TRUYỆN DÂN GIAN PÀ THẺN: TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA TỘC NGƯỜI

Bằng sự kết hợp linh hoạt giữa lý thuyết và thực tiễn phân tích một số tác phẩm tiêu biểu, bài viết chỉ ra những giá trị tiêu biểu của truyện kể dân gian Pà Thẻn. Đồng thời, bài viết góp phần khẳng định tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyện dân gian Pà Thẻn nói riêng và văn hóa, văn học dân gian Việt Nam nói chung trong bối cảnh hiện đại hóa, toàn cầu hóa hiện nay.

   Trong kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam, truyện kể dân gian là một thể loại tiêu biểu phản ánh sâu sắc thế giới quan, nhân sinh quan và tri thức cộng đồng qua hình thức truyền miệng. Theo một số nhà nghiên cứu, “Truyện kể dân gian là một bộ phận tiêu biểu của văn học dân gian, bao gồm những sáng tác văn học dân gian được tạo thành bởi hai thành phần chủ yếu là cốt truyện và nhân vật, phản ánh hiện thực cuộc sống một cách khách quan chủ yếu thông qua phương thức kể và ngôn ngữ văn xuôi”1. Đây là những sáng tác tập thể, không ngừng được cộng đồng sáng tạo, diễn xướng và điều chỉnh qua thời gian. Chính sự phong phú về thể loại, tính truyền miệng, tính nguyên hợp và tính tập thể đã giúp cho truyện dân gian vượt qua giới hạn thời gian, không gian, trở thành hạt nhân văn hóa sống động và bền vững trong đời sống các tộc người.

   Trong cộng đồng các dân tộc thiểu số (DTTS) ở Việt Nam, truyện dân gian không chỉ chiếm vị trí quan trọng về mặt số lượng mà còn thể hiện chiều sâu văn hóa, tâm linh và triết lý sống đặc thù của từng tộc người. Những câu chuyện kể về nguồn gốc dân tộc, các anh hùng huyền thoại, người thông minh, hiếu thảo… không đơn thuần là sản phẩm văn học để giải trí mà còn là phương tiện giáo dục truyền thống, đạo đức và thế giới quan, góp phần định hình hệ giá trị phù hợp với điều kiện sống, địa lý và tín ngưỡng đặc trưng. Một trong những đặc trưng nổi bật của truyện dân gian DTTS là tính nguyên hợp – sự hòa quyện giữa ngôn từ với âm nhạc, múa hát, lễ nghi, tín ngưỡng và diễn xướng cộng đồng. Điển hình như sử thi Ê-đê được kể kết với cồng, chiêng và rượu cần trong lễ hội, thể hiện một hình thức nghệ thuật đa chiều gắn liền với không gian văn hóa sống động. Truyện dân gian còn liên kết chặt chẽ với tập quán ứng xử, luật tục và tâm lý cộng đồng, vừa giúp cá nhân hiểu rõ vai trò, trách nhiệm và giới hạn hành vi qua những tình tiết cụ thể, nhân vật sinh động vừa đảm nhận vai trò giải trí trong các dịp lễ hội hay sinh hoạt thường nhật. Dù có sự phân chia thể loại, trên thực tế truyện dân gian luôn biến hóa, đan xen, linh hoạt trong diễn xướng và tiếp nhận, thể hiện bản chất như một “thực thể văn hóa sống” – vừa là nghệ thuật vừa là kho tri thức bản địa, tồn tại chủ yếu qua truyền miệng. Nó không chỉ truyền tải các giá trị như cái thiện, lòng nhân ái, trí tuệ dân gian, lòng hiếu thảo, tinh thần dũng cảm... mà còn là phương tiện giúp kết nối thế hệ, duy trì bản sắc và tạo nền tảng cho sự hòa hợp, đoàn kết giữa các tộc người trong một quốc gia đa dạng văn hóa.

   Dân tộc Pà Thẻn là một DTTS sống chủ yếu tại miền núi phía Bắc Việt Nam, tập trung ở Tuyên Quang (gồm Hà Giang và Tuyên Quang trước ngày 1/7/2025), với dân số theo Tổng điều tra 2019 là 8.248 người2. Thuộc nhóm ngôn ngữ Mông - Dao trong hệ Hán - Tạng, người Pà Thẻn có quan hệ gần gũi với dân tộc Dao và từng di cư từ Quảng Tây, Vân Nam (Trung Quốc) trong các thế kỷ XVII-XVIII; quá trình định cư tại Việt Nam diễn ra chủ yếu ở vùng trung du và miền núi, trong đó Hà Giang là nơi cư trú lớn nhất của họ hiện nay. Mặc dù chịu ảnh hưởng văn hóa từ các dân tộc lân cận như Tày, Mông, Dao nhưng cộng đồng Pà Thẻn vẫn duy trì được bản sắc riêng qua ngôn ngữ, trang phục, phong tục và tín ngưỡng. Nét nổi bật trong đời sống tinh thần của họ là lễ nhảy lửa – một nghi lễ thiêng liêng thể hiện sự gắn kết giữa con người và thế giới tâm linh, đồng thời là biểu tượng đặc trưng của bản sắc Pà Thẻn. Trải qua nhiều biến động lịch sử và sự thay đổi do phát triển xã hội hiện đại, văn hóa truyền thống của người Pà Thẻn đứng trước nguy cơ mai một, nhất là do thiếu hệ thống chữ viết và lệ thuộc vào truyền miệng. Tuy nhiên, với nỗ lực của cộng đồng và sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, lễ hội nhảy lửa đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Đồng thời, các mô hình du lịch cộng đồng đang góp phần giúp người Pà Thẻn vừa bảo tồn văn hóa vừa phát triển kinh tế. Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Pà Thẻn là trách nhiệm chung của toàn xã hội nhằm duy trì sự đa dạng văn hóa trong cộng đồng 54 dân tộc ở Việt Nam.

   Mặc dù sở hữu một nền văn hóa đặc sắc với nhiều phong tục, tín ngưỡng riêng biệt và vẫn còn sự hiện diện của các nghệ nhân, trí thức nắm giữ kho tàng văn hóa truyền thống, song truyện dân gian của người Pà Thẻn lại chưa nhận được sự quan tâm thỏa đáng trong công tác sưu tầm và tư liệu hóa so với một số dân tộc thiểu số khác. Điều này tạo nên một khoảng trống đáng kể trong nỗ lực bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa đặc trưng của cộng đồng. Việc thiếu vắng tài liệu ghi chép không chỉ khiến kho tàng truyện kể dân gian của người Pà Thẻn ít được biết đến mà còn gây khó khăn cho quá trình giảng dạy, truyền bá và giữ gìn di sản cho thế hệ trẻ. Trong khi nhiều dân tộc đã có các tuyển tập truyện dân gian được biên soạn công phu thì các câu chuyện dân gian của người Pà Thẻn vẫn chủ yếu tồn tại ở dạng truyền miệng, đối diện với nguy cơ thất truyền, nhất là trong bối cảnh các nghệ nhân cao tuổi dần khuất bóng mà chưa có thế hệ kế thừa vững chắc.

   Khi khảo sát thực tế tại xã Tân Trịnh (huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang cũ), nhiều người dân Pà Thẻn đã khẳng định vai trò đặc biệt của truyện dân gian trong đời sống. Bà Sìn Thị Ngoan, người Pà Thẻn sống tại xóm Mác Thượng chia sẻ: “Cô không biết chữ nhiều đâu, nhưng truyện thì cô nhớ lắm. Cứ mỗi khi ở nhà hay đi lên rẫy mà có con cô đi cùng thì cô lại kể chuyện cho nghe, vừa để con biết truyện dân tộc mình vừa để có tinh thần làm việc hơn. Những câu chuyện này dạy con người sống hiền lành, biết yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau”. Còn cô Ván Thị Chi thì bộc bạch: “Hồi nhỏ, cô nghe bà kể chuyện, cứ tưởng chỉ là cho vui nhưng sau này trưởng thành, nuôi con, cô mới hiểu những truyện đó răn dạy con người nhiều điều, dạy phải sống tử tế, thương người. Ngoài ra còn nhắc nhở về nguồn gốc dân tộc mình nữa… Nếu không kể lại, sau này khả năng không ai biết đến truyện dân tộc Pà Thẻn”. Những chia sẻ mộc mạc ấy cho thấy truyện dân gian không chỉ là “văn học” mà là “đời sống”, là một phần không thể tách rời của bản sắc cộng đồng – nơi từng câu chuyện là phương tiện kết nối, giáo dục và nuôi dưỡng tâm hồn tộc người. Chúng phản ánh sâu sắc mối quan hệ giữa con người - tự nhiên - xã hội, góp phần duy trì bản sắc, đạo đức và ký ức lịch sử của tộc người.

   Trong bối cảnh hiện nay, khi các giá trị truyền thống đứng trước nguy cơ mai một, truyện dân gian chính là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giúp các thế hệ trẻ thấu hiểu giá trị văn hóa, nuôi dưỡng lòng tự hào dân tộc và củng cố căn tính cộng đồng. Hồ Chí Minh đã từng khẳng định rằng: “Phải làm thế nào cho văn hoá vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ”3. Việc bảo tồn và phát triển kho tàng truyện dân gian DTTS không chỉ góp phần thực hiện lời dạy của Người về vai trò của văn hóa trong việc hình thành nhân cách và đạo đức xã hội mà còn là một nhiệm vụ cấp thiết nhằm duy trì sự đa dạng văn hóa và phát huy giá trị giáo dục sâu sắc. Đây là cách hiệu quả để gìn giữ bản sắc và tạo dựng nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của các dân tộc.

   Văn hóa tộc người là tổng hòa các giá trị vật chất và tinh thần được tạo ra, tích lũy và truyền giữ qua các thế hệ. Nó bao gồm ngôn ngữ, tín ngưỡng, lễ hội, ẩm thực, nghệ thuật và tri thức dân gian. Trong đó, truyện dân gian đóng vai trò đặc biệt quan trọng, vừa phản ánh sâu sắc vừa gìn giữ các yếu tố cốt lõi của văn hóa tộc người. Theo Nguyễn Khoa Điềm, trong xã hội đương đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá, văn hoá dân gian vẫn phải được bảo tồn và phát huy vì nó chính là “bộ gien của văn hoá dân tộc”, là “vườn ươm cho văn nghệ chuyên nghiệp, là sự giữ gìn cốt cách bền vững của dân tộc”. Do đó, việc sưu tầm và nghiên cứu văn hoá dân gian chính là cách “biến di sản quá khứ thành tài sản hôm nay”. Văn hoá và văn hoá dân gian được phát huy đúng mức sẽ là “nguồn năng lượng nuôi dưỡng sức mạnh kinh tế và chính trị mỗi quốc gia để vượt qua thử thách, khai thác thời cơ”. Tuy nhiên, ông cũng nhận định rằng, trong xã hội công nghiệp hoá - hiện đại hoá, hội nhập và giao lưu quốc tế như hiện nay, văn hoá dân gian “rất dễ bị tổn thương, bị xoá nhoà, bị triệt tiêu, bị coi rẻ là thứ văn hoá thứ cấp” nên Đảng và Nhà nước cần xây dựng một “Chiến lược quốc gia về văn hoá dân gian”4.

   Trong kho tàng truyện dân gian của người Pà Thẻn tại huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang (cũ), các hiện tượng tự nhiên, nguồn gốc tộc người và chữ viết được lưu giữ bằng những câu chuyện đầy màu sắc huyền thoại, phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan và bản sắc văn hóa đặc trưng của họ.

   Hiện tượng tự nhiên, nguồn gốc tộc người và chữ viết là những yếu tố quan trọng trong việc hình thành và lưu giữ ký ức của cộng đồng Pà Thẻn, tiêu biểu là hai truyện: Sự tích con khỉ và nấm đùi gà và Truyền thuyết Vờ Lông - Sự tích sao Bắc Đẩu, thể hiện cách cộng đồng sử dụng nghệ thuật kể chuyện để lý giải sự vật, hiện tượng. Truyện thứ nhất kể về hai đứa trẻ bị cha mẹ bỏ rơi giữa rừng vì đói nghèo, cuối cùng hóa thành khỉ, còn đùi gà cha mẹ mang đến hóa thành nấm. Qua đó, câu chuyện không chỉ lý giải nguồn gốc thực vật - động vật mà còn truyền tải bài học đạo đức về hậu quả của sự vô trách nhiệm trong gia đình. Trong khi đó, Truyền thuyết Vờ Lông - Sự tích sao Bắc Đẩu kể về sự hình thành chòm sao Bắc Đẩu, xoay quanh câu chuyện tình yêu thủy chung và sự trừng phạt vì lỗi lầm. Người vợ vượt qua 18 người khác để đoàn tụ với chồng nhưng vì chồng từng dối trá nên chỉ vợ được lên trời, còn hai cha con hóa thành sao Bắc Đẩu giữa bầu trời đêm. Câu chuyện vừa lãng mạn, vừa bi kịch, phản ánh sâu sắc niềm tin vào luật nhân - quả và giá trị vĩnh cửu của tình cha con.

   Không dừng lại ở việc lý giải tự nhiên, truyện dân gian Pà Thẻn còn trả lời câu hỏi: dân tộc mình từ đâu đến? Hai truyện Nguồn gốc dân tộc Pà Thẻn và Nguồn gốc tám dòng họ dân tộc Pà Thẻn đều xoay quanh sự tái sinh sau trận đại hồng thủy hoặc quá trình hôn phối, sinh tồn của tổ tiên. Các chi tiết như con nhộng nở từ trứng, bật cười thành người khi nghe tiếng lửa nổ, hay hành động hất nhộng lên núi, xuống đồng bằng đều mang tính biểu tượng cao, cho thấy ý thức sâu sắc của cộng đồng về quy luật sinh - tử, cấu trúc xã hội và sự phân bố dân cư ngày nay. Đây là mô thức phổ biến trong thần thoại của nhiều DTTS nhưng được kể lại bằng giọng riêng đầy cảm xúc và sáng tạo của người Pà Thẻn.

   Một trong những câu chuyện đặc biệt nhất là Chữ viết người Pà Thẻn kể lại hành trình họ học đạo thất bại vì mưa lớn làm ướt sách vở. Khác với các dân tộc khác có thể ghi chép phép thuật, người Pà Thẻn đành ghi nhớ bằng trí óc. Từ đó, mọi tri thức về lễ nghi, tín ngưỡng của họ chỉ được lưu giữ trong tâm trí các thầy cúng, không có chữ viết ghi lại. Câu chuyện vừa là lời lý giải đầy ẩn dụ về sự thiếu vắng văn tự, vừa là hồi chuông cảnh tỉnh về nguy cơ mai một văn hóa nếu tri thức không được truyền nối kịp thời. Chữ viết – biểu tượng của trí tuệ và bền vững – đã vuột khỏi tay người Pà Thẻn trong một cơn mưa định mệnh, để lại một vết lặng văn hóa đầy tiếc nuối cho cả cộng đồng đến tận hôm nay.

   Trong đời sống văn hóa của người Pà Thẻn, phong tục không chỉ là những nghi lễ truyền thống mà còn là phương tiện giáo dục đạo lý và tri ân sâu sắc. Qua truyện dân gian Tục cho chó mèo ăn trước, cộng đồng này lý giải nguồn gốc của phong tục thờ chó mèo – hai loài vật có công lớn trong việc mang giống lúa và bảo vệ mùa màng bằng một câu chuyện mang đậm màu sắc huyền thoại và đạo lý. Lễ cơm mới và tục cho chó mèo ăn trước người là cách cộng đồng thể hiện lòng biết ơn, đạo lý “uống nước nhớ nguồn” và ghi công theo trật tự rõ ràng. Điều này còn được phản ánh rõ trong trang phục truyền thống. Những hoa văn hình chân chó thêu trên váy phụ nữ không chỉ mang tính thẩm mĩ mà còn là biểu tượng của lòng thủy chung, tình mẫu tử và sự biết ơn với người bạn đời – người chồng mang hình tượng con chó trong truyền thuyết. Nghề dệt, với nguồn gốc từ một cô gái học thêu với yêu tinh, cũng được kể lại như một hành trình can đảm, vượt hiểm nguy vì cái đẹp và vì cộng đồng.

   Ở tầng sâu hơn, thế giới tâm linh của người Pà Thẻn được xây dựng như một thiết chế đạo đức, nơi từng hành vi sống đều chịu sự quan sát và chi phối bởi luật lệ thiêng. Các thầy cúng không chỉ là người hành lễ mà còn là người gắn kết trời - đất - người - thần linh, giữ gìn sự cân bằng vũ trụ. Qua các truyện kể như Người Pà Thẻn học làm thầy hay Câu chuyện thầy cúng, ta thấy rõ tinh thần khiêm nhường, tôn trọng giới hạn phép thuật và đề cao đạo đức trong hành nghề. Những nghi thức như lễ nhảy lửa, vỗ tay ba cái trước khi cúng, kiêng ăn thịt chó… không chỉ là tập tục mà là những lớp văn hóa sống động đang được gìn giữ, giúp cộng đồng vững vàng trước biến động thời đại và giữ vững bản sắc trong dòng chảy hội nhập.

   Trong đời sống tinh thần của cộng đồng người Pà Thẻn, những bài học nhân sinh được kết tinh không chỉ từ hiện thực sinh tồn giữa núi rừng khắc nghiệt mà còn lắng đọng trong kho tàng truyện dân gian phong phú. Những câu chuyện kể dân gian như: Sự tích con khỉ và nấm đùi gà, Truyền thuyết Vờ Lông - Sự tích sao Bắc Đẩu, Nguồn gốc tám dòng họ dân tộc Pà Thẻn hay Sự xuất hiện của thầy cúng… đều phản ánh sâu sắc các giá trị đạo lý sống: luật nhân - quả, công bằng, trung thực, tự lực và lòng bao dung. Người Pà Thẻn tin rằng mọi hành động đều có nhân - quả, người thiện lương rồi sẽ được đáp đền, kẻ ác không thể thoát khỏi sự phán xét của cộng đồng và trời đất. Tinh thần công bằng không chỉ hiện diện trong truyện mà còn được tổ chức thành trật tự đạo đức sống động trong gia đình và cộng đồng thông qua luật tục và nghi lễ.

   Không chỉ đề cao công lý, người Pà Thẻn còn nuôi dưỡng tinh thần tự lực cánh sinh – một triết lý sống được thể hiện rõ trong các truyện về học nghề, dệt vải, vượt khó. Nhân vật nữ trong Sự tích nghề dệt là biểu tượng cho sự kiên cường, thông minh và bản lĩnh sinh tồn trong nghịch cảnh. Cùng với đó, tinh thần lạc quan giúp cộng đồng giữ vững lòng tin giữa khó khăn. Dù bị xem thường hay thử thách bởi lời gièm pha như trong Chuyện quả ốc, nhân vật vẫn giữ niềm tin vào bản thân – đây là một thông điệp mạnh mẽ về lòng kiên định.

   Bên cạnh đó, truyện dân gian Pà Thẻn còn răn dạy đạo lý làm người qua trách nhiệm của cha mẹ với con cái, sự trung thực trong thử thách, tinh thần bao dung với người lầm lỗi và sự hi sinh vì cộng đồng. Các hình tượng như cô bé con chồng giữ lòng thật thà trước hổ thần, người vợ tha thứ cho chồng nghiện cờ bạc, con chó vượt đại dương mang lúa về… đều khắc họa những giá trị nhân bản sâu sắc. Những triết lý ấy dù mang đậm sắc thái vùng cao nhưng vẫn chứa đựng tinh thần phổ quát, bền vững và giàu ý nghĩa với xã hội hiện đại. Chính điều đó khiến truyện dân gian của người Pà Thẻn không chỉ là văn hóa tộc người mà còn là bài học đạo lý dành cho mọi thế hệ.

   Trong truyện dân gian Pà Thẻn, yếu tố kỳ ảo, hệ thống nhân vật đa dạng và không gian đậm chất thiên nhiên hòa quyện, tạo nên phong cách nghệ thuật đặc trưng, phản ánh thế giới quan và giá trị văn hóa sâu sắc của cộng đồng. Yếu tố kỳ ảo là một phương diện nghệ thuật nổi bật trong truyện dân gian người Pà Thẻn, phản ánh cách cộng đồng này nhìn nhận thế giới, lý giải sự sống và truyền tải các giá trị văn hóa qua hình thức giàu trí tưởng tượng. Trong tư duy dân gian Pà Thẻn, kỳ ảo không phải là sự tách rời thực tại mà là phần nối dài của đời sống cảm quan, nơi hiện thực và thần thoại đan cài một cách tự nhiên.

   Các yếu tố kỳ ảo trong truyện dân gian Pà Thẻn xuất phát từ tư duy trực quan – hình ảnh cụ thể, hành động sinh động, biểu tượng gần gũi. Cô gái học nghề từ yêu tinh ăn thịt người (Sự tích nghề dệt), hai đứa trẻ bị bỏ rơi hóa thành khỉ (Sự tích con khỉ và nấm đùi gà), hổ biết nói và thử lòng người (Mẹ kế và con chồng)... đều thể hiện logic cảm xúc, đạo lý cộng đồng hơn là logic khoa học. Điều đó cho thấy người Pà Thẻn không phân biệt rạch ròi giữa người và vật, người và thần linh, mà xem mọi vật đều có linh hồn, đều có thể giao tiếp và can thiệp vào số phận con người.

   Đặc biệt, yếu tố kỳ ảo trong truyện dân gian Pà Thẻn luôn gắn bó chặt với không gian thiên nhiên – nơi được linh thiêng hóa và trở thành “môi trường huyền thoại”. Rừng, suối, núi đá, khúc cây mục không chỉ là bối cảnh mà là chủ thể sống, là nơi trú ngụ của yêu tinh, thần hổ, là chốn thử thách và cứu rỗi con người. Câu chuyện Yêu tinh lấy chồng Pà Thẻn cho thấy không gian rừng núi là cầu nối giữa người - yêu tinh, không phải chốn hãi hùng mà là phần thân quen của đời sống tâm linh dân tộc.

   Yếu tố kỳ ảo trong truyện Pà Thẻn không hề xa lạ mà hiện diện ngay trong đời sống thường nhật: ống nứa, quả bầu, chum rượu, bát cơm, chiếc váy… trở thành phương tiện kết nối với thế giới siêu hình. Chính điều này cho thấy cách người Pà Thẻn huyền thoại hóa mọi vật thể quen thuộc để truyền dạy đạo lý: cái thiện được nâng đỡ, cái ác bị trừng trị, người có lòng được ban phúc. Do đó, yếu tố kỳ ảo không chỉ mang tính nghệ thuật mà còn là công cụ văn hóa, lưu giữ thế giới quan tổng hợp của người Pà Thẻn – nơi thiên nhiên, con người và thần linh không tách rời mà hòa quyện trong dòng chảy ký ức cộng đồng.

   Không gian nghệ thuật trong truyện dân gian người Pà Thẻn mang đậm dấu ấn thiên nhiên núi rừng – nơi không chỉ là bối cảnh sống mà còn là trung tâm linh thiêng của cả đời sống tinh thần và văn hóa cộng đồng. Truyện không diễn ra trong khung cảnh cung điện, đô thị như trong văn học dân gian người Kinh mà chủ yếu gắn với rừng sâu, núi cao, hang động, suối nguồn, ruộng nương… những không gian quen thuộc với đời sống du canh du cư truyền thống của người Pà Thẻn. Trong truyện Sự tích con khỉ và nấm đùi gà, rừng sâu không chỉ là nơi bị bỏ rơi mà còn là không gian khởi nguyên, nơi nhân vật hóa thân, đánh mất nhân tính và trở thành một giống loài mới. Cũng trong Mẹ kế và con chồng, không gian rừng là nơi thử thách đạo đức, đồng thời cũng là chốn cứu rỗi – nơi hổ thần hiện diện, minh xét và trao phần thưởng công bằng.

   Điểm đặc biệt là không gian nghệ thuật trong truyện Pà Thẻn vừa gần gũi đời thường vừa thiêng liêng huyền bí. Rừng, suối, bếp, tường nhà… không chỉ là vật thể mà còn là nơi có linh hồn, là chốn trú ngụ của thần linh, tổ tiên, yêu tinh – những thế lực siêu nhiên luôn âm thầm theo dõi và can thiệp vào đời sống con người. Không gian thiên nhiên vì thế trở thành môi trường của sự biến hóa, phán xét và chuyển hóa tâm linh. Trong truyện Yêu quái, rừng là nơi ẩn náu của yêu ma, con đường mòn trở thành cái bẫy, bóng nước dưới suối là nơi phản chiếu những sự thật ẩn giấu. Thiên nhiên trong truyện Pà Thẻn không tĩnh tại mà là “môi trường sống linh hồn”, luôn chuyển động, luôn ẩn chứa tiềm năng thần thoại.

   Tóm lại, không gian nghệ thuật trong truyện dân gian người Pà Thẻn không chỉ là phông nền địa lý mà còn là thành tố văn hóa độc đáo, thể hiện thế giới quan thống nhất giữa con người - tự nhiên - thần linh. Đây là nơi con người đối mặt với thử thách, được thanh lọc đạo đức và tái sinh tinh thần, là một dấu ấn đặc sắc khẳng định chiều sâu văn hóa tộc người nơi núi rừng Tây Bắc.

   Thế giới nhân vật trong truyện dân gian Pà Thẻn là sự kết hợp độc đáo giữa cái “quen” và cái “lạ” – vừa phản ánh đời sống thường nhật vừa mang sắc thái kỳ ảo, biểu tượng. Nhân vật phần lớn không phải anh hùng thần thoại hay vĩ nhân lịch sử mà là những con người bình dị: cô gái dệt vải, người vợ hiền, đứa trẻ bị bỏ rơi, chàng trai nghiện cờ bạc, người học trò làm thầy. Họ đại diện cho tầng lớp bình dân trong cộng đồng, trải qua những mối lo đời thường như đói nghèo, mất mát, định kiến xã hội. Tuy nhiên, điểm đặc biệt là họ thường được đặt vào hoàn cảnh phi thường, nơi có sự can thiệp của thần linh, ma quỷ, động vật biết nói hoặc các hiện tượng siêu nhiên, tạo nên chiều sâu biểu tượng và đạo lý cho mỗi nhân vật.

   Tư duy nguyên hợp – tức là sự thống nhất giữa con người, tự nhiên và thế giới siêu hình – được thể hiện rõ qua việc nhân vật con người có thể hóa thân (như hai đứa trẻ thành khỉ), đối thoại với thần linh (như cô bé gặp Hổ Thần) hay học nghề từ yêu tinh (cô gái trong Sự tích nghề dệt). Tương tự, các con vật như chó, mèo, chuột trong Tục cho chó mèo ăn trước hay Hình ảnh con chó trên trang phục Pà Thẻn đều được nhân cách hóa, gắn với biểu tượng văn hóa, đạo đức cộng đồng như sự trung thành, tinh thần cống hiến, bảo vệ giống nòi. Thần linh cũng hiện lên không hề xa cách mà rất gần gũi, có cảm xúc và hành xử như con người – như Hổ Thần vừa kiểm nghiệm đạo đức vừa ban thưởng công bằng.

   Những nhân vật thường không hành động theo logic quyền lực mà theo chuẩn mực đạo đức: kiên trì, trung thực, giàu lòng bao dung và dũng cảm. Truyện Chàng trai nghiện cờ bạc và người vợ kiên trì không ca ngợi chiến thắng vật chất mà tôn vinh sự tha thứ và nghị lực. Truyện Người Pà Thẻn học làm thầy lại khẳng định giá trị của học trò nghèo nhưng có chí lớn, học bằng trí nhớ và lòng thành. Ngay cả loài ruồi – một sinh vật bé nhỏ cũng trở thành nhân vật chỉ đường diệt yêu trong truyện Yêu quái, cho thấy mọi vật đều có thể trở thành chủ thể huyền thoại nếu gắn với tâm thức cộng đồng.

   Tóm lại, thế giới nhân vật trong truyện dân gian người Pà Thẻn không đồ sộ nhưng có chiều sâu, là nơi phản chiếu triết lý sống, đạo đức cộng đồng và niềm tin vạn vật hữu linh. Họ là những tấm gương đạo lý sống động, thể hiện sự gắn bó giữa người - vật - thần, giữa hiện thực và tín ngưỡng, giữa cá nhân và cộng đồng, đã làm nên một nền văn học dân gian giàu bản sắc, nhân văn và đầy sức sống.

   Truyện dân gian của các DTTS Việt Nam nói chung và cộng đồng người Pà Thẻn nói riêng là một bộ phận đặc biệt quan trọng trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Trong mối quan hệ với văn hóa tộc người, truyện dân gian không chỉ là phương tiện giải trí hay truyền miệng đơn thuần mà còn là nơi lưu giữ, phản ánh và truyền tải những giá trị cốt lõi của bản sắc văn hóa dân tộc. Qua các thể loại thần thoại, truyền thuyết, cổ tích..., truyện dân gian trở thành phương thức phản ánh tri thức bản địa, thế giới quan, nhân sinh quan và quan niệm đạo đức, tín ngưỡng của từng cộng đồng. Đối với các DTTS, nơi chữ viết không phổ biến, thì truyện dân gian lại càng trở thành “bộ ký ức sống” của cả cộng đồng.

   Đối với người Pà Thẻn thì truyện dân gian là không gian tinh thần nuôi dưỡng và gìn giữ cốt lõi văn hóa tộc người. Các phương diện nội dung như: lý giải hiện tượng tự nhiên, nguồn gốc tộc người, sự hình thành chữ viết, phong tục tập quán, đạo lý làm người và thế giới tâm linh... đều được truyền tải sinh động qua truyện kể của người Pà Thẻn. Những câu chuyện như Sự tích con khỉ và nấm đùi gà, Nguồn gốc dân tộc Pà Thẻn, Chữ viết người Pà Thẻn hay Tục cho chó mèo ăn trước không chỉ giúp tái hiện thế giới quan linh thiêng của người Pà Thẻn mà còn là minh chứng rõ ràng về tri thức dân gian, tinh thần nhân văn và đạo đức cộng đồng sâu sắc. Truyện dân gian vì thế không đơn thuần là văn học dân gian mà còn là sợi dây gắn kết các thế hệ, duy trì tính bền vững của văn hóa Pà Thẻn qua thời gian.

   Không chỉ giàu giá trị nội dung, truyện dân gian Pà Thẻn còn thể hiện bản sắc văn hóa qua những phương diện nghệ thuật đặc sắc như: yếu tố kỳ ảo mang đậm tư duy trực quan và niềm tin vạn vật hữu linh; không gian nghệ thuật gần gũi với rừng núi và thiên nhiên thiêng liêng; thế giới nhân vật đặc trưng với hình ảnh người thường - vật thường - thần linh - yêu tinh hòa quyện, phản ánh sâu sắc cách người Pà Thẻn tư duy và ứng xử trong đời sống. Những biểu tượng như rừng sâu, con chó, bếp lửa, ống nứa, giấc mơ đều được kỳ ảo hóa và mang ý nghĩa đạo lý sâu sắc.

   Nhìn chung, truyện dân gian Pà Thẻn là một “di sản sống” đặc biệt, nơi kết tinh hài hòa giữa nội dung văn hóa dân tộc và hình thức nghệ thuật dân gian. Qua mỗi câu chuyện, người Pà Thẻn không chỉ kể lại lịch sử tâm linh mà còn khẳng định bản sắc văn hóa độc đáo trong cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam. Việc bảo tồn, nghiên cứu và quảng bá giá trị truyện dân gian Pà Thẻn không chỉ góp phần gìn giữ di sản phi vật thể quốc gia mà còn là con đường gìn giữ trí tuệ, đạo lý và tâm hồn dân tộc trong thời đại hội nhập.

 

 

 

Chú thích:
1 Nguyễn Thị Minh Thu, Ngô Thị Thanh Quý, Dương Nguyệt Vân, Nguyễn Hằng Phương (2023), Giáo trình văn học dân gian Việt Nam, NXB. Đại học Thái Nguyên, tr. 74.
2 Tổng Cục thống kê (2020), Tổng điều tra dân số và nhà ở 2019, NXB. Thống kê, tr. 45.
3 Đặng Cường (Tổng hợp, 2021): “Bài nói chuyện tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất”, https://www.qdnd.vn/tu-lieu-ho-so/ngay-naynam-xua/ngay-24-11-1946-bac-ho-noi-gi-ve-vanhoa-tai-hoi-nghi-van-hoa-toan-quoc-lan-thunhat-677875, truy cập ngày 30/4/2025.
4 Nguyễn Khoa Điềm (2005): “Xây dựng một chiến lược quốc gia về văn hoá dân gian trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước”, Nguồn sáng dân gian, số 2.

Bình luận

    Chưa có bình luận