XÃ HỘI HÓA VĂN HỌC VÀ ĐIỆN ẢNH NHÌN TỪ VẤN ĐỀ GIẢI THƯỞNG

Bài viết chỉ ra thực trạng xã hội hóa giải thưởng trong lĩnh vực văn học, điện ảnh tại Việt Nam. Qua đó đánh giá tác động của chủ trương xã hội hóa đến lĩnh vực văn học, điện ảnh; đồng thời nêu ra một số vấn đề cần khắc phục để tiếp tục thực hiện hiệu quả hơn nữa chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn học, nghệ thuật nói chung.

   Xã hội hóa là một chủ trương có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống văn học, nghệ thuật; đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới toàn diện đất nước; góp phần tạo thêm nguồn lực, động lực, không gian sáng tạo. Xã hội hóa đã tạo ra sự chủ động và những luồng sinh khí mới, diện mạo mới cho đời sống văn học, nghệ thuật nước nhà. Lực lượng xã hội tham gia các hoạt động văn học, nghệ thuật ngày một đông đảo hơn trước; tiềm lực và nguồn lực toàn xã hội đã bước đầu được phát huy một cách hiệu quả. Khu vực hoạt động văn học, nghệ thuật ngoài công lập được hình thành, có nhiều đổi mới theo hướng năng động, hiệu quả hơn. Tuy thế, quá trình xã hội hóa ở các lĩnh vực văn học, nghệ thuật diễn ra không giống nhau. Ở một số lĩnh vực, tính thị trường đã lấn át tính nghệ thuật; nghệ thuật đại chúng, bình dân lấn át nghệ thuật đỉnh cao… Bài viết bàn về vấn đề giải thưởng trong lĩnh vực văn học và điện ảnh để qua đó phần nào thấy được mức độ tác động của chủ trương xã hội hóa đến đời sống văn học, nghệ thuật hiện nay.

   1. Đa dạng hóa các nguồn lực trong lĩnh vực giải thưởng

   Trong đời sống văn học, nghệ thuật, giải thưởng là một trong những yếu tố cho thấy sự “định giá” mang ý nghĩa nhất định đối với sự đánh giá các tác phẩm văn học, nghệ thuật. Việc định giá đó góp phần vào định hướng sự phát triển của các sản phẩm nghệ thuật. Với các tác giả, giải thưởng cũng góp phần mang đến cho họ động lực, danh tiếng... Do vậy, có thể coi giải thưởng là một nguồn lực quan trọng cho hoạt động sáng tạo. Giai đoạn hiện tại có thể kể đến một số giải thưởng, tặng thưởng có uy tín như Giải thưởng của Liên hiệp các Hội Văn học, nghệ thuật Việt Nam (trong đó có Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Điện ảnh Việt Nam, Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam), Giải thưởng của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Giải thưởng Sách quốc gia, Tặng thưởng của Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương…

   Với lĩnh vực văn học có thể kể đến những giải thưởng có thời gian tồn tại khá dài như giải của Tạp chí Văn nghệ quân đội, Báo Văn nghệ, Tạp chí Thơ; Giải thưởng Văn học tuổi 20; giải thưởng từ các cuộc thi ở địa phương, từ các cuộc thi hưởng ứng viết về các chủ đề (viết về biên giới, hải đảo của Bộ Quốc phòng; viết về người giáo viên của Bộ Giáo dục và Đào tạo…). Những giải thưởng chính thức này trong một thời gian dài đã góp phần quan trọng xây dựng và củng cố nền văn học, nghệ thuật với những tiêu chí bao quát, có định hướng chính sách rõ rệt. Bên cạnh đó là những giải thưởng có sự tài trợ của các công ty, cá nhân (Giải trẻ Hội Nhà văn Việt Nam, trong lĩnh vực đào tạo còn có những giải thưởng/ tặng thưởng từ các quỹ học bổng như Giải thưởng Lê Đình Kỵ…); thậm chí không ít những giải thưởng được tổ chức và trao tặng trên không gian mạng như các website, Facebook. Cùng với đó, các hoạt động xã hội hóa văn học, nghệ thuật đến từ các sự kiện được đồng hành của nhiều đơn vị, cá nhân như Ngày thơ, Đường sách… cũng cho thấy sự sôi nổi, đa dạng.

   Nhìn chung, xã hội hóa hoạt động văn học, nghệ thuật diễn ra mạnh mẽ ở những khu vực trung tâm, thành phố lớn. Thủ đô Hà Nội là nơi tập trung nhiều di sản văn hóa, các công trình kiến trúc phong phú và đa dạng, là môi trường thuận lợi cho phát triển công nghiệp văn hóa. Các giải thưởng ở khu vực Hà Nội luôn có sự tham gia tích cực của các cá nhân và tổ chức xã hội, tạo được sự quan tâm của đông đảo công chúng. Những năm gần đây, các hoạt động xã hội hóa nhằm huy động nguồn lực từ cộng đồng chung tay đẩy mạnh văn hóa đọc cho tuổi thơ ngày càng lan tỏa1. Ở Thành phố Hồ Chí Minh, theo tác giả Bùi Thanh Truyền - Văn Thành Lê, việc khuyến khích trẻ em và người dân đọc sách được đề cao: “Ngày càng nhiều doanh nghiệp, doanh nhân, các nhà hảo tâm, ngoài sự quan tâm đến đời sống vật chất cho thiếu niên, nhi đồng thông qua các hội nhóm thiện nguyện, còn rất chú trọng đến việc bồi đắp tinh thần, trang bị kiến thức cho những mầm xanh đất nước ở vùng sâu vùng xa, cụ thể là xây dựng các tủ sách, thư viện cộng đồng. Nhiều đơn vị đã chủ động tiếp cận các diễn đàn của các nhóm, hội thiện nguyện, thông qua họ khuyến khích và cổ vũ các doanh nghiệp, doanh nhân quan tâm đến vấn đề phát triển văn hóa đọc cho trẻ em Việt Nam nói chung, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng”2. Đặc biệt, hàng trăm công ty sách, công ty văn hóa tham gia thị trường, là những “bà đỡ” mát tay cho sáng tác thiếu nhi thời gian gần đây.

   Số lượng, hình thức và nguồn giải thưởng ngày càng đa dạng trong điều kiện nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Quan sát những giải thưởng như vậy có thể nhận ra một vài nhóm chính: Thứ nhất, đó là những giải thưởng của các tổ chức gắn với thiết chế quan phương nhưng nhận được sự hỗ trợ tài chính nguồn hoạt động độc lập của đơn vị hoặc từ nguồn tài chính tư nhân. Thứ hai, đó là những giải thưởng hoàn toàn do các đơn vị, công ty tư nhân lập ra theo những tiêu chí riêng hướng đến những nhóm công chúng khác nhau. Thứ ba, những giải thưởng do các cá nhân, nhóm nhỏ lập ra…

   Nếu như sự đa dạng hóa nguồn lực giải thưởng còn chưa thực sự mạnh mẽ trong lĩnh vực văn học do tính chất, quy mô của loại hình thì sự khác biệt đáng kể có thể thấy trong lĩnh vực điện ảnh. Theo đạo diễn Đặng Nhật Minh, “có thể nói trong các lĩnh vực hoạt động văn học, nghệ thuật thì điện ảnh là lĩnh vực đi tiên phong trong việc xã hội hóa… Nhờ được xã hội hóa 100% mà bức tranh điện ảnh ngày nay thật phong phú, đa dạng. Chủ trương xã hội hóa trong điện ảnh đã làm thay đổi đáng kể diện mạo điện ảnh, thúc đẩy cho sự phát triển về số lượng phim sản xuất cũng như phim nhập ngoại đáp ứng nhu cầu giải trí của nhân dân”3… Điều này phần nào đến từ việc sớm có một bộ luật dành riêng cho điện ảnh. Ngoài điện ảnh, tại Việt Nam chưa có một bộ luật riêng nào cho các ngành nghệ thuật khác, kể cả văn học. Việc xây dựng hoàn chỉnh một bộ luật điện ảnh vào năm 2006, hiệu chỉnh nhiều lần sau đó (2009, 2018, 2020, 2022), chứng tỏ không chỉ mức độ quan trọng của điện ảnh như một nghệ thuật có tính chính trị cao mà còn nhấn mạnh vào vai trò phát triển công nghiệp văn hóa từ lĩnh vực điện ảnh. Luật Điện ảnh ngay từ đầu xác nhận tính thương mại của điện ảnh, góp phần giải phóng sức sáng tạo của xã hội.

   Nhằm khuyến khích các nghệ sĩ thông qua tác phẩm, hàng năm Chính phủ cấp kinh phí cho mỗi hội để trao giải thưởng. Trong lĩnh vực điện ảnh, giải thưởng thường niên của Hội Điện ảnh bắt đầu được trao từ năm 1993 như một phần riêng biệt trong các kỳ Liên hoan phim Việt Nam. Giải thưởng được trao vào khoảng tháng ba, cho những tác phẩm điện ảnh sản xuất trong năm trước đó. Năm 2003, Hội Điện ảnh Việt Nam đặt tên cho giải thưởng là Cánh Diều Vàng (hay còn gọi là giải Cánh diều), kết hợp cùng Đài Truyền hình Việt Nam đưa buổi lễ trao giải lên sóng truyền hình trực tiếp với sự hỗ trợ của các doanh nghiệp thông qua quảng cáo. Cùng với Bông Sen Vàng, Cánh Diều Vàng là một trong hai giải thưởng có quy mô lớn và uy tín nhất của nền điện ảnh Việt Nam. Tuy nhiên giải Cánh Diều Vàng chỉ là một giải thưởng mang tính nội bộ nằm trong hệ thống giải thưởng chung của Liên hiệp các Hội Văn học, nghệ thuật Việt Nam4 . Thêm vào đó, ở Việt Nam hiện tại có ba liên hoan phim: Liên hoan phim Quốc tế Hà Nội (HANIFF), Liên hoan phim châu Á - Đà Nẵng (DANAFF) và Liên hoan phim quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh (HIFF). Những giải thưởng từ các liên hoan phim này cũng góp phần đa dạng nguồn lực cho hoạt động điện ảnh trong thời gian gần đây.

   Sự đa dạng hóa nguồn lực giải thưởng trong cả lĩnh vực văn học lẫn điện ảnh phần nào đến từ sự phát triển của thị trường văn học, nghệ thuật, đặc biệt những năm đầu thế kỷ XXI. Sự phát triển này bắt đầu từ sự thay đổi quan trọng về quan niệm đối với chức năng của hoạt động văn học, nghệ thuật. Tại Việt Nam, trước thập niên chín mươi của thế kỷ XX, các hoạt động nghệ thuật hiếm khi được coi là có chức năng giải trí, nếu có thì chỉ mang tính chất phụ. Hiện nay, vấn đề giải trí của ngành công nghiệp văn hóa được đặt ra không chỉ bởi các doanh nhân, những người làm nghề mà còn trong chính các nghị quyết, văn bản hành chính của chính quyền, các thiết chế chính trị và quan phương5. Trước kia, phổ biến mô hình Nhà nước cấp tiền để sản xuất phim phục vụ yêu cầu chính trị. Từ sau thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, nền điện ảnh Việt Nam dần dần hoàn toàn vận hành theo cơ chế thị trường, ở đó các nhà sản xuất phải tự tìm các nhà tài trợ, các nhà đầu tư. Phát biểu trong Lễ Kỷ niệm 70 năm Điện ảnh Cách mạng Việt Nam (15/3/1953 - 15/3/2023), Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tạ Quang Đông cho biết, trong 10 năm trở lại đây, ngành điện ảnh Việt Nam đã kịp thời nắm bắt thời cơ đổi mới và hội nhập quốc tế, tổ chức thực hiện những dự án sản xuất, phát hành phim theo mô hình xã hội hóa; công nghiệp điện ảnh là xu thế phát triển tất yếu ở các nước, là bộ phận quan trọng của công nghiệp văn hóa…

   2. Tác động xã hội của vấn đề xã hội hóa giải thưởng

   Các giải thưởng sẽ có những tác động khác nhau tùy theo từng khu vực, từng lĩnh vực. Điều này trở nên phong phú hơn khi xã hội hóa hệ thống giải thưởng được diễn ra trong điều kiện nền kinh tế càng ngày càng mở, các mối quan hệ xã hội ngày càng đa dạng.

   Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam là một giải thu hút được sự quan tâm đáng kể của người sáng tác và bạn đọc trong cả nước. Tuy thế, nhìn vào giải thưởng có những năm “mất mùa”, đặc biệt là bỏ trống ở thể loại thơ như các năm 2007, 2008, 2009, 2017 và 2018… Khảo sát thực trạng giải thưởng thơ của Hội Nhà văn trong hai mươi năm đầu thế kỷ XXI cho thấy sự mất cân đối đáng kể về giới (số nhà thơ nữ chiếm tỉ lệ 6/43 giải); về thành phần dân tộc (hai nhà thơ được vinh danh là Inrasara – dân tộc Chăm và Y Phương – dân tộc Tày)6. Hiệu ứng xã hội của giải thưởng văn học những năm gần đây cho thấy sự thay đổi đáng kể với sự vào cuộc của những mạnh thường quân đồng hành, tài trợ7. Bên cạnh đó, những sáng tác hưởng ứng các cuộc thi ở nhiều chủ đề, giải thưởng từ các đơn vị báo chí có uy tín cũng làm cho đời sống văn chương sôi động hơn, có thể dẫn ra một số ví dụ tiêu biểu như: Cuộc vận động sáng tác về đề tài biển đảo; Cuộc thi thơ lục bát với chủ đề “Quê hương và Tình yêu” do tập san Áo trắng (NXB. Trẻ) tổ chức đã nhận được 474 bài thơ dự thi, trong đó 134 bài vào vòng sơ khảo; cuộc thi thơ trên Báo Văn nghệ (2019-2020) tạo dư luận mạnh mẽ vì những khen chê xoay quanh chất lượng bài thơ giải B (Mẹ tôi chửi kẻ trộm của Tòng Văn Hân); Giải thưởng thơ của Tạp chí Văn nghệ quân đội thu hút được sự hưởng ứng của đông đảo các tác giả, chọn lựa được những tác phẩm chất lượng tốt (năm 2015-2016 với những tên tuổi nổi bật như Nguyễn Minh Khiêm, Nguyễn Thị Thùy Linh, Nguyễn Quang Hưng, miên di…). Những năm đầu thế kỷ XXI cũng chứng kiến sự sôi động của đời sống văn chương với một số giải thưởng của tư nhân về thơ, văn. Đáng kể đến là Giải thưởng thơ nữ Lá trầu (tác phẩm đoạt giải là Bay lặng im của Trang Thanh) năm 2007; Giải thưởng Bách Việt (tác phẩm được vinh danh là Ma thuật ngón của Trần Tuấn, năm 2008; Một hôm núi khóc của Phạm Phú Hải, năm 2009)… Ở Thành phố Hồ Chí Minh, theo PGS. TS Nguyễn Thành Thi, cuộc thi “Văn học tuổi 20” hội tụ nhiều biểu hiện của tinh thần xã hội hóa hoạt động văn học, nghệ thuật trong khoảng vài chục năm nay. Cuộc thi “Văn học tuổi 20” do Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh, Báo Tuổi trẻ, Nhà xuất bản Trẻ phối hợp tổ chức, lần thứ nhất bắt đầu từ năm 1994; nhận được hưởng ứng rộng rãi, gặt hái những thành tựu đáng khích lệ và ngày càng có sức lan tỏa mạnh mẽ, khẳng định tính hiệu quả và uy tín trên văn đàn: “Sáu kỳ thi, sáu lần trao giải, các giải thưởng được trao được xã hội chấp nhận, chưa hề gây điều tiếng đáng tiếc nào. Số tác phẩm được in và được giải trong sáu lần tổ chức đã trở thành vốn quý vừa để góp vào tủ sách văn học Việt Nam, vừa để bán trên thị trường như một nguồn hàng bảo đảm chất lượng. Đó là một đóng góp không nhỏ của cuộc thi vào đời sống tinh thần của bạn đọc yêu văn chương và vào việc phát triển kinh doanh của nhà xuất bản”8.

   Xã hội hóa giải thưởng còn góp phần đưa sáng tác văn học, nghệ thuật Việt Nam vượt khỏi biên giới quốc gia, tiêu biểu với trường hợp Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 của nhà văn Trần Mai Hạnh. Cuốn tiểu thuyết là một ví dụ cho việc xuất bản theo mô hình xã hội hóa. Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 được in và tái bản nhiều lần theo cơ chế xã hội hóa, được vinh danh tại Giải thưởng Văn học năm 2014 của Hội Nhà văn Việt Nam, Giải thưởng Văn học năm 2015 của các nước Đông Nam Á (ASEAN). Qua sự thành công của hiện tượng Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 cho thấy: thứ nhất là vai trò quan trọng của xuất bản theo cơ chế xã hội hóa trong điều kiện mới; thứ hai là quá trình xã hội hóa xuất bản, sự chủ động của cá nhân có thể giúp tác phẩm đến với công chúng quốc tế (tác phẩm đã được dịch ra tiếng Anh, tiếng Lào, tiếng Tây Ban Nha).

   Dù hoạt động xã hội hóa có sự chưa cân đối ở các vùng miền nhưng việc những khu vực “ít người” có những chuyển động tích cực, mang đến tín hiệu đáng mừng (như ở khu vực Tây Nguyên với hoạt động ra mắt sách thường xuyên do tác giả và nhà xuất bản đồng tổ chức tại các tỉnh Gia Lai, Kon Tum…). Ở miền núi phía Bắc, chủ trương xã hội hóa văn học, nghệ thuật tại các tỉnh được đẩy mạnh và bước đầu thu được những kết quả đáng khích lệ. Tại Hà Giang, nhiều năm qua, Hội Văn học, nghệ thuật tỉnh đã có những liên kết với ngành nông nghiệp sáng tác về chủ đề “Xây dựng nông thôn mới” trong 2 năm liền với nhiều thể loại, kinh phí do ngành nông nghiệp đầu tư; liên kết với Sở Giáo dục, Hội Khuyến học, Hội Cựu giáo chức tổ chức cuộc thi sáng tác ca khúc chủ đề “Trường của chúng em”; liên kết với Hội Nạn nhân chất độc da cam tổ chức cuộc thi viết về “Gương nạn nhân chất độc da cam vươn lên trong cuộc sống”, từ kinh phí do nhân dân ủng hộ nạn nhân chất độc da cam9… Hay như ở Yên Bái những năm gần đây, Hội Liên hiệp Văn học, nghệ thuật tỉnh đã có một số chương trình phối hợp với các ngành, các địa phương để tận dụng nguồn hỗ trợ kinh phí từ các đơn vị như: phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo mở cuộc thi viết về giáo dục; phối hợp với Sở Lao động Thương binh và Xã hội mở cuộc thi viết về thương binh liệt sĩ; phối hợp với thị xã Nghĩa Lộ mở cuộc thi viết về Mường Lò - Nghĩa Lộ; phối hợp với thành phố Yên Bái mở cuộc thi chủ đề “Thành phố Yên Bái hướng tới đô thị loại II”; phối hợp với Hội Văn học, nghệ thuật các tỉnh Lào Cai, Phú Thọ tổ chức cuộc thi viết truyện ngắn trên tạp chí 3 tỉnh; phối hợp với ngành kiểm lâm tổ chức cuộc thi ảnh “Rừng xanh yêu thương”10

   Trong lĩnh vực điện ảnh, tác động của vấn đề giải thưởng từ nguồn lực xã hội hóa còn diễn ra sôi động và mạnh mẽ hơn nhiều. Hệ thống giải thưởng mang tính cạnh tranh đã tạo ra cơ hội phát triển du lịch, quảng bá văn hóa địa phương một cách hữu hiệu. Cùng với Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, ngày càng có nhiều địa phương mong muốn phát huy tiềm năng, thế mạnh của điện ảnh trong quảng bá và phát triển công nghiệp văn hóa. Luật Điện ảnh sửa đổi có hiệu lực từ ngày 1/1/2023 cho phép các địa phương, thành phố tổ chức liên hoan phim, tuần lễ phim, miễn không trùng lặp với Liên hoan phim quốc gia và Liên hoan phim quốc tế Hà Nội. Chẳng hạn lễ trao giải Cánh Diều 2024 được tổ chức tại thành phố Nha Trang đánh dấu ba năm liên tiếp Nha Trang đứng ra đăng cai sự kiện này với mong muốn trở thành “một thành phố điện ảnh”. Trong khi đó, hai liên hoan phim quan trọng là DANAFF và HANIFF lại có những lựa chọn khác khi ghi lại những dấu ấn quan trọng về mặt địa danh văn hóa, đi cùng đó là bản sắc vùng. Bắt đầu từ năm 2010, với sự kết hợp của Cục Điện ảnh (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) và Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố Hà Nội, Liên hoan phim quốc tế Hà Nội (HANIFF) được tổ chức định kỳ 2 năm/ lần. Liên hoan phim DANAFF được tổ chức từ năm 2023, nhận được sự bảo trợ của Ủy ban nhân dân Thành phố Đà Nẵng, sự phối hợp tổ chức của Hiệp hội Xúc tiến phát triển Điện ảnh Việt Nam (VFDA), Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố Đà Nẵng và nhất là Mạng lưới khuyến khích Điện ảnh châu Á (Network for the Promotion of Asian Cinema/ NETPAC) cùng các đơn vị, tổ chức Việt Nam và quốc tế. Các bộ phim tham gia liên hoan được chọn lọc từ nhiều nền điện ảnh đem đến cho khán giả những trải nghiệm mới mẻ, ấn tượng… Tuy thế, câu chuyện đặt ra là cần phải nâng cao chất lượng của mỗi liên hoan phim, mỗi giải thưởng đi cùng, như cách đề xuất của đạo diễn Nguyễn Hoàng Điệp: “Ban tổ chức luôn phải có trách nhiệm với công chúng, với nhà đầu tư, tức là tổ chức một Liên hoan phim có hiệu quả và có khả năng đi tiếp trong nhiều năm sau. Cũng không nên nghĩ rằng tổ chức Liên hoan phim là phải chọn thành phố lớn, được ưu đãi về đầu tư trong chiến lược văn hóa; thay vào đó, nên có sự đa dạng và cởi mở, ở đâu có công chúng thì tổ chức Liên hoan phim ở đó”11. Sự phong phú của các hoạt động trong liên hoan phim gắn với nhiều hạng mục giải thưởng là kết quả của quá trình xã hội hóa sâu rộng đối với lĩnh vực điện ảnh. Trước đó, một phần do chất lượng, phần nữa do hiệu ứng mờ nhạt của các giải thưởng đã tạo nên tình trạng đơn điệu và nhàm chán, không khuyến khích các nhà sản xuất, các tác giả đạo diễn tham gia. Thực trạng đó có nguyên nhân từ hai yếu tố: sự hạn hẹp của kinh phí nhà nước trong các hoạt động văn hóa; sự chặt chẽ của các tiêu chí đánh giá xếp loại giải thưởng do một nhà tổ chức thực hiện. Nhà sản xuất Nguyễn Cao Tùng nhận định: “Với hai giải thưởng điện ảnh Cánh Diều và Bông Sen, chúng tôi gần như chỉ phân biệt đây là 2 giải thưởng điện ảnh toàn quốc của 2 đơn vị chủ quản tổ chức khác nhau chứ không hề phân biệt được bản sắc, nét đặc trưng” và nêu lên kinh nghiệm của các nước trong việc tổ chức Liên hoan phim và giải thưởng điện ảnh là phải đầu tư vào một ban giám khảo có chất lượng chuyên môn, công tâm, nhất quán và trung thành với tiêu chí đánh giá xếp hạng để tránh điều tiếng xung quanh các giải thưởng; đồng thời công tác tổ chức, quảng bá, truyền thông phải tốt hơn, chuyên nghiệp hơn để thu hút sự quan tâm của đại chúng, thay vì chỉ là anh em trong nghề “đóng cửa bảo nhau”12

   Sự đa dạng của giải thưởng được xã hội hóa còn góp phần gắn kết các lĩnh vực văn học, nghệ thuật lại với nhau. Chủ trương xã hội hóa góp phần mang lại những cơ hội sáng tạo cho các nghệ sĩ và mở rộng chiều kích cũng như tạo ra một đời sống mới cho những tác phẩm nghệ thuật. Chúng tôi xem xét một ví dụ là việc dịch chuyển loại hình nghệ thuật từ văn học sang phim ảnh với trường hợp Đàn trời13. Tác phẩm xoay quanh cuộc đấu tranh của các nhà báo với lực lượng doanh nghiệp và quan chức tỉnh trong âm mưu móc nối chiếm đoạt tài sản, rút ruột công trình trong khi triển khai Chương trình 135. Với lợi thế am hiểu môi trường làm báo với hơn 20 năm công tác, nhà văn Cao Duy Sơn cho thấy một sự vững vàng trong việc làm chủ những chất liệu được khai thác từ trải nghiệm cá nhân và hiện thực cuộc sống miền núi quê ông. Cuốn tiểu thuyết được chuyển thể thành phim truyền hình cùng tên vào năm 201214. Tiểu thuyết Đàn trời được trao giải A của Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam năm 2007. Bộ phim Đàn trời đoạt giải Vàng tại Liên hoan Truyền hình toàn quốc lần thứ 32. Cả hai giải thưởng này đều nằm trong hệ thống giải chính thức nhưng giải thưởng phim truyền hình là giải thưởng đã được xã hội hóa với sự tham dự tài trợ của nhiều công ty và doanh nghiệp tư nhân. Hơn nữa, bộ phim chuyển thể còn được lựa chọn phát vào khung giờ vàng trên VTV1 cho thấy sức hút của tác phẩm với công chúng. Điều này góp phần khẳng định sự đúng đắn của quá trình xã hội hóa khi huy động sự tham dự của nhiều thành phần kinh tế và văn hóa để tạo nên những hiệu ứng xã hội đáng kể.

   Có thể thấy, xã hội hóa được triển khai hợp lý sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển hoạt động văn học, nghệ thuật trong bối cảnh hiện nay. Trong đó, giải thưởng là một trong những nhân tố tác động đến mọi mặt của đời sống văn học, nghệ thuật, từ người sáng tác đến người đọc, nhà phê bình. Bên cạnh sự kịp thời của chủ trương, kết quả đáng kể của quá trình thực hiện, hoạt động xã hội hóa văn học, nghệ thuật cần sự đầu tư, hỗ trợ đa dạng chứ không chỉ tập trung vào một số lĩnh vực có khả năng lan tỏa lớn như điện ảnh...; đồng thời cần chú ý tới khu vực nông thôn, miền núi. Những khu vực này đặc biệt đòi hỏi các cấp có liên quan phải có đội ngũ cán bộ giỏi, am hiểu sâu sắc về đặc thù văn học, nghệ thuật từng nơi, từng loại hình trong quá trình thực hiện. Việc giải bài toán về lợi ích đối với những “nhà đầu tư” cũng cần được tính đến cặn kẽ hơn nữa như: tạo không gian thuận lợi, một số ưu đãi và hỗ trợ thiết thực, thủ tục thực hiện giản tiện… Do đó, việc đổi mới chính sách để thu hút sự đầu tư của các doanh nghiệp cho văn học, nghệ thuật là hết sức cần thiết. Cùng với đó, các hội văn học, nghệ thuật cần phát huy vai trò tích cực hơn nữa trong việc thực hiện các chương trình, dự án phối hợp với tổ chức, cá nhân để huy động hiệu quả các nguồn lực dành cho văn học, nghệ thuật.

   Từ khi ra đời cho đến nay, sự đóng góp có hiệu quả của các tổ chức văn hóa, văn nghệ tư nhân; tính hiệu quả, sức lan tỏa của các hoạt động, trong đó có các giải thưởng về văn học, nghệ thuật là những minh chứng cho tính ưu việt của chủ trương xã hội hóa. Đây là chiếc chìa khóa mở cánh cửa cho văn học, nghệ thuật phát triển khi đất nước bước vào thời kỳ kinh tế thị trường. Nhìn từ giải thưởng nói riêng, hoạt động xã hội hóa nói chung có thể thấy rất cần có những giải pháp về nguồn lực, cơ chế, chính sách cụ thể hơn nữa để góp phần tạo ra cú hích cho sáng tạo văn học, nghệ thuật trong bối cảnh hiện nay.

 

 

 

 

Chú thích:
1 Tiêu biểu có thể kể đến Giải thưởng Thiếu nhi Dế Mèn. Đây là giải thưởng thường niên bắt đầu từ năm 2020 do Báo Thể thao và Văn hóa tổ chức nhằm trao cho các sáng tác, trình diễn nghệ thuật xuất sắc “của thiếu nhi” (thiếu nhi là chủ thể sáng tạo) hoặc “vì thiếu nhi” (thiếu nhi là đối tượng phục vụ).
2, 3, 8, 9, 10 Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương (2019), Quá trình xã hội hóa các hoạt động văn học, nghệ thuật ở Việt Nam, NXB. Chính trị quốc gia - Sự thật, tr. 595, 375-376, 247, 499, 510.
4 Từ năm 2005, giải Cánh Diều Bạc và Cánh Diều Đồng bị bỏ bớt. Đến năm 2006, giải Cánh Diều Bạc được khôi phục và hạng mục Bằng khen thay cho Cánh Diều Đồng. Năm 2007, Hội Điện ảnh Việt Nam trao tặng thêm giải Cánh Diều Bạc và hai giải phụ là Giải phim phục vụ khán giả đông nhất và Giải phim bán được nhiều vé nhất. Cùng với những giải thưởng này còn có các giải thưởng nằm trong chương trình liên hoan phim không lấy từ nguồn kinh phí nhà nước.
5 Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã xác định phát triển công nghiệp văn hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng, Thủ tướng ra Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 8/9/2016 về “Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”…
6 Những số liệu, thông tin được chúng tôi thống kê từ công trình Nhà văn Việt Nam hiện đại (in lần thứ V), NXB. Hội Nhà văn, 2020.
7 Giải tác giả Trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam nằm trong hệ thống giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam trao cho những tác giả dưới 35 tuổi. Trong Thể lệ công bố, đáng chú ý là dòng ghi chú: “THACO hân hạnh đồng hành cùng văn học trẻ Việt Nam”. Xem thêm: “Thể lệ Giải thưởng Tác giả Trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam”, nguồn: http://vanvn.vn.
11, 12 https://hanoimoi.vn/co-hoi-dinh-danh-diemden-bang-giai-thuong-dien-anh-tim-ban-saccho-moi-lien-hoan-phim-giai-thuong-dienanh-677345.html.
13 Cuốn tiểu thuyết của Cao Duy Sơn do NXB. Hội Nhà văn ấn hành lần đầu năm 2006.
14 Bộ phim do Trung tâm sản xuất Phim truyền hình Đài Truyền hình Việt Nam VFC sản xuất, đạo diễn Bùi Huy Thuần, biên kịch Phạm Ngọc Tiến, với độ dài 36 tập, phát sóng khung giờ vàng trên kênh VTV1 từ ngày 18/4/2012. Phim có sự góp mặt của dàn diễn viên gạo cội: NSND. Hoàng Dũng vai Đinh Xuân Ấn - Chủ tịch tỉnh, NSND. Anh Tú vai Tuệ - Giám đốc đài phát thanh, NSND. Trung Anh vai Vương, NSƯT. Sỹ Tiến vai Thức, NSƯT. Tiến Mộc vai ông Mạc - bố nuôi của Thức, NSƯT. Lệ Thu vai Diệu, NSƯT. Diệu Thuần vai Sắn Pì…

Bình luận

    Chưa có bình luận