rong các nhà thơ thế hệ kháng chiến chống Mĩ, Bằng Việt là thi sĩ hàng đầu. Anh viết từ năm 1960, khi 19 tuổi. Năm 1964, đang là sinh viên ngành Luật tại Liên Xô (cũ), anh đã có những bài thơ được độc giả và giới quan tâm rất trọng thị. Bài Beethoven và âm vang hai thế kỷ với cấu tứ bề thế, ngôn ngữ thơ giàu suy tưởng và có vẻ đẹp thật sang trọng. Tiếp đó là các bài Từ giã tuổi thơ, Trở lại trái tim mình, Về Nghệ An thăm con, Bếp lửa... với giọng thơ tươi tắn, hào hoa, tinh tế và đặc biệt là có sức liên tưởng thật xa rộng, khiến đông đảo bạn đọc, nhất là giới sinh viên và những người trẻ tuổi rất yêu chuộng. Năm 1968, Bằng Việt có phần Bếp lửa (in chung với Lưu Quang Vũ trong tập Hương cây - Bếp lửa). Tập thơ vừa ra đời đã trở thành hiện tượng văn học có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống văn chương đương thời. Ở đây, chỉ nói riêng về Bằng Việt, giới quan tâm đã coi anh là một nhà thơ có phong cách đặc sắc, hiểu biết sâu về thơ Việt truyền thống, thơ “leo thang”, thơ tự do không vần và cả các hình thức mới lạ của thơ thế giới. Giáo sư Lê Đình Kỵ đã nhận định về Bằng Việt: “Có một tâm hồn nhiều suy nghĩ và rung động tinh tế, một chủ nghĩa trữ tình xao động, bồi hồi, khi đậm đà duyên dáng, khi âm vang sâu thẳm…”.
Bằng Việt, tên thật là Nguyễn Việt Bằng, nguyên quán: xã Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà Nội, nhưng sinh năm 1941 tại Huế, do hồi ấy cha mẹ anh vào làm ăn sinh sống ở đó. Năm 1961, anh được chọn đi du học tại Liên Xô (cũ), sau khi tốt nghiệp Đại học Pháp lý, về làm việc tại Viện Luật học từ năm 1965. Sau khi thành công với những sáng tác thơ, năm 1969, Bằng Việt được điều chuyển về làm việc tại Hội Nhà văn Việt Nam. Như nhiều nhà văn thời kỳ đó luôn bám sát thực tế đời sống kháng chiến để sáng tác, năm 1970, Bằng Việt đã xin gia nhập đoàn quân xung kích của tuyến đường vận tải chiến lược 559, làm phóng viên tại chiến trường Quảng Trị, Thừa Thiên, Tây Nguyên và Lào, Campuchia. Sau năm 1973, anh công tác tại NXB Tác phẩm mới… Sau Bếp lửa, Bằng Việt đã xuất bản thêm một số tập thơ: Những gương mặt - những khoảng trời (1973), Đất sau mưa (1977), Khoảng cách giữa lời (1983)... Những năm 80 thế kỷ XX, Bằng Việt có tạt qua viết một số tập văn xuôi, biên khảo và đặc biệt là dịch nhiều thơ của các nhà thơ quốc tế. Ở lĩnh vực này, anh cũng đạt được thành công rất đáng trân trọng. Nhiều bài thơ của các nhà thơ lớn thế giới như Yannit Ritsos (Hy Lạp), Langston Hughes (Mĩ), Federico Garcia Lorca (Tây Ban Nha), Pablo Neruda (Chi Lê), Nazim Hikmet (Thổ Nhĩ Kỳ), Paul Eluard (Pháp) và các nhà thơ Nga như: Aleksandr Puskin, Mikhail Lermantov, Olga Berggoltz, Sergey Esenin, Evgueni Evtushenko, Anna Akhmatova, Rasul Gamzatov… được Bằng Việt chuyển ngữ sang tiếng Việt nhuần nhuyễn, hay và mới lạ đến mức được nhiều độc giả chép vào sổ tay hoặc gửi cho nhau như món quà tặng. Đơn cử bài Những người giống nhau, một bài thơ có phong cách siêu thực (hồi ấy rất ít được quan tâm ở Việt Nam) được P. Eluard viết năm 1932, qua bản dịch của Bằng Việt, người đọc ngợp trong xúc cảm đẹp lạ kỳ - cái đẹp long lanh của nước mắt: “Anh đổi thay ý định anh rồi/ khi ấy em đi qua phố/ trong cơn lốc của mặt trời/ anh gặp em và anh dừng lại/ Anh trẻ lắm - chắc em còn nhớ mãi…”. Mặc dù vùi lấp trong những khổ đau, tuyệt vọng, những câu thơ của P. Eluard qua Việt ngữ đã thấm sâu vào lòng người đọc những ngọt ngào kỳ diệu:
“Anh đổi thay ý định anh rồi
miệng em đã thành xa vắng
Em đang ngủ và anh đành im lặng
những ngọn lửa kinh hoàng trong đêm
của riêng em
Giấc mộng của riêng em
cánh đồng sáng trong nước mắt
đôi ta không cùng buồn khổ như nhau
Anh quên em từ đấy”…
Dịch thơ hiện đại thế giới hay xuất thần như thế, sáng tác những bài thơ với cấu trúc bề thế và ngôn ngữ mới lạ mà vẫn đậm bản sắc Việt Nam như Trở lại trái tim mình, Về Nghệ An thăm con, Bếp lửa, Beethoven âm vang hai thế kỷ, Nghĩ về Paustovski… cho thấy rõ đẳng cấp thơ Bằng Việt thực sự lớn trong đời sống thơ ca Việt Nam đương thời. Có lẽ vì thế mà trong Tuyển thơ trẻ Việt Nam (1964-1975) do NXB Thanh niên cận vệ ấn hành tại Liên Xô (cũ), các dịch giả Xô viết nổi tiếng đã chọn dịch tới 34 bài thơ của anh. Cũng vì yêu thích thơ Bằng Việt, các dịch giả uy tín nước Cộng hòa Gruzia (nước có tự dạng na ná như chữ viết của các nước vùng Trung Đông) đã chọn dịch 30 bài thơ tiêu biểu của anh thành tập Những bài ca về rừng cọ, NXB Nakaduly ấn hành năm 1983.
***
Tạt sang địa hạt khác một thời gian rồi đột ngột, mùa thu năm 2000, Bằng Việt cho in một chùm 7 bài thơ trên Tạp chí Nhà văn. Chùm thơ này cho thấy vẫn là sự tiếp biến của hồn thơ Bằng Việt. Chẳng hạn, xưa kia anh viết:
“Em đừng mong khúc nhạc để vui tai
Đây là nhạc của châu Âu gầm thét
Tiếng kèn trận, người đi như nước xiết
Tiếng thác xô tung tóe bọt căm thù”.
(Beethoven và âm vang hai thế kỷ)
Thơ ấy có sức liên tưởng sâu rộng, sức vang vọng mới lạ nhưng có gì đó còn chưa chan hòa với cuộc sống Việt Nam gian lao, cực nhọc đang vươn lên trong công cuộc đổi mới. Xưa kia anh viết:
“Ở đây tôi bắt gặp hôm nay, tôi bắt gặp
ngày qua
Tôi bắt gặp cả những ngày chưa tới
Trong những dáng người gặp vội
Đều chín muồi những dự định tương lai”...
(Trở lại trái tim mình)
Thơ như thế có sức rung cảm người đang nhiều mộng ước nhưng chưa khiến người đọc cảm thông những gì đang có thực trong đời của họ, để khiến họ thấm thía yêu thương cuộc đời mồ hôi nước mắt thường tình. Điều đó cho thấy có thứ thơ có thể rất hay trong thời của nó và nó đẹp như là kỷ niệm trong trẻo về một thời người Việt ta nhiều mộng tưởng đến mức hay giấu đi những khổ nhọc, buồn đau. Nhưng tới thời đoạn này, thơ Bằng Việt công bố năm 2000 đã chứa đựng những giá trị mới hơn, chất chứa những buồn vui, sướng khổ của đời, thiết thực hơn, sâu nặng hơn: “Vết thương cũ dẫu lành/ Lời hát còn đau tiếp.../ Thương sao là người hát/ Già đời còn thương vay”... (Thương lại một thời). Trước kia thơ anh hay bởi những xúc cảm to tát, giờ thơ anh thật hay khi viết về những điều sâu kín ngay trong cõi lòng mình, là cái hay tự tâm can, về nỗi buồn trần đời:
“Lặng lẽ ngồi nghe cây biết nói
Cây thấm hồn đêm, tĩnh lặng buồn
Lặng lẽ chờ tan cơn buốt nhói
Nỗi nhớ dần xa như khói sương”...
(Lặng lẽ)
Sau chùm thơ trên Tạp chí Nhà văn, Bằng Việt cho xuất bản tập thơ Ném câu thơ vào gió, gồm 45 bài, viết trên chặng đường thơ anh vừa đi qua. Một giọng thơ mềm mại, có thể nói là mềm mại hơn thơ anh trước kia nhiều, những tứ thơ sắc sảo, sức suy tưởng thâm trầm hơn xưa. Ném câu thơ vào gió lập tức gây tiếng vang trong đời sống văn chương. Bằng Việt lại được coi là một hiện tượng thơ, đến mức có nhiều người quan tâm đã nói rằng đó là một dấu mốc Bằng Việt quay lại với thơ. Chúng tôi thì nghĩ Bằng Việt vẫn đi trên đường thơ của anh chứ có bỏ đi đâu mà quay lại. Hai thập niên cuối thế kỷ XX, cuộc sống xã hội ta vập vào những thử thách gay gắt, nhất là đầu những năm 80, ngay ở Hà Nội, cái nghèo khó phơi ra trên phố xá hằng ngày: những bộ quần áo bạc màu, chêm đầy những miếng vá; những chiếc xe đạp hầu như tróc hết sơn, xích nhão kêu lạch xạch; cán bộ, công nhân viên nhà nước xếp hàng dài trước các cửa hàng thực phẩm để mua cho được từng lạng thịt, gói mì chính, bánh đậu phụ rất bã... Do nghèo khó, cuộc sống tinh thần bế tắc, con người bon chen nhau, cốt kiếm lợi cho mình. Do đó, đời sống tình cảm trở nên ốm yếu, méo mó, cái cao đẹp có nguy cơ bị vùi dập trước những tha hóa đang lan tràn trong xã hội. Vì vậy, đương nhiên một nhà thơ như Bằng Việt đã phải nghĩ ngợi nhiều về thân phận của những trí thức nói chung và thi nhân nói riêng. Đó là những người vốn được gọi là kẻ sĩ, hiểu biết sự đời hơn người nên cũng thật dễ bị tổn thương trước nỗi đời. Bằng Việt tài hoa, bay bổng xưa nay lại có những câu thơ hạ xuống nỗi day dứt, buồn thấm thía về sự mệt mỏi trong đời sống thường nhật, cứ lặp đi lặp lại mãi ngay trên mặt đất này:
“Những nhà thơ mau chóng già đi
Trước việc kiếm ăn vo tròn đều đặn
Cây xanh hóa thờ ơ giữa mặt trời mọc lặn
Tiếng chim chuyền trên phố cũng thờ ơ”…
(Sự nhạy cảm không có chỗ)
Đọc Sự nhạy cảm không có chỗ khiến người ta thấy cần nhận thức thêm, thậm chí nhận thức lại những giá trị đời sống. Trường hợp bài thơ Tạm bợ, ngôn ngữ thơ tinh giản, ý thơ thẳng thắn, gieo vào lòng người những day dứt khó chịu, khiến người ta muốn bứt phá để vượt ra khỏi sự trì trệ, mòn mỏi tầm thường: “Cái bàn gỗ tạp, cái ghế long chân/ Ý nghĩ và việc làm đều vá víu.../ Cái tạm bợ nối thành một đời/ Cái tạm bợ đã thành vĩnh cửu!”. Bài thơ này phần nào mang nội dung triết học, viết năm 1985, ngay trước ngưỡng cửa của công cuộc đổi mới. Nó là sự bổ sung cho thơ Bằng Việt có được tư tưởng, là bước đi thêm, là nấc cao hơn của phẩm chất thơ anh. Chắc hẳn chính anh cũng ý thức rõ điều đó nên mới nhìn nhận lại một phần thơ thời trước:
“Hát suốt ba mươi năm điệu tâm hồn đã cũ
Bất quá chỉ như sự an ủi xuôi chiều
Lời an ủi dông dài cho những ai yếu đuối
Có thực hòa đồng với tuổi trẻ cần yêu?”.
(Lại nghĩ về thơ)
Những năm Bằng Việt (cùng Lưu Quang Vũ) trở thành hiện tượng đặc sắc, trẻ trung của thơ chống Mĩ, anh từng hay viết về những gì dường như đẹp hơn cuộc sống thực. Chúng tôi xin nhấn mạnh, những câu thơ đẹp như lý tưởng ấy thực sự vẫn là những câu thơ được biết bao người đương thời yêu chuộng. Chẳng hạn: “Tôi đi ngang những cuộc đời thường/ Biết ở đó chia nỗi lo nhân loại” hoặc: “Anh nắm bàn tay em khi nói đến tương lai/ Thành phố đang cơn mưa ướt đẫm trong tiếng hát”… Đó là thơ của người vẫn nghĩ rằng đường đời sẽ phải đầy thuận lợi, ẩn sau ngôn ngữ thơ cất cánh, bay cao đến mê hoặc. Nhưng đến chặng đường thơ sau này, Bằng Việt tài năng đã dần hạ xuống sát sườn cuộc sống với mọi buồn vui, sướng khổ thường tình và một hi vọng thật về một thứ hạnh phúc chỉ có thể đạt tới khi phải tự mình làm nên. Đó là một sự thay đổi khiến thơ cần thiết hơn cho đời sống thật, có thể nói đó là sự đổi mới trong tư tưởng văn chương của nhà thơ hòa nhập với công cuộc đổi mới của đất nước. Xúc cảm thơ và trí tuệ thơ ở nhiều bài thơ trong tập Ném câu thơ vào gió là thơ của một tài năng đã rất từng trải. Bài Đọc lại Nguyễn Du thể hiện rõ cái tôi trữ tình đã thấm đẫm nỗi đau đời và cũng thật lịch lãm của anh. Đọc Nguyễn Du là phải đọc câu “Nhất sinh từ phú tri vô ích/ Mãn giá cầm thư đồ tự ngu” (Một đời chuyên từ phú, biết rằng vô ích/ Đàn sách đầy giá, chỉ tự mình làm ngu mình). Đọc câu ấy để rồi anh viết về mình: “Quá khuya, chợt thấy mình già/ Nhìn ra cửa sổ, mưa sa kín trời”. Đâu phải chỉ viết về cá nhân mình mà là viết về trường đời, trong đó có số phận thi nhân:
“Áo cơm se sắt mái đầu
Thương nhau mà giận, ngó nhau mà buồn,
Rạc dài chút phận văn chương
Cao sang nhòe lẫn tầm thường... ngẩn
ngơ”...
Những năm cuối thế kỷ XX, trong đời sống thơ Việt Nam hiện đại có không ít nhà thơ trẻ và cả một số nhà thơ không còn trẻ nữa bắt đầu làm cuộc đổi mới thơ. Phần lớn trong số họ theo xu hướng săn tìm hình thức mới cho ngôn ngữ thơ. Có những nhà thơ núp dưới chiêu bài “cách tân” và “tự do sáng tác” nhưng thực chất là rỗng tuếch và buông tuồng phô bày trước người đọc thứ thơ xa lạ, kệch cỡm. Là người thực sự đổi mới thơ, nhưng là đổi mới nội dung và tư tưởng thơ để cái tôi trữ tình của mình thật sâu và mạnh mẽ, nên thơ Bằng Việt luôn có sự liên hệ giữa quá khứ và hiện tại, giữa trong nước và quốc tế, giữa hòa bình và chiến tranh. Khi thiên hạ xao xác về sự đổ vỡ và thay đổi bởi sự kiện tan rã của Liên Xô, cái tôi trữ tình trong thơ Bằng Việt thật sâu xa, bình tĩnh và độ lượng: “Thôi, hãy khoan ngậm ngùi/ những gì chưa dễ có! Thôi, hãy khoan ruồng bỏ/ Những gì chưa dễ qua!” (Thôi hãy khoan). Có một dạo nhân loại suy đoán, lo nghĩ viển vông về sự tồn tại cá thể trước ngày tận thế, cái tôi trữ tình của Bằng Việt điềm đạm và tự tin đến quyết đoán: “Tận thế - là khi nhân tính không còn…/ Là sự băng hoại chính mình khi thui chột lương tâm!” (Biến tấu ngày tận thế). Cái tôi trữ tình trong thơ Bằng Việt vừa lịch duyệt vừa thấm đượm phong vị Việt truyền thống:
“Thế giới không theo ý nghĩ của bà,
Trời đất vuông tròn chỉ có trong cổ tích
Thế giới đầy đối nghịch
Trái đất đầy đạn bom…
Tôi vẫn yêu bánh dày, bánh chưng
Nhưng để lại sau lưng lòng tin nguyên
thủy!”.
(Bánh chưng, bánh dày)
***
Cuối thế kỷ XX-đầu thế kỷ XXI, Bằng Việt đi trên đường đời, đường thơ đã nhìn thế giới con người từ nhiều chiều kích, nhiều bình diện mà xưa anh chưa thể nhìn nhận. Vậy nên thơ Bằng Việt giờ đây còn có thêm một chút thiền, như trong bài Vườn Nhật Bản; lại có thêm giọng trào lộng bản thân, như những câu thơ trong các bài Ném câu thơ vào gió, Thương lại một đời và cả bài thơ tình Lục bát cầu may. Bài Vườn Nhật Bản, những câu thơ tinh tế, mô tả một khu vườn đá ở Kyoto – cố đô Nhật Bản. Anh bày tỏ nỗi lòng mình khi đi vào ma trận của đá. Đá thì ngồi thiền, rêu lặng lẽ nhập thế và xuất thế, cuội như sóng vô cùng vô tận, còn lòng người đã bỏ được hết tham, sân, si ở ngoài cổng vườn rồi... Ý thơ siêu thoát, hơi thơ trong trẻo, không gian thơ mênh mang: “Cỏ hữu hạn xanh veo cùng bất tử/ Lòng hoàn nguyên rửa sạch với thinh không!”. Trường hợp bài thơ Ngày đã đứng trưa, lòng tự tin trước cuộc đời của nhà thơ thể hiện bằng sự tự giễu mình qua những câu chữ tưng tửng mà day dứt, sơ kết một chặng đời:
“Đã đứng rồi ư? Sao ngày ngắn vậy
Nghĩ chưa xong, thời khắc điểm xong rồi!
Đã chín rồi ư? Sao đời ngắn vậy
Quay lại nhìn, bao việc vẫn buông xuôi”...
Giữa những khe chữ ấy vẫn là canh cánh nỗi đời và cũng thăm thẳm lòng yêu thương cuộc đời: “Trưa đang đứng, còn đời mình đang chín/ Giọt nắng vàng như mật sáng rưng rưng”... Bút lực của thi sĩ mạnh hay yếu chính là khả năng truyền cho người đọc nhiều hay ít tri thức về cuộc sống cùng tình thương yêu con người sâu hay nông. Bút lực của Bằng Việt đang dồi dào lắm. Qua bài Ném câu thơ vào gió, ta thấy rõ điều đó. Anh mở đầu bài thơ như sự vung bút nhanh và khoáng đạt lạ thường:
“Ném một câu thơ vào gió thổi
Lời bay đi, tôi nhớ lại đời mình”.
Cuộc đời riêng của nhà thơ nhưng mang cái chung của nhiều người cùng thế hệ, có chút nực cười thời trẻ “chưa hết tung tăng đã muốn bạc đầu”, lại có cả “nỗi đam mê một thời trang trọng/ lo nỗi lo khuôn thước của muôn nhà”. Bằng Việt nói về cuộc sống của cả một thời bằng ngôn ngữ thơ nhẹ nhõm, phóng túng. Qua sự đánh giá cuộc đời riêng mình, anh thấy nó chứa cái chung của bao cuộc đời cùng trang lứa với những giá trị tự nhiên, đẹp đẽ, những câu thơ thổn thức và trang trọng:
“Nay lại ném câu thơ vào gió thổi
Tin, không tin... vẫn còn lại riêng mình,
Còn lại tấm lòng mong manh dễ vỡ
Cát đã ra lò, nay hóa thủy tinh”.
Lối vung bút khoáng đạt, xuất thần ấy không chỉ có trong bài Ném câu thơ vào gió mà có thể thấy nhiều câu thơ như thế ở các bài Em và tôi, Rồi sẽ tới, Lục bát cầu may... Đọc Lục bát cầu may, ta thấy một hồn thơ phập phồng trong tình ái, có ái ngại và cũng bồn chồn hi vọng của thi sĩ đã tới tuổi lục tuần: “Biết đâu say đắm vẫn còn/ Thoảng cơn gió lạ nắng dồn sang mưa.../ Biết đâu sau lớp tro vùi/ Ngón tay em có phép cời lửa lên”. Đằng sau những biết đâu ấy là nỗi lòng yêu đương đến phấp phỏng, lo âu. Đích thực đó là thơ có nhựa sống, có hồn yêu, máu yêu. Nhiều thập kỷ qua, thơ tình của ta ít đi sâu vào nỗi lo sợ thành, bại của người đem lòng yêu khi bước vào cuộc yêu. Ở bài thơ này của Bằng Việt, âu lo đến mức muốn toại nguyện thì phải cầu may, phải nhờ trời, thậm chí phải phiêu lưu, bất chấp mọi rủi ro số phận:
“Nếu làm mây, cứ như mây
Một mai tan xuống đất này, được không?
Nếu em là kiếp bềnh bồng
Thì tôi vĩnh viễn phải lòng phù du”...
Là một nhà thơ sớm có thành tựu trong thơ tình hơn ba mươi năm trước, thời viết Bếp lửa với những bài như Tình yêu và báo động, Nghĩ lại về Pauxtopxky, Những đoạn thơ tình giữa hai cuộc chiến tranh... Nhưng chúng tôi nghĩ, đến chặng đường thơ này Bằng Việt mới có thơ tình ái đích thực. Mỗi bài thơ tình của anh đều có xúc cảm mạnh và ý tứ thật đằm thắm. Chẳng hạn bài Em và tôi là thơ tình của người từng trải lắm rồi nhưng may sao sự từng trải vẫn nhường bước cho niềm say đắm, nồng nàn:
“Em có nét buồn sâu như ngọn gió
Thổi lang thang qua năm tháng hao gầy,
Tôi có chút buồn xa như vạt cỏ
Khuất chìm trong cát bỏng đến chân mây”.
Trong xúc cảm đắm say, thơ Bằng Việt tỏ rõ cái mạnh riêng là sức liên tưởng lớn, khiến không gian tình yêu mở ra thật xa rộng mà đầy mĩ cảm. Lúc sáng tác bài thơ này, tài thơ cộng thêm sự thăng hoa vụt đến, nhà thơ đã cảm nhận ái tình dài lâu từ cõi sống thường tình sang cả cõi khác thường, to lớn và biến ảo như thiên nhiên:
“Khi quay lại nhìn nhau trong khoảnh khắc
Gió qua truông thương cỏ cháy ven trời
Chỉ em biết, cỏ rồi xanh mút mắt
Chỉ một mình em biết - cỏ là tôi!”.
Trên đường thơ cuối thế kỷ XX và bước sang thế kỷ XXI của Bằng Việt, ta thấy những quan tâm thật sâu của nhà thơ tới cuộc sống với thật nhiều suy ngẫm, lo âu và anh cũng yêu cuộc sống không mấy dễ dàng này thật chân thành, da diết. Anh vẫn đang đi trên con đường của số phận mình. Trên con đường ấy, có lúc anh thảng thốt: “Đời đột biến mà thơ đi quá chậm”. Có khi trước dòng đời chảy xiết, anh thốt lên một lời than và hạ giọng xuống, những câu chữ như một tiếng thở dài: “Nhanh quá thế, mà cũng buồn quá thế/ Chớp mắt xong, là đã một đời người”. Nhiều khi một mình về giữa khu rừng sim mua rộng lớn anh từng gắn bó thời niên thiếu, Bằng Việt lại thấy tự tin nên nhận biết được cái đẹp vừa nhẹ nhõm vừa sâu xa về lẽ mất và được, không và có trong cuộc đời này:
“Có gì run rẩy tinh sương
Ru ta tới lẽ vô thường nhẹ không”...
Tất cả những sắc thái, những cung bậc cuộc sống, những buồn vui, sướng khổ trong đời được lọc qua tâm hồn Bằng Việt thành thơ. Có thể nói ngay khi bước vào làng thơ Việt Nam hiện đại, nhà thơ này đã thể hiện một bản lĩnh thơ đằm sâu, một chủ nghĩa trữ tình xao động, bồi hồi, khi đậm đà duyên dáng, khi âm vang sâu thẳm – như cách nói của Giáo sư Lê Đình Kỵ. Rồi con đường thơ cuốn hút anh, Bằng Việt dấn thân và anh đã tạo cho mình một tư thế thơ thật đẹp trong đời sống thơ ca Việt Nam đương đại. Có điều rất lạ là dường như sang thế kỷ XXI, Bằng Việt viết khỏe hơn trước, liên tiếp cho xuất bản các tập thơ: Ném câu thơ vào gió (2001), Thơ trữ tình (2002), Nheo mắt nhìn thế giới (2008), Oẳn tù tì (2016), Hoa tường vi (thơ chọn, 2018), Tuyển thơ 1986-2016 (2020). Sau tập tuyển thơ 30 năm thời kỳ Đổi mới như để nhìn lại đường đời, đường thơ của mình, Bằng Việt lại làm tiếp bổn phận của một nhà thơ đối với đời sống thơ ca Việt Nam là đưa thơ mình viết về đất nước, dân tộc mình hội nhập với đời sống thơ ca thế giới. Tôi viết là “Bằng Việt lại làm tiếp bổn phận…” bởi anh đã có cuộc hội nhập thơ ca với quốc tế lần đầu khi tuyển tập Thơ trẻ Việt Nam (1964-1975), do NXB Thanh niên cận vệ ấn hành tại Liên Xô (cũ), in tới 34 bài thơ của anh và tập thơ Những bài ca về rừng cọ, do NXB Nakaduly của nước Cộng hòa Gruzia xuất bản năm 1983, mà chúng tôi đã nói ở phần trên. Hiện tượng thơ Bằng Việt hội nhập với thơ ca thế giới lần này đã khiến chúng tôi nghĩ đến một trường hợp hi hữu trong lịch sử văn chương Việt Nam hồi đầu thế kỷ XVIII: tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ mà Vũ Khâm Lân ca ngợi là “thiên cổ kỳ bút” không phải do người ngoại quốc chuyển ngữ mà do học giả Nguyễn Thế Nghi dịch sang chữ Nôm (nhan đề Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tạp chú). Tác phẩm này được lưu truyền khá sâu rộng ra quốc tế, bản khắc in những năm 1714, 1737, 1763, 1775 hiện còn được lưu giữ tại thư viện một số nước như Nhật Bản, Pháp, Trung Quốc. Còn Bằng Việt hôm nay thì tự dịch tuyển tập thơ Chiếc cầu ngói của mình ra Pháp ngữ (Le pont au toit de tuiles), gồm 72 bài thơ, đã được Joseph Ouaknine xuất bản tại Pháp tháng 2/2023. Buổi họp báo giới thiệu ra sách tại Paris ngày 2/4/2023 của nhà xuất bản, do họa sĩ nổi tiếng Dominique de Miscault chủ trì, khá thành công và ngay sau đó tập thơ được phát hành trên mạng Amazon quốc tế – mạng bán sách có uy tín lớn ở các nước phương Tây…
Để khép lại bài viết về thơ Bằng Việt, tôi chỉ muốn viết thêm một câu: Qua mạng Amazon quốc tế, tập thơ Le pont au toit de tuiles đang tỏa đi rộng khắp để hội nhập với thơ ca nhân loại; còn Bằng Việt, anh lại tiếp tục dấn bước trên đường đời, đường thơ của mình!