Những năm đầu thế kỷ XX có ý nghĩa vô cùng đặc biệt trong lịch sử văn học Việt Nam, như là giai đoạn chuyển đổi hệ hình từ văn học trung đại sang hiện đại. Trong bước chuyển tiếp giữa cũ và mới đó, chúng ta được chứng kiến những hiện tượng chỉ xuất hiện một lần trong lịch sử. Đạm Phương nữ sử là một trong những hiện tượng như thế: một người xuất thân hoàng tộc, được giáo dục đầy đủ theo quy chuẩn Nho giáo, đã từng là nữ quan trong triều đình, lại là nữ tác giả đi đầu trong việc viết về vấn đề phụ nữ ở buổi giao thời này. Qua việc nghiên cứu những sáng tác về phụ nữ của Đạm Phương từ phương diện là sản phẩm của sự giao thoa văn hoá đầu thế kỷ XX, bài viết tìm hiểu quan niệm về nữ giới ở người phụ nữ với nền tảng văn hoá truyền thống khi tiếp xúc với văn hóa phương Tây, từ đó góp phần nhận diện rõ hơn sự vận động của nền văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
1. Đạm Phương nữ sử – tác giả nữ hoàng phái đầu thế kỷ XX
Giai đoạn cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX đã chứng kiến những sự thay đổi chưa từng có trong lịch sử Việt Nam. Trong khoảng thời gian này, người Pháp dần hoàn tất quá trình xâm chiếm và đô hộ Việt Nam. Sự tiếp xúc với nền văn minh phương Tây đã tạo nên những biến động toàn diện trong xã hội Việt Nam. Hoài Thanh - Hoài Chân nhận định về sự chuyển biến này: “Bấy nhiêu sự thay đổi trong khoảng năm sáu mươi năm! Năm sáu mươi năm mà như năm sáu mươi thế kỷ”1. Trong xã hội mới, ảnh hưởng của quan niệm mới về giới nữ và sự mở rộng hệ thống giáo dục của chính quyền thuộc địa, phụ nữ được tiếp cận với học hành nhiều hơn, điều này dẫn đến số lượng nhà văn nữ gia tăng đột xuất. Chỉ trong vài chục năm đầu thế kỷ XX, số lượng tác giả nữ nhiều hơn rất nhiều so với cả mười thế kỷ trước đó cộng lại. Trong số nhiều tên tuổi tác giả nữ cùng thời, Đạm Phương nữ sử nổi bật với mối quan tâm đến vấn đề phụ nữ.
Đạm Phương nữ sử (1881-1947) tên thật là Công Tôn Nữ Đồng Canh, sinh ra và lớn lên ở Huế. Cha bà là Nguyễn Miên Triện – Hoàng tử thứ 66 của vua Minh Mạng, thụ tước Hoàng Hóa Quân Vương, năm 1891 từng phụng chỉ vua Thành Thái dẫn sứ bộ triều đình Huế sang công vụ tại nước Cộng hòa Pháp. Sinh ra trong gia đình hoàng tộc, dù trong bối cảnh đất nước đang từng bước bị Pháp xâm lược và cai trị, Công Tôn Nữ Đồng Canh vẫn được thừa hưởng những đặc quyền đặc lợi và nền giáo dục cũng như truyền thống văn chương của hoàng tộc, được học hành đầy đủ Hán văn, Pháp văn, chữ quốc ngữ và cầm, kỳ, thi, họa, thêu thùa, nấu nướng… Đó là vốn văn hóa vững chắc cho bà sau này có một vị trí nhất định trong lịch sử văn học Việt Nam. Năm 16 tuổi, bà kết hôn với Nguyễn Khoa Tùng, sinh được ba người con trai và ba người con gái. Cả ba người con trai của bà đều hi sinh trong cuộc chiến tranh giành độc lập với Pháp sau này. Năm 1918, bút danh Đạm Phương nữ sử bắt đầu xuất hiện trên các báo và tạp chí ở cả Bắc Kỳ và Nam Kỳ như Nam Phong, Phụ nữ thời đàm, Hữu Thanh, Tiếng dân… Bà giữ chuyên mục “Lời đàn bà” trên Báo Thực nghiệp, làm trợ bút giữ chuyên mục “Văn đàn bà” trên Báo Trung Bắc tân văn từ năm 1919 đến năm 19282. Trước tác của bà có cả thơ và tiểu thuyết, song chủ yếu là các bài báo về vấn đề xã hội, mà tập trung nhất là vấn đề về phụ nữ. Bà cũng rất tích cực tham gia các hoạt động xã hội liên quan đến phụ nữ như: vận động thành lập và lãnh đạo Nữ công học hội ở Huế – một tổ chức phụ nữ có tính chất xã hội dân sự đầu tiên của phụ nữ Việt Nam, do phụ nữ chủ trương và vận hành. Hẳn là những biến động về chính trị - xã hội của đất nước và xã hội đã đẩy một người phụ nữ lẽ ra vốn ở mãi trong vùng an toàn dần trở thành một nhà hoạt động xã hội. Thân phận tôn quý chính là cơ hội để bà có thể sớm tiếp cận với sách vở, tri thức từ bên ngoài đưa vào: “Bà Đạm Phương nữ sử lợi thế giàu vốn văn hóa và thông thạo mấy ngoại ngữ phổ biến như Hán văn, Pháp văn nên bà đọc nhiều, hiểu biết sâu, rộng, sớm tiếp cận tư tưởng tiến bộ nhân loại, đặc biệt là tư tưởng dân chủ, tự do, bình đẳng, nhân quyền của các nhà cách mạng tư sản dân chủ như Lương Khải Siêu, Tôn Dật Tiên (Trung Quốc), J. J. Rouseau (Pháp), cùng tiếp xúc với các bậc chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và một số đảng viên công sản tiền bối như Phan Đăng Lưu, Nguyễn Chí Diểu… dẫn tới bà Đạm Phương nữ sử tự chuyển hóa nhận thức, từ bỏ tư tưởng xuất thân phong kiến, đứng vào hàng ngũ những người trí thức tiến bộ của thời đại. Bà vận dụng tư tưởng tiến bộ của thời đại vào phương tiện báo chí góp phần vận động xã hội Việt Nam trì trệ hồi đầu thế kỷ XX”3. Sống trong một thời đại đầy biến động, sau khi lập gia đình, là vợ, là mẹ trong một gia đình đông con, kinh tế khó khăn, dù là “cành vàng lá ngọc” nhưng bà đã tự tham gia các công việc lao động chân tay để có tiền nuôi con ăn học. Những trải nghiệm thực tế đó là cơ sở để hình thành trong bà những quan niệm mới về các vấn đề nữ học, nữ công, vai trò của lao động đối với vị trí của phụ nữ trong xã hội. Trần Ngọc Vương cho rằng: “Hình dung như thế rồi, mới thấy việc bà Đạm Phương thực hành một cách tự nguyện và bền bỉ lao động chân tay, rồi tiến tới chỗ suy nghĩ về loại hoạt động đó một cách có hệ thống, có sự lý thuyết hóa trên cơ sở nghiệm sinh, xa hơn nữa, tới chỗ đặt mục tiêu biến nó thành cơ chế xã hội cho “mọi người đàn bà của nước Nam này”, là một chuyển biến mang tính đột biến, và theo cảm nhận cá nhân, tôi cho rằng đó chính là điểm son rực rỡ trong tiểu sử của bà ở giai đoạn ngót hai thập niên đầu của thế kỷ XX”4.
Với xuất thân, trải nghiệm trong một thời đại như vậy, Đạm Phương nữ sử đã dấn thân vào con đường hoạt động xã hội với tư cách là một nhà văn của giới nữ. Bà bền bỉ viết về và viết vì ý thức, vị trí và vai trò của phụ nữ trong một xã hội hoàn toàn mới, để lại một di sản đáng kể những sáng tác về vấn đề phụ nữ trong lịch sử văn học Việt Nam.
2. Những hình dung mới về người phụ nữ
Soi vào những sáng tác trong suốt sự nghiệp của Đạm Phương, dễ dàng thấy mối quan tâm chính của bà là vấn đề phụ nữ: “Quan sát trên mặt báo và từ góc nhìn công luận xã hội, thì Đạm Phương nữ sử lựa chọn cho mình sự “xuất đầu lộ diện” và ghi dấu ấn của mình, càng về sau càng đậm nét, trước công luận xã hội rộng rãi bằng việc cất lên những tiếng nói mang tính đại diện cho những “người đàn bà nước Nam” về những vấn đề văn hóa, mà trực tiếp nhất, chủ yếu nhất là những chuyện liên quan đến chính thân phận của người phụ nữ trong bối cảnh một quốc gia đi từ một xã hội Nho giáo chuyên chế - thuộc địa hóa tới một xã hội hiện đại hóa”5. Bà đã viết một cách trực diện về những vấn đề cấp thiết nhất của nữ giới trong những thập niên đầu thế kỷ XX, trong đó có những hình dung mới về người phụ nữ.
Sáng tác của bà đưa ra một hệ thống quan niệm tương đối toàn diện về phụ nữ trong xã hội hiện đại. Tuy nhiên, hạt nhân của vấn đề phụ nữ theo quan niệm của bà là vấn đề nữ học. Chính nữ học sẽ chi phối mọi tư tưởng và hành động của bà trong sự nghiệp hoạt động vì phụ nữ. Trước hết, học thức là gì? Ở bài báo “Vì sao phụ nữ cần phải có học thức rộng”, bà viết: “Học thức là món cơm nuôi tinh thần. Có món cơm nuôi tinh thần ấy thì loài người mới phân biệt với loài thú. Học thức là bánh xe dẫn lực, dắt loài người làm hết những thiên chức “làm người”, khác hẳn loài vật”6. Đoạn trên trình bày chính kiến rõ ràng của Đạm Phương về học thức. Bà cho rằng học thức là thức ăn nuôi tinh thần, là thứ để con người trở thành con người và để phân biệt loài người với loài vật. Từ đây, bà lập luận: “Nay ta lại tự hỏi đàn bà có phải là loài người không? Chắc ai cũng công nhận rằng: đàn bà là người, đàn bà là phần nửa nhơn loại. Vậy thì sự học thức giúp cho đàn bà thành người, tất nhiên cũng phải có. Nếu tất cả đàn bà thế giới không có học thức, thì một nửa nhơn loại có lẽ là thú cả”7. Ảnh hưởng tư tưởng của nền văn minh phương Tây qua sách vở đọc được và từ trải nghiệm của bản thân, bà cho rằng phụ nữ trước hết phải có học vấn để mở mang nhận thức, làm các công việc nữ công gia chánh và để có nghề nghiệp nuôi sống bản thân. Bà viết: “Nay sự học vấn của con gái là cốt để bổ ích thêm trí thức tư tưởng cho con người biết lo xa nghĩ rộng, khỏi bị mê hoặc ám muội như trước; đã là người thời biết cho đủ tư cách làm người, cuộc sinh tồn cạnh tranh là chung cả nhân loại có phải riêng chi một ai, mà người làm được người làm không được”8.
Bà chủ trương phụ nữ cũng như nam giới đều phải có nghề nghiệp đủ để sinh tồn. Bà hiểu rằng sự phụ thuộc về kinh tế đã gây ra tình trạng bất bình đẳng, phụ thuộc của người phụ nữ trong xã hội nên bà luôn cổ vũ phụ nữ học nghề nghiệp để tự chủ. Điều này thúc đẩy bà đi sâu vào vấn đề nữ học, đưa ra các lý lẽ thuyết phục phụ nữ học hành, học theo tân học chứ không phải cựu học. Vì cựu học, theo bà, là học theo Hán học, theo Nho giáo truyền thống, là chỉ dạy phụ nữ cái đức (đức hạnh của người phụ nữ); còn tân học, nghĩa là Tây học, là học cái trí (tri thức). Cho nên vấn đề nữ quyền, đối với bà, cũng bắt nguồn từ vấn đề nữ học: “Người sinh trong đời, khôn hơn muôn vật, dầu con trai con gái, đều bẩm thọ khí thiêng của trời đất, lựa lọc đúc nên một tư chất tốt, hơn cả các giống kia, có trí thức, có tư tưởng, có yêu, ghét, mừng, vui, thương, giận, muốn, đủ bảy tình, người nào cũng thế, trai gái như nhau, chỉ khác nhau bên có học và không có học; có học thời biết thi thố, thông hiểu sự vật trong thế giới, không học thời không biết điều tiến hóa, mở mang trí thức, lấy gì mà dùng ra các sách vở ở đời cho kịp người ta… Ấy sự cải lương học vấn, há phải riêng cho những đấng tu mi, mà chúng ta tự cam bỏ mình ra ngoài vòng đào chú, chẳng uổng lắm ru”9.
Trong các sáng tác tiểu thuyết của Đạm Phương, phụ nữ và số phận của người phụ nữ luôn là trung tâm. Tiểu thuyết của bà thuộc về giai đoạn giao thoa giữa hai nền văn học cũ và mới, phương Đông cổ truyền và phương Tây hiện đại. Mặc dù chứa đựng tư tưởng hiện đại phương Tây nhưng về mặt nghệ thuật tự sự vẫn rất đậm nét màu sắc của các kiểu truyện “bao biếm khuyến trừng” của phương Đông. Bà xây dựng nhiều nhân vật phụ nữ với các sắc thái khác nhau nhưng đều dùng để chứng minh cho những luận điểm đã đề cập ở các bài báo. Nhân vật chính ở cuốn tiểu thuyết bà gọi là “bi tình tiểu thuyết” Kim Tú Cầu là cô tiểu thư cành vàng lá ngọc Kim Tú Cầu bị cha mẹ tham giàu ép buộc phải từ bỏ mối tình thanh mai trúc mã với cậu thư sinh nghèo Ngọc Lan để lấy một ông quan già. Chồng mất sớm, Kim Tú Cầu sớm lâm vào cảnh góa bụa, bị gia nhân lừa gạt, bị những kẻ háo sắc truy đuổi nên đã rơi vào cảnh làm vợ lẽ cho một thương nhân người Hoa. Tuyệt vọng và cùng đường, nàng tự vẫn. Kim Tú Cầu là hiện thân cho người phụ nữ truyền thống bị phụ thuộc và thụ động trong xã hội truyền thống mà Đạm Phương bình cuối truyện rằng: “Sinh thân người con gái đàn bà hồi bấy giờ, chẳng còn có công lý, tự chủ gì hết thảy, đau đớn thay! Khốc hại thay? Những người làm cha mẹ há chẳng nên lấy đó mà làm gương hay sao?”10. Không ủng hộ hôn nhân tự do vì cho rằng không phù hợp với phong hóa của người Việt11 nhưng bà xây dựng nhân vật Kim Tú Cầu để phản đối hôn nhân do sự sắp đặt theo lòng tham và sự mê tín của cha mẹ và cũng là phản đối phụ nữ hiện đại noi theo mẫu hình phụ nữ truyền thống không có tự chủ kiểu này.
Đến tiểu thuyết Chung Kỳ Vinh, Đạm Phương xây dựng hình tượng một người con gái cũng con nhà gia thế nhưng bị lụn bại. Ngọc Yến vốn đính ước với bạn học là Chung Kỳ Vinh từ nhỏ nhưng khi gia đình Ngọc Yến lâm vào cảnh sa cơ lỡ vận thì cha của Chung Kỳ Vinh muốn từ hôn. Mặc dù Chung Kỳ Vinh một lòng chung thủy nhưng Ngọc Yến vẫn khuyên cha bán nhà trả nợ và về quê ở, bắt tay vào tổ chức sản xuất, lập ra nhà dệt, thuê mướn người làm, lo được cho cuộc sống của hai cha con. Sau này Chung Kỳ Vinh thi đỗ trở về và hai người có cuộc sống hạnh phúc bên nhau. So với Tú Cầu, Ngọc Yến đã là một bước tiến của người phụ nữ ở phương diện tự chủ mưu cầu hạnh phúc cho bản thân.
Biểu tượng phụ nữ hiện đại theo quan niệm của Đạm Phương chính là nhân vật Quế Anh trong cuốn tiểu thuyết được bà phân loại là xã hội tiểu thuyết Hồng phấn tương tri. Đây là một cô gái Tây học hoàn toàn, vốn dòng trâm anh, Quế Anh có nghề nghiệp đàng hoàng, là một y sĩ làm việc cho nhà nước. Đạm Phương mô tả Quế Anh: “Nàng là con gái thứ ba, tính thông minh hiếu học, thường nhật công việc nhàn hạ, không bao giờ rời quyển sách trên tay…”12. Nàng chăm chỉ, chú trọng công việc, có tri thức không thua kém đàn ông. Giữa nàng và Nam Châu nảy sinh mối tình tri kỷ. Là người chú trọng gia đình, nàng lựa chọn chăm lo cho việc học của các em trước chuyện tình cảm riêng tư. Quế Anh biết ý thức trách nhiệm của mình nên hoàn toàn chủ động trong việc sắp xếp công việc cũng như cuộc đời của mình. Nàng cũng là người có trách nhiệm xã hội, điều mà phụ nữ cổ truyền không tiếp cận được. Khi có vị phu nhân nói ra cái mong ước con gái sau này cũng học hành như nàng để “vinh hiển cái thân danh cũng như con trai vậy, lại không sợ ế chồng nữa, vì ai cũng trông mong xin nói hết thảy” thì nàng đáp: “Thưa cụ, cái mục đích chúng con đi học, không phải vì các điều ấy. Xưa nay xã hội mình, vì cái tư tưởng vu vơ ấy mà thành ra bỏ hết nghĩa vụ chung cộng, nước yếu dân hèn đều bởi cớ đó, xin cụ đã mộ văn minh, thì nên mộ văn minh chính đáng”13.
Khát vọng của Đạm Phương không chỉ là bình đẳng cho người phụ nữ mà còn là trách nhiệm của người phụ nữ trước xã hội và vận mệnh của đất nước. Sinh ra trong gia đình dòng dõi vua chúa, sau này lại tiếp xúc và chịu ảnh hưởng từ những nhân sĩ quan trọng nhất của đất nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, chồng con là những người sớm tham gia phong trào giải phóng dân tộc theo xu hướng cộng sản, bà cho rằng phụ nữ ngày nay “ngoài phận sự gia đình, cần mưu sự hạnh phúc chung cho xã hội”14.
3. Bảo lưu những yếu tố truyền thống về giới nữ
Tuy tiếp thu rất nhiều cách nghĩ hiện đại của phương Tây nhưng Đạm Phương cũng bảo lưu những quan niệm mà bà cho là tốt đẹp của văn hoá cổ truyền về phụ nữ. Trong số những phẩm chất theo kiểu truyền thống mà bà ca ngợi ở người phụ nữ, bà đặc biệt chú trọng đến “đức”, một phạm trù xuất phát từ học thuyết Nho giáo. Ở các bài báo, Đạm Phương viết về cái “đức” này trong vấn đề nữ học như sau: “Trí với đức, tuy vẫn hai lẽ có khác nhau, nhưng mà nó có một mối liên lạc với nhau rất là mật thiết; bỏ một lấy một đều không hợp cả, phải gồm đủ hòa hai, nhiên hậu mới trọn vẹn một người xứng đáng…”15; “Người đàn bà cốt phải có đức hạnh làm bản, nghĩa ấy dầu cho thiên cổ bất dịch, không những từ đây về trước đã thế, nhưng dầu cho đến muôn ức nghìn năm nữa về sau, cũng không có thể thay đổi bao giờ, vậy cho nên học hạnh kiêm ưu mới là danh giá; còn như học mà vô hạnh, chính là danh giá tội nhân, chớ có phải học giới danh giá đâu, mà người đời bình phẩm cho hư tiếng tân học của nữ giới”16. Đối với Đạm Phương, đức là điều phải có cơ bản của nữ giới, trên cả trí. Dĩ nhiên những yêu cầu về đức của Đạm Phương đã không còn khắt khe như Nho giáo, đã mang một màu sắc khác hẳn, nhưng tinh thần Nho giáo vẫn còn rất đậm nét. Đạm Phương đổi mới trên tinh thần nữ quyền chứ không phải trên tinh thần nữ tính. Đạm Phương đổi mới, hiện đại hóa bằng cái thần thái ung dung tự tại ấy của các phụ nữ quý tộc trâm anh của Nho giáo, không phải bằng tinh thần nổi loạn của nhà thơ mang màu sắc dân gian như Hồ Xuân Hương.
Nàng Quế Anh, nhân vật mới nhất và hiện đại nhất trong các tiểu thuyết của bà, ngoài tinh thần tự cường và tri thức từ phương Tây thì có xuất thân, dung mạo và đức hạnh của một người phụ nữ trâm anh kiểu cổ truyền. Nàng mới đến Đồng Hới được vài tuần thì trong tỉnh đã nhiều người biết về tài sắc và đức hạnh. Đạm Phương tả nàng: “Nàng Quế Anh là con nhà vọng tộc, dòng dõi trâm anh, nàng có ba người anh em, hiện đương tùng sự nghiệp đều có tiếng tính hạnh thuần cẩn hết thảy”17. Nàng quan niệm: “Người đàn bà cốt giữ cái bổn phận của mình, từ việc trong cho tới việc ngoài, nhỏ có trọn vẹn, mới mong lớn được hoàn toàn”18. Nàng dành nhiều tâm sức nhất cho gia đình, nén lại những tình cảm riêng tư chăm lo việc học cho các em.
Bàn về chữ trinh, Phan Khôi – một nhà báo hoạt động rất tích cực cho nữ quyền đã phân biệt rất rõ tiết trinh và nết trinh. Ông lên án sự đòi hỏi tiết trinh của người phụ nữ nhưng lại ủng hộ sự giữ gìn nết trinh. Không phân biệt được rành mạch như Phan Khôi nhưng Đạm Phương cũng đồng quan điểm phụ nữ phải giữ chữ trinh, bà cho rằng: “Đàn bà phải giữ lấy chữ trinh, là cũng như đàn ông phải giữ có chữ trung vậy”19. Bà vẫn yêu cầu những chuẩn mực đạo đức “công dung ngôn hạnh” đủ đầy cho người phụ nữ hiện đại. Điều này còn thể hiện qua mảng thơ ca vịnh sử của Đạm Phương. Bà vẫn bảo lưu truyền thống thơ vịnh sử của nhà Nho, ca ngợi những tấm gương chuẩn mực đạo đức của những người phụ nữ trong lịch sử theo tiêu chí của Nho gia. Ở những bài thơ kiểu này, Đạm Phương cho thấy một tư duy đậm màu sắc Nho giáo:
“Dựng cờ nương tử rạng nghìn thu
Nợ nước thù nhà đáp báo phu
Bao quản sóng dầm da phấn nhạt
Miễn xin bia tạc tiếng thơm lâu.
Xông pha trăm trận thành vương nghiệp
Đánh đổ ba quân cản sứ Tàu
Chị tiết em trinh đều vẹn cả
Làm cho rõ mặt gái năm châu”.
(Hai Bà Trưng)20
Bài thơ này ngợi ca hai người phụ nữ anh hùng được ghi trong huyền sử của nước Việt xưa đánh lại quân đô hộ Trung Quốc, từng tự lập làm vua một thời gian ngắn trước khi bị người Trung Quốc giết hại21. Cũng giống như ở bài thơ ngợi ca một vị nữ anh hùng khác trong lịch sử Việt Nam là Bà Triệu, ở đây Đạm Phương chú ý vào tính chất cương cường của người phụ nữ anh hùng bên cạnh yếu tố tính nữ yểu điệu nhưng cuối cùng thì nhà thơ nhấn mạnh sự tiết trinh “đều trọn vẹn” của các vị nữ anh hùng lịch sử, dù cái tiết trinh này có lẽ đã được hiểu theo nghĩa không hoàn toàn như cũ. Ở một bài thơ khác, vịnh bà Mỵ Ê, người được coi là tấm gương tiết liệt được ghi lại đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, Đạm Phương viết:
“Ơn vua nợ nước trả xong,
Dám tiếc làm chi mảnh má hồng.
Sau trước vẫn cam thề sống thác,
Mất còn nỡ để thẹn non sông.
Mây sầu lớp lớp bay về Bắc,
Sóng thảm rùng rùng cuộn hướng Đông,
Đợi phải chiếu rồng ban triệu đến,
Đã đành trọn tiết với vương công”.
(Bà Mỵ Ê)22
Mỵ Ê là một nhân vật có thật, xuất thân là người Chiêm Thành, ở thế kỷ XI23, đã trở thành một biểu tượng về trinh liệt ở nước Việt sau này24. Cho đến tận đầu thế kỷ XX, người Việt vẫn ngợi ca bà như một gương tiết liệt chỉ thờ một chồng. Ở bài thơ này, Đạm Phương ngợi ca Mỵ Ê ở cả khía cạnh trung thành với chồng và với nước. Ở chỗ này, Đạm Phương hoàn toàn vẫn giữ nguyên cách nhìn của nhà Nho đối với vấn đề trinh liệt của phụ nữ.
4. Kết luận
Sinh ra ở buổi giao thời, với xuất thân đặc biệt, Đạm Phương nữ sử là một hiện tượng độc đáo của nền văn học Việt Nam. Bà là một trong những nữ nhà văn nổi bật nhất của những thập niên đầu thế kỷ XX với những đóng góp cho quá trình nhận thức về vấn đề nữ giới trong thời đại mới. Bà đã đưa đến những hình dung mới về vai trò, vị trí của người phụ nữ trong xã hội hiện đại với mong muốn phụ nữ bằng học thức và nghề nghiệp có thể đứng độc lập trong cuộc đời. Bà cũng vẫn bảo lưu ở một mức độ nào đó những đòi hỏi về đạo đức, về “công dung ngôn hạnh” theo kiểu quan niệm truyền thống đối với người phụ nữ thời hiện đại. Tất cả những điều đó cho thấy tính chất tiên phong cũng như đặc trưng giao thời trong tác phẩm và sự nghiệp của bà.
Chú thích:
1 Hoài Thanh - Hoài Chân (2003), Thi nhân Việt Nam, NXB. Văn học, tr. 16.
2 Lê Thanh Hiền: Lời giới thiệu Tuyển tập Đạm Phương nữ sử, NXB. Văn học.
3 , 20, 22 Đạm Phương nữ sử (1999), Tuyển tập Đạm Phương nữ sử, NXB. Văn học, tr. 11, 538, 537.
4 , 5 Trần Ngọc Vương (2011): “Qua một phận người sang, nghĩ về một sự lựa chọn, một con đường”, Tạp chí Sông Hương, http://tapchisong huong.com.vn/tin-tuc/p2/c16/n8239/Qua-motphan-nguoi-sang-nghi-ve-mot-su-lua-chon-motcon-duong.html, 2/3/2025.
6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 15, 16, 17, 18 , 19 Đạm Phương nữ sử: Vấn đề phụ nữ ở nước ta (Đoàn Ánh Dương giới thiệu và tuyển chọn, 2018), NXB. Phụ nữ, tr. 346, 346, 42, 125-126, 586, 241-243, 590, 591-592, 41, 43, 590, 593, 61.
14 Đặng Thị Vân Chi (2008), Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt trước năm 1945, NXB. Khoa học xã hội, tr. 139.
21 Ngô Sĩ Liên (2006), Đại Việt sử ký toàn thư, NXB. Văn học, tr. 106-108.
23 Sách vở ghi rằng bà vốn là vợ lẽ của Sạ Đẩu vua nước Chiêm. Sau khi Lý Thái Tổ (1000-1054) của nước Đại Việt đánh bại Chiêm và giết Sạ Đẩu thì Mỵ Ê bị bắt cùng với các vợ và cung nữ của Chiêm đưa về Đại Việt. Trên đường đi, Mỵ Ê bị ép sang thuyền với vua Lý Thái Tổ, uất ức, nàng nhảy xuống sông tự vẫn (hoặc bị bức tử chết). Vua khen bà là trinh tiết và phong làm Hiệp chính hữu thiện phu nhân (Ngô Sĩ Liên, 2006, tr. 283). Cũng có ý kiến cho rằng Mỵ Ê dù là nhân vật có thật nhưng dưới bàn tay nhào nặn của các nhà Nho Việt Nam đã trở thành một biểu tượng về trinh liệt ở nước Việt sau này (Phạm Văn Hưng, 2016, tr. 63-76).
24 Phạm Văn Hưng (2016), Tự sự của trinh tiết: Nhân vật liệt nữ trong văn học Việt Nam trung đại thế kỷ X-XIX, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 63-76.