranh với những con người tự nguyện ra trận, “say mê cuộc chiến tranh đến đứng ngồi không yên”, đã quá đỗi quen thuộc, không còn mới nữa. Trước ngày Kiên nhập ngũ, bên hồ Tây, Phương đã nói với Kiên: “Anh say mê cuộc chiến tranh đến đứng ngồi không yên. Anh không yêu mẹ, không yêu cha, không yêu tình yêu của em. Anh khăng khăng: tôi đi chiến đấu, tôi là con người trung thực, tôi trong sạch và tôi không muốn em bị nhơ nhuốc. Không có gì mới cả!” (tr. 149-150). Cả đức hi sinh, sự quên mình cũng là lẽ đương nhiên, là chuyện thông thường trong chiến tranh: “Có lẽ, đức hi sinh, sự quên mình là cái gì quá giản dị, dễ hiểu, dễ nhớ dễ quên. Một người ngã xuống để người khác có thể sống chuyện đó quá thông thường” (tr. 226); “Một người ngã xuống để những người khác sống, điều đó chẳng có gì mới, thật thế” (tr. 228). Không muốn “làm hạt giống để mùa sau…”, Kiên đã từ chối đi học sĩ quan, mong muốn đây là cuộc chiến tranh cuối cùng. Trong tiểu thuyết của mình, Bảo Ninh không tập trung miêu tả khí thế hào hùng của những người ra trận, những phẩm chất anh hùng của người lính, niềm kiêu hãnh, tự hào của dân tộc trên tuyến đầu chống đế quốc. Không lặp lại những quan niệm về chiến tranh đã quá đỗi quen thuộc ấy, Bảo Ninh đã đưa ra quan niệm mới, cái nhìn mới của mình. Với cái nhìn sâu sắc, đào tận đáy hiện thực tàn khốc của chiến tranh, Bảo Ninh đã chạm tới cái tầng vỉa sâu xa nhất: chiến tranh là thảm họa, là bi kịch, là nỗi đau buồn chung muôn thuở của con người. Qua dòng suy nghĩ của nhân vật Kiên, Bảo Ninh đã nói một cách thấm thía, da diết về nỗi đau buồn chiến tranh: “Bây giờ đây chỉ có nỗi buồn – nỗi buồn được sống sót, nỗi buồn chiến tranh – tràn phủ tâm hồn anh” (tr. 227). Bảo Ninh đã khám phá, làm nổi bật cái nghịch lý quái gở của chiến tranh: “Nhưng khi anh và tôi thì sống còn những người ưu tú nhất, tốt đẹp nhất, những người xứng đáng hơn ai hết quyền sống trên cõi dương này đều đã gục ngã, bị nghiền nát, bị cỗ máy đẫm máu của chiến trận chà đạp, đày đọa, bị bạo lực tối tăm hành hạ, làm nhục rồi bị giết chết, bị chôn vùi, bị quét sạch, bị tuyệt diệt, thì sự bình yên này, cuộc sống này, cảnh trời êm biển lặng này là cả một nghịch lý quái gở. Chính nghĩa đã thắng, lòng nhân đã thắng nhưng cái ác, sự chết chóc và bạo lực phi nhân cũng đã thắng. Cứ nhìn mà xem, cứ ngẫm nghĩ mà xem, sự thực là như thế đấy. Những tổn thất, những mất mát có thể được bù đắp, các vết thương sẽ lành, đau khổ sẽ hóa thạch nhưng nỗi buồn về cuộc chiến tranh thì sẽ càng ngày càng thấm thía hơn, sẽ không bao giờ nguôi” (tr. 228).
Trong Nỗi buồn chiến tranh, những chữ “buồn đau”, “đau buồn”, “buồn thảm”… như những tín hiệu thẩm mĩ nhấp nháy xuất hiện với một tần suất rất cao, cứ trở đi trở lại. Nó cùng với những tình tiết, sự kiện, cảnh tượng, những con người hiện ra; tất cả đều chất chứa, thấm đượm, vương vấn nỗi buồn đau. Tiêu biểu nhất là cuộc đời của Kiên. Kỷ niệm của anh đối với Hạnh mãi mãi “là niềm nuối tiếc và là một nỗi đau mất mát lớn” (tr. 70). Nỗi buồn đeo bám Kiên suốt đời. Sau chiến tranh, Kiên “đi trên đường phố như để tìm một nguồn quên lãng mà rốt cuộc lại rơi vào nỗi buồn” (tr. 169). Là người lính thắng trận, may mắn sống sót trở về, Kiên tưởng đời anh sẽ mở ra thời kỳ hạnh phúc nhưng hóa ra đây lại là “thời kỳ mạt vận, thời kỳ mà từ đây bắt đầu địa ngục đời thường, địa ngục của thời thái bình an lạc, và địa ngục của tình yêu nữa. Một mối tình dị tính, một mối tình quái ác, đầy tổn thương, làm khô cong trái tim anh, làm anh ngấm đau từng ngày” (tr. 175). Đúng là “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu” (Nguyễn Du), qua đó, thể hiện cái nhìn về chiến tranh của Bảo Ninh. Nỗi buồn chiến tranh là một cuốn tiểu thuyết thể hiện sự nghiền ngẫm, chiêm nghiệm sâu sắc, đầy tinh thần trách nhiệm của một nhà văn – một người lính - đã từng trải qua chiến tranh viết về chiến tranh. Trong quan niệm của Bảo Ninh, chiến tranh là “bể khổ” (“Suốt đêm tôi (Kiên) trôi dạt trong bể khổ thời Mậu Thân”) (tr. 48). Chiến tranh là “những tấm thảm kịch của quá khứ” (tr. 50), là “cảnh địa ngục chiến hào” (tr. 22). Trong chiến tranh, “biết bao cái tốt đẹp đã bị giết” (tr. 44); những con người ưu tú, tốt đẹp nhất đều bị “cỗ máy đẫm máu của chiến trận chà dập, đày đọa, bị bạo lực tăm tối hành hạ, làm nhục rồi giết chết” (tr. 228). Chiến tranh là “chết hoại tình người”, hủy hoại nhân tính. Chiến tranh là “sự sụp đổ cả một góc trời cùng với đất đai và sông núi” (tr. 114). Từ những sự kiện, chi tiết điển hình về sự chết chóc, hủy diệt của chiến tranh, Bảo Ninh đi đến một khái quát sâu sắc: “Chao ôi! Chiến tranh là cõi không nhà, không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, là thế giới thảm sầu vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người!” (tr. 33).
Cái nhìn về chiến tranh của Bảo Ninh thấm nhuần chủ nghĩa nhân bản cao cả. Cái nhìn đó cũng không hề xa lạ với cái nhìn nhân đạo chủ nghĩa trong truyền thống của văn học dân tộc, trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn qua bản dịch tuyệt vời của Đoàn Thị Điểm (?): “Thuở trời đất nổi cơn gió bụi/ Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên/ Xanh kia thăm thẳm từng trên/ Vì ai gây dựng cho nên nỗi này…”. Viết về chiến tranh, những nhà văn bên thắng trận dễ bị choáng ngợp bởi ánh sáng huy hoàng của chiến thắng, say mê đến mức có khi mất tỉnh táo, dễ sa vào ồn ào, ảo tưởng. Bên bại trận, cảm hứng bi kịch tạo cơ sở để các nhà văn có thể viết rất hay về chiến tranh, nhưng họ lại không sao vượt lên khỏi sự uất ức, hằn học. Trong những nhà văn Việt Nam viết về chiến tranh, chỉ có Bảo Ninh do có độ lùi về thời gian, nhờ có tư tưởng sâu sắc, tầm nhìn xa rộng, cái nhìn nhân bản về con người nên mới có khả năng gợi lên được nỗi đau buồn chiến tranh ở cả hai phía, chạm đến tình người, chạm đến nỗi đau buồn của dân tộc, “chạm vào mẫu số chung của nhân loại” (Nguyễn Quang Thiều).
Cái nhìn về chiến tranh là một yếu tố, một phương diện cơ bản, trong cái nhìn chung về cuộc đời và con người của Bảo Ninh. Trong cuốn tiểu thuyết đầu tay này, đề tài chiến tranh chỉ là cái cớ để ông phát biểu quan niệm sâu sắc của ông về con người và cuộc đời, về tình yêu và nghệ thuật. Dường như, Bảo Ninh nhìn vào đâu cũng thấy buồn, cảnh nào cũng gợi buồn: “Hồi xưa, ngủ rừng với tiếng mưa sa trên tầng lá nhiều tầng không hiểu sao Kiên đặc biệt hay nằm mơ thấy Hà Nội mùa đông những năm tối trời, suốt đêm gió thổi, mưa rơi, lá rụng. Bây giờ như để đáp lời những giấc mơ thuở ấy, khi đêm xuống đứng bên cửa sổ lặng nhìn màn mưa giăng mờ mặt phố anh thường bất giác mường tượng ra trước mắt cảnh rừng mưa. Âm vang mênh mang buồn của những đại ngàn năm xưa vươn qua biển mái nhà nhấp nhô, tràn lên tiếng rì rầm của phố xá canh khuya, dội tới triền miên như sóng vỗ, như kí ức xô bờ…” (tr. 71-72). Có khi đằng sau câu chuyện hài lại là nỗi đau buồn thấm thía: “Bao giờ cũng thế, từ sự nhỏ nhặt nhất trong đời sống con người thời đó cũng có chuyện đau đớn kèm theo. Những chuyện không thể quên, nhưng không dám nhớ tới…” (tr. 166). Trong quan niệm của Bảo Ninh, cuộc đời là “nỗi buồn truyền kiếp” (tr. 138), là một nỗi đau buồn nguyên khối. Đây là lời trăn trối của cha Kiên dành cho anh: “Thời của mẹ, của cha đã hết. Còn con… từ nay còn một mình… phải gắng sống với thời của mình. Thời đại mới rồi sẽ tới. Huy hoàng. Tráng lệ… không còn những bất hạnh lớn lao nữa… Nhưng nỗi buồn thì không nguôi… vẫn sẽ còn lại nỗi buồn… nỗi buồn truyền kiếp. Cha chẳng để lại được gì cho con ngoài nó, nỗi buồn ấy…” (tr. 138). Qua dòng suy tư của Kiên, Bảo Ninh đã nói lên sâu sắc cái nhìn tổng quát về cuộc đời của ông: “Nhưng, đúng là không thể quên được gì hết, bởi vì đau buồn là một thể nguyên khối suốt cuộc đời, liền một mạch từ thời thơ ấu, qua chiến tranh đến bây giờ. Và có lẽ để nhận lấy đau khổ, mà người ta được sinh ra ở trên đời này, cũng vì đau khổ mà người ta phải sống, phải mưu cầu hạnh phúc, phải đến với tình yêu, với nghệ thuật, phải tận hưởng, phải chịu đựng đến cùng cuộc sống…” (tr. 181). Có thể nói cái nhìn của Bảo Ninh là cái nhìn đầy suy tư, day dứt về cuộc sống và con người, thấm nhuần một chủ nghĩa nhân bản cao cả.
Nỗi buồn chiến tranh là một tác phẩm có phong cách nghệ thuật độc đáo. Mỗi tác phẩm có phong cách độc đáo đều đem đến một cái nhìn riêng về thế giới và con người, như rọi vào bên trong chúng ta một thứ ánh sáng riêng, mới lạ và đầy bất ngờ, làm thay đổi hẳn mắt ta nhìn, óc ta nghĩ, làm cho ta không thể hành động như trước nữa. Đó là một trong những sức mạnh kỳ diệu của văn chương.
Nỗi buồn chiến tranh là cuốn tiểu thuyết viết về chiến tranh hay nhất, là đỉnh cao nhất của văn học thời kỳ đổi mới, là tác phẩm đi xa hơn cả trên con đường hiện đại hóa tiểu thuyết hiện đại Việt Nam, hội nhập với văn học hiện đại thế giới. Với Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh xứng đáng có mặt trong danh sách những nhà văn viết về chiến tranh xuất sắc nhất trong văn học thế giới từ đầu thế kỷ XX đến nay.
Chú thích:
1 Tiểu thuyết đầu tay của Bảo Ninh, được viết xong năm 1989, NXB. Hội Nhà văn in lần thứ nhất, năm 1990; lần thứ hai, năm 1991, với tên Thân phận của tình yêu. Sau đó, tác phẩm được tái bản với tên ban đầu do chính tác giả đặt: Nỗi buồn chiến tranh.
2 Bảo Ninh (1991), Thân phận của tình yêu, NXB. Hội Nhà văn (in lần thứ 2), tr. 5. Từ đây, chúng tôi ghi chú trực tiếp nguồn trang (tr.) sau mỗi trích dẫn.