Mặc dù văn hóa nhân bản trong thế giới Á Đông nói chung, Việt Nam nói riêng đã được nhiều học giả, nhà nghiên cứu đề cập. Tuy nhiên, những giá trị này được thể hiện rất khác nhau dưới các góc tiếp cận của mỗi tác giả. Trong quá trình nghiên cứu sâu về vấn đề này, chúng tôi nhận thấy Nguyễn Văn Dũng là một nhà văn có nhiều điểm mới trong nhận thức, triển khai và ứng dụng những giá trị văn hóa nhân bản vào cuộc sống xã hội. Bài viết nghiên cứu những nét đặc sắc trong văn hóa Việt Nam qua các tác phẩm văn học của tác giả Nguyễn Văn Dũng. Với cách nhìn sâu sắc mà đầy tính nhân văn của một nhà văn có lối viết thâm trầm, sinh động và ngôn ngữ đa màu sắc, của một nhà giáo hết lòng với học trò, của một võ sư mang tâm hồn và tính cách võ sĩ đạo… tác giả đã khắc họa nên một “tấm lòng” với quê hương đất nước, với con người Việt Nam. Mỗi câu chuyện đều là những đúc kết, những bài học có giá trị văn hóa và nhân văn sâu sắc mà tác giả đã thể hiện trên từng con chữ. Theo chúng tôi, “văn hóa nhân bản” là nhân cách, tư cách tốt đẹp của con người phù hợp với văn hóa truyền thống của dân tộc.
Nói về tác giả Nguyễn Văn Dũng, trong “Lời tựa” cuốn Linh Sơn mây trắng, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khẳng định chất uyên bác trong bút ký của ông khi so sánh với bút ký của một số nhà văn nổi tiếng: “… những nhà văn viết bút ký của Huế đã tạo ra một thể loại văn học đáng tin cậy, ấy là chất huyên náo, khúc chiết của Thái Kim Lan, chất hóm hỉnh, hài hước của Trần Kiêm Đoàn, chất trí tuệ, minh triết của Nguyễn Tường Bách, chất sâu nặng của Nguyễn Xuân Dũng, nay thêm chất uyên bác trong tác phẩm du ký của Nguyễn Văn Dũng. Họ đã tạo nên một dòng chảy mạnh mẽ đầy sức sống của thể loại bút ký”1, “… tập du ký chuyển tải đến cho chúng ta thông điệp về “đạo”, giúp mỗi người tự hoàn thiện bản thân mình”2. Đây cũng là thông điệp xuyên suốt nhiều tập bút ký của nhà văn Nguyễn Văn Dũng, làm nên nét đặc trưng riêng của ông, của một người có “tâm văn hóa”, đặc biệt là văn hóa nhân bản.
Nhà văn Nguyễn Khắc Phê – Giải thưởng Nhà nước về văn học, nghệ thuật năm 2012 – đã trả lời một cách dứt khoát cho câu hỏi: “Trong thể loại văn học bút ký – tùy bút, ở Việt Nam, sau cụ Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường thì nên đọc ai?”, rằng: “Đó là Võ sư Nguyễn Văn Dũng”3. Khi chưa biết Võ sư Nguyễn Văn Dũng vốn là một giáo viên dạy văn, Nguyễn Khắc Phê đã viết: “Chà! Dạy võ mà văn chương trữ tình óng mượt như nhung như gấm thế này…”4 và nhận xét: “… những bài bút ký của ông vừa có “văn”, vừa đầy chất trí tuệ và không thiếu những suy ngẫm triết lý”5. Những triết lý văn hóa nhân bản đã được Nguyễn Văn Dũng gửi gắm trong từng câu chữ, từng câu chuyện mà ông tâm huyết viết ra.
Nguyễn Văn Dũng sinh năm 1941 tại Thừa Thiên - Huế. Ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm, có thời gian dài giảng dạy tại ngôi trường Quốc học Huế danh tiếng. Ông cũng nguyên là một cán bộ phụ trách văn - thể - mĩ của Sở Giáo dục và Đào tạo Thừa Thiên - Huế. Sau khi về hưu, ông tiếp tục giảng dạy tại Trường Đại học Dân lập Phú Xuân. Ông đã xuất bản nhiều tập bút ký từ năm 2006 đến 2022. Niềm đam mê viết được ông tích lũy dần qua năm tháng. Mặc dù trước đó ông đã được đông đảo bạn đọc yêu thích với những “bút ký trên mọi nẻo đường” xuất hiện đều đặn trên mục văn hóa của nhiều tờ báo trung ương và địa phương, nhưng mọi người biết đến Nguyễn Văn Dũng là một võ sư nhiều hơn với vai trò nhà giáo và nhà văn hóa, cho đến khi ông xuất bản tập bút ký đầu tiên. Nguyễn Văn Dũng là Trưởng tràng hệ phái Suzucho Karatedo Việt Nam nên đồng thời với việc xuất bản các tập bút ký, ông cũng xuất bản nhiều sách chuyên môn về karate. Bút ký đã xuất bản của ông bao gồm: Linh Sơn mây trắng (2006), Đi tìm ngọn núi thiêng (2012), Lời tự tình của một dòng sông (2013), Trò chuyện với môn sinh (4 tập, năm 2014), Tâm thức núi (2 tập, 2015), Võ đường là trường học (2020) và Nhớ con sông quê nhà (2022).
Sinh ra và lớn lên ở Huế, ta có thể thấy rõ cái tôi trữ tình, sự nhạy cảm trước con người và vạn vật, cảm xúc tinh tế, sâu lắng, đặc biệt là khả năng biểu đạt ngôn từ hết sức sâu sắc, phong phú của ông. Chúng tôi nhận ra rằng điểm nổi bật trong các tác phẩm của Nguyễn Văn Dũng là ông luôn chú ý đến giáo dục văn hóa nhân bản. Vốn là một nhà giáo dạy văn, lại mang trong mình tinh thần võ sĩ đạo và “nguyên tắc hoa anh đào” mọi nơi mọi lúc, văn của ông vừa trữ tình vừa uyên bác, vừa đậm chất nhân văn vừa hướng con người đến những điều tốt đẹp.
Mỗi nhà văn có những tiêu chí riêng cho ngòi bút của mình. Nguyễn Văn Dũng cũng vậy. Ngoài những tác phẩm chuyên sâu về karate, ngòi bút của ông khắc họa dấu chân trên mọi nẻo đường và cùng với những dấu chân ấy là cuộc sống luôn tươi đẹp, đáng sống với vô vàn những triết lý nhân sinh, những bài học đối nhân xử thế, đối đãi với mình, với người, với thiên nhiên…; cùng với những dấu chân ấy cũng là những tâm huyết đau đáu về quê hương đất nước, là những đóng góp thực sự có ý nghĩa tích cực và thực tế cho xã hội hiện tại.
Hoàng Phủ Ngọc Tường viết: “Nguyễn Văn Dũng còn là một võ sư, là thầy của nhiều thế hệ thầy. Nhưng nếu cần dùng đến ý niệm học trò thì mỗi nhà văn là học trò của đóa hoa anh đào trên những nẻo đường nhân loại mùa xuân. Nguyễn Văn Dũng từng tìm đến tận quê hương của hoa anh đào để học tập lẽ sống của Đông Phương, và vì thế tập du ký này còn chuyển tải đến cho chúng ta thông điệp về đạo, giúp mỗi người tự hoàn thiện bản thân mình”, “cuộc hành trình tìm về với những di sản văn hóa của Nguyễn Văn Dũng thật sự là một hành động dấn thân. Có thể nói đi là giai đoạn tiền bút ký, và chúng ta biết rằng anh đã dành nhiều công phu để cống hiến cho cuộc đời những trang văn học này”6. Những nhận định ấy cho thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường đã công nhận giá trị các tác phẩm văn học của Nguyễn Văn Dũng có khả năng dẫn dắt cuộc sống khi đưa ra những thông điệp đạo đức giúp con người hoàn thiện mình. Hơn thế, cái tâm văn hóa nhân bản của Nguyễn Văn Dũng đang hằng ngày, hằng giờ lan tỏa những điều nhân ái đến với xã hội từ các môn đồ của ông. Đến thời điểm này, ông đã có hàng triệu môn đồ trên khắp thế giới. Trong số đó, nhiều cao đồ là những nhân sĩ trí thức trong nhiều lĩnh vực, những giáo sư, bác sĩ, kỹ sư, nhà khoa học… đang cùng ông trao truyền những giá trị văn hóa nhân bản.
Bài viết của chúng tôi tập trung vào hai vấn đề chính: thứ nhất là triết lý đối nhân xử thế gắn liền với thực tiễn cuộc sống, là mối quan hệ kết nối giữa con người với chính mình, con người với tha nhân; thứ hai là triết lý ứng xử với thiên nhiên bằng những hành động thiết thực. Những vấn đề này đã có nhiều người nghiên cứu, tuy nhiên dưới góc nhìn của Nguyễn Văn Dũng, mọi thứ dường như sống động, gần gũi và gắn bó với cuộc sống đời thường hơn. Điều mới ở ông chính là những ứng dụng thực tế từ những quan điểm triết lý đã tồn tại lâu đời.
1. Triết lý đối nhân xử thế
Đối nhân xử thế là cách mỗi người đối xử với những người xung quanh mình. Người có cách đối nhân xử thế một cách chuẩn mực, văn minh, lịch sự, hợp tình, hợp lý là người được mọi người yêu quý và thành công trong mọi mối quan hệ xã hội. Có thể nói đối nhân xử thế là văn hóa. Trong đối nhân xử thế và những nguyên tắc đạo đức truyền thống Việt Nam, ai cũng biết “ngũ thường” với những nghĩa phổ quát nhất, nhưng chúng tôi nhận thấy, ở Nguyễn Văn Dũng, từ trong tâm thức của ông, sự lan tỏa mạnh mẽ những giá trị nhân bản của “ngũ thường” lại gắn liền với thực tế cuộc sống.
Các giá trị văn hóa nhân bản có giá trị trường tồn được đúc kết thành những triết lý rất rõ ràng. Đầu tiên là cách con người ứng xử với bản thân. Khi “Trò chuyện với môn sinh”7, Nguyễn Văn Dũng cho chúng ta thấy được bài học về sự nhìn lại mình. Ông cho rằng chỉ những ai tự nhìn được bản thân mới nhìn rõ được người. Tiếp đến là những chi tiết rất nhỏ tạo thói quen tốt cho môn sinh. Trước khi dạy học, dù là văn hay võ, ông luôn chú trọng chữ Lễ. Ông phát biểu trong một bài phỏng vấn: “… Lễ, vốn là yếu tố giúp người ta sống với nhau cho tử tế hơn, văn minh lịch sự hơn. Đơn giản thôi, tôi bắt các em luôn luôn thuộc bốn từ sau: Xin chào! Xin cám ơn! Xin vui lòng! Xin lỗi! Đó chính là bốn từ mà ở các nước văn minh, người ta dùng hằng ngày trong các mối quan hệ”8, “Trong thời đại giao lưu hội nhập, nếu không cùng tần số thì làm sao chúng ta có thể sống và làm ăn với họ? Tôi cũng dạy cho các em hiểu mình, tự tin, khả năng tập trung tinh thần, có ý chí vượt khó, có tinh thần ham học hỏi, kỷ luật, đoàn kết, nhân ái, yêu thương, tôn trọng người khác, có hoài bão, có bản lĩnh để không bị lôi cuốn bởi những cám dỗ tầm thường… Tất cả, không phải bằng con đường rao giảng đạo đức khô khan, mà bằng quá trình rèn luyện trong một “lò” luyện cực kỳ nghiêm khắc”9. Cũng những đức tính và thói quen tốt này, chúng ta có thể tìm thấy trong Cơ sở triết lý nhân bản của Nguyễn Vinh Sơn khi ông đề cập đến 12 giá trị sống10.
Nguyễn Văn Dũng khi nêu những quan niệm triết lý nhân sinh của mình cũng luôn đề cao quan niệm này. Ông kể về người thầy thời thơ ấu của mình với lòng biết ơn về cái “tâm văn hóa” mà thầy đã truyền cho ông, đã giúp ông đứng vững trước cuộc đời giông bão. Một cách rất giản dị, Nguyễn Văn Dũng đề cao lòng biết ơn – giá trị cao nhất của đạo đức – qua bút ký Người Thầy đầu tiên nằm trong tập bút ký thứ ba Lời tự tình của một dòng sông. Đó là người thầy có ảnh hưởng chính đến cả cuộc đời ông, như ông đã viết: “Cha (Thầy là một Cha xứ) là người đã ảnh hưởng quyết định đến tính cách, nhân cách, phong cách, và số phận cuộc đời tôi”11. Sự kết nối thầy - trò từ người thầy đầu tiên, người thầy đến lập trường và khai mở văn minh cho một làng quê nhỏ, truyền thụ tình yêu thương và kiến thức cho đám trẻ, “… với cha, dạy học không có nghĩa là dạy chữ mà chính là dạy đạo làm người”, “… bất cứ lúc nào có thể cha đều tranh thủ cung cấp cho chúng tôi những quy tắc cơ bản để làm người. Từ những việc nhỏ như cách gõ cửa, khép cửa, cách xì mũi, cách nhổ nước bọt, cách ăn, cách nhai… đến những việc lớn hơn như cách chào hỏi, cách bắt tay, cách góp ý với người trên, cách phê bình người dưới, cách đi, cách đứng, cách ngồi, cách nhìn… và cả những lời mà người có giáo dục không thể không luôn treo sẵn trên môi như xin lỗi, xin cảm ơn, xin vui lòng…”12. Từ những chi tiết, thói quen rất nhỏ trong cuộc sống, ông đã “kiến tạo” cho cuộc đời biết bao nhân cách. Dạy đạo làm người là điều ông nhận được từ thầy và cả cuộc đời làm thầy của mình, ông cũng cố gắng hết sức để dạy học trò làm người. Sự kết nối thầy trò từ lòng biết ơn như một mối liên hệ bền chặt và có tính lưu truyền mạnh mẽ được Nguyễn Văn Dũng tiếp thụ trọn vẹn và tiếp tục truyền dạy đến đông đảo học trò của mình trên khắp thế giới. Cao hơn sự kết nối thầy trò ấy là sự kết nối của quá khứ và tương lai, sự kết nối của văn học và đời sống, sự kết nối giữa những nguyên tắc đạo đức truyền thống và việc thực hành những triết lý sống đẹp.
Cũng cần nhấn mạnh, hiện ông có hàng triệu môn sinh trên khắp thế giới. Các môn sinh ấy nhận được sự kết nối thầy - trò từ ông, nhận từ ông giá trị văn hóa nhân bản, hằng ngày trao truyền giá trị ấy đến với xã hội bằng những thực hành nghiêm cẩn. Các tác phẩm của ông đã chứng minh văn học chính là cuộc sống và văn chương mang tính dẫn đường.
Linh Sơn mây trắng là tác phẩm văn chương đầu tiên của Nguyễn Văn Dũng, gồm 28 bút ký “… là kết quả của hành trình thâm nhập thực tế, ghi chép, nghiền ngẫm, bình giá với tư cách người ham biết, ham bình, ham đặt vấn đề…”, ông “… soi chiếu, bình luận, so sánh, đối lập trong từng sự kiện, vấn đề, từng con người, cảnh vật13… Trong con mắt của ông, cái tâm an lạc là quan trọng nhất: “Tôi cố giữ lòng bình thản, mở rộng cái tâm văn hóa, cái gì tràn vào được thì vào, cái gì không thì thôi, chứ không để cho lòng tín thành tôn giáo chi phối cảm xúc… Trong trạng thái lâng lâng khinh khoái, tôi nghe tiếng chim hót trên cành, rất nhiều tiếng chim – rộn ràng như bản hoan ca; và một cảm giác mới mẻ, dịu dàng, chan chứa, tràn ngập làm thân tâm tôi an lạc lạ thường…”14 và “Tôi nhận ra đó là nụ cười của cái tâm an lạc… Và tôi thầm nghĩ, khi tâm ta an lạc bởi nguồn lực tâm linh chiếu rọi thì lòng ta cũng tràn ngập ánh sáng của tình yêu thương con người, cuộc sống, muôn loài, cỏ cây hoa lá”15 (Theo đoàn hành hương đất Phật). Để đạt được cái tâm an lạc ấy, con người phải trải qua những rèn luyện khổ công để hướng đến chữ “nhân”, chữ “nghĩa”, chữ “trí”. Ông làm gương cho nhân thế, mà trực tiếp là các học trò của mình khi khẳng định bản thân “tràn đầy niềm an lạc và biết ơn”16. Điều này được Đỗ Lai Thúy khẳng định: “Sự phát triển của cá nhân không đối lập mà hỗ trợ cho sự phát triển của xã hội. Chính sự thức tỉnh của ý thức cá nhân đã là một trong những động lực phát triển của văn hóa…”17.
Nếu chữ “trí” trong Từ điển tiếng Việt được định nghĩa là “khả năng nhận thức, suy nghĩ, phán đoán… của con người”18, Nguyễn Vinh Sơn kết luận trí là trí tuệ, thì “trí” ở Nguyễn Văn Dũng không còn đơn thuần là trí tuệ mà còn là “trí huệ”. Phải có cả “trí tuệ” và “trí huệ” mới có được sự tâm đắc đặc biệt với tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi khi ông tìm đến công viên Parc de l’Artillerie ở Québec: “Người ta nói, ở công viên Parc de l’Artillerie có bức tượng cụ Nguyễn Trãi, tôi náo nức muốn được vào thăm. Đó là bức tượng bán thân đặt trên một bệ đá cao, bên cạnh vô số bức tượng của các danh nhân thế giới. Tôi sững sờ và xúc động tưởng như lâu ngày gặp lại người thân. Tự hào thay khi một phần lịch sử dân tộc mình đang có mặt nơi vùng đất xa xôi lạnh giá này… là một vị nhân vật vĩ đại của dân tộc, là một danh nhân văn hóa thế giới. Tôi đặc biệt tâm đắc tư tưởng nhân nghĩa của cụ. Dân là gốc hay quan là gốc? Một câu hỏi suốt chiều dài lịch sử không phải ai cũng trả lời chính xác, vậy mà hơn sáu trăm năm trước, cụ đã khẳng định: đạo trị nước phải lấy dân làm gốc – việc nhân nghĩa cốt ở an dân”19. Ở đây chúng ta nhận thấy có sự kết nối quá khứ và tương lai từ tâm hồn và tư tưởng nhân bản đồng điệu. Dù cách xa đến sáu thế kỷ, hai con người có cùng “tâm văn hóa” vẫn có những sợi dây tâm giao.
Trong Trẻ trung Madrid, ông viết về người Tây Ban Nha: “… họ thể hiện tình yêu và sự chăm chút con cái một cách lặng lẽ, chan chứa, và có hồn”. “Họ cũng rất nghiêm khắc với bản thân, coi trọng cá tính, trọng danh dự, kiêu hãnh và rất tự hào về nơi chôn rau cắt rốn của mình”20. Ông ca ngợi họ nhưng thực ra là một sự soi chiếu và so sánh với sự chăm sóc con cái của người Việt Nam, ngầm đề cao tính cách coi trọng danh dự, cũng kiêu hãnh và đầy tự hào về quê hương đất nước của người Việt Nam. Trong bút ký này, Nguyễn Văn Dũng đã so sánh thanh niên Việt Nam và giới trẻ ở Madrid (Tây Ban Nha). Đó cũng là lời cảnh báo của ông đến giới trẻ Việt Nam, đồng thời chỉ ra điểm yếu của nhiều thanh niên Việt hiện nay: cần phải có đam mê, cần phải thay đổi cái văn hóa nhờ nhờ, nhàn nhạt, thiếu mục đích, ý chí và sự quyết liệt của mình. Ông hào hứng: “Giới trẻ Madrid đam mê, cuồng nhiệt, hết mình… ham học, ham làm, ham ăn, ham chơi, ham mua sắm, ham tiêu xài, ham tốc độ, ham thể hiện, ham yêu…”, rồi nêu thực trạng buồn: “… còn hơn bên mình, khối thanh niên chẳng biết ham gì - sáng cà phê, chiều nhậu nhẹt, khuya về say xỉn; sách không đọc, đầu không nghĩ, tay không làm, yêu chẳng dám, ghét lại sợ,…”21. Cái tâm của một nhà giáo dục trong ông đã đưa ra sự so sánh và cảnh tỉnh thanh niên như vậy. Ở đây cần có “trí” và “dũng” để vượt qua cái cố hữu, trì trệ, bảo thủ, vượt qua chính mình để vươn lên hoàn thiện bản thân, vươn lên trở thành những con người đẹp của xã hội.
Ông là một võ sư có văn. Quan điểm của ông về văn và võ rất rõ ràng: “Người đời hiểu văn và võ là hai khái niệm đối lập nhau. Nhưng xét cho cùng thì không phải thế. Văn và võ đều là một hình thái của văn hóa; và khi đạt đến đỉnh cao của nó thì văn và võ là một. Cả hai đều nhằm đạt đến cõi tự tại, tự giác; tâm hồn thanh lãng, an lạc trong mối quan hệ nhân ái với con người, cuộc đời và thiên nhiên, vạn vật”22. Triết lý nhân bản trong tư tưởng của Nguyễn Văn Dũng tập trung vào giá trị con người như là trung tâm của mọi hành động và ứng xử. Đối với ông, con người luôn phải tu dưỡng tinh thần, tôn trọng lẽ phải, có lương tâm, có sự đồng cảm giữa người với người, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải tôn trọng phẩm giá cá nhân, bất kể giàu nghèo, cao sang hay bình dị, ai cũng đáng được tôn trọng nếu sống chân thành và tử tế. Ông cũng lấy đạo đức làm gốc rễ của của cuộc sống.
Trong các tác phẩm của mình, ông cũng đề cập đến giáo dục nhân bản thông qua võ đạo. Không chỉ truyền dạy võ nghệ, ông dạy cách làm người: phải trở thành những người con có lòng hiếu thảo, trung thực và kiên cường trước khi trở thành một người giỏi võ.
Chúng tôi nhận thấy ông đề cao thái độ và cách ứng xử đẹp trong nhiều bút ký, luôn hướng đến việc khuyến khích, giáo dục cách ứng xử có văn hóa, bao gồm cả ứng xử có văn hóa với thiên nhiên, môi trường. Những thói quen và văn hóa khác biệt trên thế giới được ông nêu ra và tôn trọng chứ không phê phán: “Hay thiệt, chuyện hôn hít nhau giữa ba quân thiên hạ, bên mình coi là dị hợm không thể chấp nhận được, nhưng ở đây người ta cho là bình thường, cứ việc tự nhiên như nhiên. Đến nỗi chính kẻ nào lăm lăm nhòm ngó và lên mặt phê phán nọ kia mới thật sự là đồ dị hợm, không thể chấp nhận được”23.
“Mà muốn phát triển kinh tế, muốn thu hút du khách, muốn giầu, muốn mạnh thì phải biết giữ gìn nét văn hóa độc đáo của mình, nghĩa là không lỏi chỏi, không lai tạp, không học đòi, không mất mình, không sến”24. Với ông, những giá trị văn hóa “cũng như cây đại thụ, nếu cắt hết rễ đi, cây sẽ khô cằn mà chết”25. Hiện thực của nhiều thanh niên hiện nay: “… thay vì chăm lo học hành, tu dưỡng, nhiều bạn trẻ chỉ biết ăn chơi, buông thả, cà phê, nhậu nhẹt thâu đêm suốt sáng”26. Ông đãlấy hình ảnh chơi hết mình nhưng cũng làm hết mình của thanh niên phương Tây ra so sánh và làm gương cho thanh niên Việt Nam.
Tính sáng tạo và bản lĩnh trong triết lý giáo dục nhân bản của ông được chuyển tải bằng những tác phẩm du ký đi xuyên qua nhiều quốc gia, bởi đến những vùng đất khác, ông có cơ sở để so sánh, đối chiếu và chỉ ra những gì được và chưa được: “Thế đấy, nếu không có cái gì của riêng mình thì hiện hữu bằng cách gì; nếu không có cái gì của riêng mình thì làm sao có thể hội nhập được với người mà không bị hòa tan”; “Hy Lạp là đất nước có lịch sử dài nhất châu Âu, nhưng họ không để quá khứ níu chân, không bị tương lai xô đẩy; họ: trẻ trung, tràn đầy, và hạnh phúc”27.
Chúng ta thấy triết lý nhân bản của Nguyễn Văn Dũng khi ông kết luận: “Chân lý là cái ta đang đi tìm bởi làm gì có chân lý hiển nhiên”28. Nguyễn Văn Dũng không chỉ dùng văn như công cụ chỉ đường mà ông còn trực tiếp là tấm gương cho các học trò của mình. Ông dạy học trò đạo lý làm người như người cha dạy con, từ những việc nhỏ nhất: dạy cách ăn, cách nói, cách cảm ơn, xin lỗi, đúng giờ, đúng hẹn, làm việc chi phải xong việc nấy; dạy cách khen, cách chê, cách lắng nghe, lúc nào thì ngẩng đầu, lúc nào thì phải biết cúi đầu... Thậm chí cả dạy cách bắt tay, chào hỏi, cách cầm dao nĩa khi dự dạ tiệc, cách ăn món Tây, cách cầm ly rượu vang khác với cầm ly rượu whisky, cách thắt cà vạt... Triết lý nhân bản của ông rất rõ ràng: đó là đạo làm người.
Bản sắc văn hóa nhân bản trong bút ký Nguyễn Văn Dũng mang những giá trị sống phổ quát. Lời văn của ông bao giờ cũng tràn đầy niềm tin vào cuộc sống: “Đừng bao giờ để ngọn lửa tình yêu tắt trong lòng mình”29.
2. Triết lý ứng xử với môi trường, thiên nhiên
Chúng tôi nhận ra hầu hết tiêu đề các bút ký của Nguyễn Văn Dũng đều mượn thiên nhiên làm tên gọi. Tình yêu quê hương đất nước, yêu thiên nhiên như thấm vào máu thịt của ông. Ông dành hẳn một tập bút ký Lời tự tình của một dòng sông để chỉ viết về dòng Hương Giang, về Huế, về thiên nhiên đất nước. Ông luôn nói: “Thiên nhiên là người thầy vĩ đại”30. Ông nhân hóa dòng sông để gửi gắm tự tình của chính bản thân mình trong lời tự tình của một dòng sông: “Ba chỉ để lại cho hai con báu vật này xưa ông bà truyền lại, tấm lòng… Sống trên đời cần nhất phải có một tấm lòng”31. Ông yêu quý dòng sông đến mức cảm nhận được mùi hương của nó: “Tình yêu, nếu thật sự là tình yêu, thì bao giờ cũng tỏa hương”32 và có lẽ Nguyễn Văn Dũng đã tự viết cho mình: “Bởi vì tôi là Hương Giang. Tôi là một tấm lòng”33.
Chúng tôi muốn nhấn mạnh, ông luôn đặt con người và thiên nhiên lên trên hết. Ông nhìn vấn đề từ bản chất, không tránh né. Ông quan điểm rõ ràng về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc: phải giữ bằng mọi giá. Cũng là lời của dòng sông: “Ở một vài khúc sông, tôi cố ý cho bên lở bên bồi là ngầm nói với người đời rằng chẳng có chi vẹn toàn, chẳng có chi vĩnh cửu. Thông điệp ấy sẽ giúp mỗi người tự điều chỉnh cái não trạng của mình để sống sao cho đàng hoàng hơn, cao đẹp hơn”34. Để bảo vệ dòng Hương Giang, bảo vệ đồi Vọng Cảnh, bảo vệ những vùng đất văn hóa, ông đã viết và đã có những hành động quyết liệt, đồng thời đưa ra những giải pháp để giữ gìn thiên nhiên như là máu thịt.
Trong Hương Giang ơi dòng sông êm, ông viết: “Người Pháp, với nền tảng văn hóa thâm hậu, đã đối xử đúng mực với con sông: các công trình mới chỉ được xây dựng phía bờ nam, không cao quá ngọn cây, cách xa dòng sông và được phân biệt bởi một dải công viên xanh ngắt cỏ hoa. Đến thời người Mỹ, sông Hương bắt đầu cuộc hồng trần. Hai công trình tiêu biểu cho thời kỳ này là khách sạn Hương Giang và chiếc cầu mới. Khách sạn Hương Giang mà một phần nhoài ra, ngạo nghễ soi bóng trên mặt nước sông Hương. Sang thời chúng ta thiếu cái tầm, thiếu cả cái tâm, chúng ta đã để sông Hương cho người đời mặc sức tùng xẻo”35. Chúng ta nhận thấy ông đã tìm hiểu ngọn ngành, đi theo dòng thời gian từ quá khứ đến hiện tại, từ cách người Pháp đến người Mĩ, người Việt đã ứng xử với thiên nhiên như thế nào: những cái được và chưa được, cần giữ gìn và tôn trọng thiên nhiên.
Xuyên suốt nhiều bút ký, ông luôn đau đáu nỗi niềm: Làm gì để bảo vệ các giá trị văn hóa tự nhiên và nhân văn. Ông đi là để chiêm nghiệm và chia sẻ những chiêm nghiệm ấy với tha nhân. Nguyễn Văn Dũng nhận thấy “… tha thẩn giữa bốn bề liệt vị quý tộc, tài danh của non 1000 năm lịch sử Vương quốc Anh, bỗng ngộ ra bao điều nhân thế”36. Ngoài việc tả chi tiết những khung cảnh núi non, những danh lam thắng cảnh và những di sản của thế giới thì ông luôn gửi gắm vào đó những tình cảm yêu mến đất nước qua những so sánh với nước người. Việc các nước phát triển trên thế giới có những bảo tàng có đến “bảy triệu hiện vật, có rất nhiều bộ sưu tập hoàn chỉnh đến mức ông phải sững sờ”37, đặc biệt với các nền văn minh cổ đại như Ai Cập, Hy Lạp, La Mã, Trung Quốc, Ấn Độ…, từ những thực tế ấy, ông có những sự so sánh với việc gìn giữ cổ vật của ông cha trong quá khứ. Ông trầm tư với quê hương: “Hình như Huế chưa coi trọng việc xây dựng các viện bảo tàng cho xứng với tầm cỡ lịch sử và văn hóa của mình”38.
Các bút ký của ông được viết trong hàng chục năm, ông chọn lọc và phân loại thành những tác phẩm viết về những địa danh trong nước và những địa danh nước ngoài.
Có cơ duyên đi du lịch nhiều nơi trên thế giới, ông vẫn thấy Tổ quốc Việt Nam thật đẹp. Ông lo lắng, trăn trở với việc gìn giữ thiên nhiên tươi đẹp của đất nước: “… không biết trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay cùng với tác động của nền kinh tế thị trường, liệu chúng ta có giữ được cái đẹp đó bền lâu, hay rồi lại làm nó biến dạng, lai tạo, và mất đi?”39. Chúng ta thấy Nguyễn Văn Dũng luôn chú ý việc giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam qua những trang văn du ký, hồi ký được khắc họa trong từng dòng văn thấm đẫm tình yêu quê hương đất nước.
Ứng xử với thiên nhiên của ông rất thiết thực, từ việc “không xả rác” đến hành động “khi ta cúi xuống nhặt cọng rác trên đường ấy là lúc ta tẩy rửa thói vô cảm, vô tâm, vô trách nhiệm trong đầu. Bởi thế, không xả rác và nhặt rác là một nét đẹp văn hoá của môn sinh...”. Ông đã coi rác là vấn đề lớn tác động trực tiếp đến thiên nhiên, nâng tầm văn hoá cho việc không xả rác. Ông coi “Đó là cung cách của người có văn hoá: Có rác thì tìm thùng rác để bỏ vào, không có thùng rác thì bỏ vào túi ni lông; với các loại rác nhỏ như vỏ kẹo, nắp viết, nắp chai... thì bỏ vào túi quần, đợi khi nào có thùng rác hãy bỏ vào. Người có văn hoá thấy rác trên đường thì nhặt đem bỏ vào thùng rác. Rõ ràng, chỉ những người vô học, vô văn hoá, vô cảm, vô tâm, vô trách nhiệm mới xả rác bừa bãi. Cho nên để trở thành người có học, có văn hoá, có tâm hồn cao đẹp thì phải tập cho được thói quen không xả rác”40.
Một trong những giá trị nhân bản thấy được từ lời “trò chuyện với môn sinh” của ông là tinh thần, hay “nguyên tắc hoa anh đào” – cùng nở cùng tàn; cùng đi, cùng chiến đấu, cùng trở về hoặc cùng chết chứ không làm gì có chuyện bỏ bạn giữa đường... Nguyễn Văn Dũng “mơ làm sao góp phần nhỏ giúp lớp trẻ thoát khỏi vòng xoáy vô cảm, vô tâm, vô trách nhiệm, thích bạo lực và ước mơ – nếu có quyền ước mơ nữa, mơ là người ai cũng có tình yêu và lòng bao dung, để nhân loại được sống trong hoà bình và an lạc”. Tâm văn hóa của ông hiện hữu trên từng con chữ, từng câu chuyện nhỏ được ông viết ra. Từ những câu chuyện diễn ra hằng ngày, những suy ngẫm “với mình”, “với người”, “với gia đình”, “với trường học”, “với xã hội” và “thế giới quanh ta”, ông “trò chuyện với môn sinh” những câu chuyện giản dị nhưng để lại những bài học ý nghĩa. Nguyễn Văn Dũng luôn thể hiện tư tưởng gần gũi với triết lý phương Đông về sự hài hòa với thiên nhiên. Với ông, thiên nhiên là nơi “di dưỡng tâm hồn”, là không gian để rèn luyện thân - tâm. Con người phải sống thuận tự nhiên, không chinh phục mà phải hòa hợp với đất trời. Trong hành trình sống của mình, ông luôn quan tâm bảo vệ môi trường tự nhiên một cách khoa học và trong quá trình truyền dạy võ thuật, ông luôn khuyến khích học trò tập luyện ngoài trời, hòa mình vào ánh sáng, không khí, cây cỏ, coi đó là cách để “tịnh thân - tịnh tâm”. Chúng tôi nhận thấy trong rất nhiều tác phẩm, ông bày tỏ nỗi lo về sự suy thoái môi trường hiện nay, cho rằng mất đi mối liên kết với tự nhiên chính là mất đi phần linh thiêng của con người.
3. Kết luận
Nguyễn Văn Dũng có thế mạnh trong việc miêu tả, tái hiện văn hoá, phong tục của một vùng đất, nhờ vào kinh nghiệm sống phong phú của ông cũng như bút lực chú trọng vào chiều sâu cảm xúc và tâm hồn của nhân vật, dù nhân vật đó là phản chiếu của chính mình, của tha nhân, hay là thiên nhiên, môi trường.
Hệ thống từ vựng đại từ xưng hô ở xứ Huế (đầu thế kỷ XX) cũng được ông sử dụng với tần suất cao. Vấn đề nghiên cứu ngôn ngữ trong tác phẩm của Nguyễn Văn Dũng là một đề tài hết sức thú vị và sẽ được đề cập đến ở một nghiên cứu khác.
Nhiều bút ký của Nguyễn Văn Dũng cũng giới thiệu với chúng ta nhiều lễ nghi, lễ hội tốt đẹp, nhân văn của xứ Huế, vừa có yếu tố lãng mạn vừa có yếu tố hiện thực đậm nét, một phần xuất phát từ nền tảng văn hoá tâm linh phong phú.
Nhà thơ Hồ Thế Hà nhận định: “Nguyễn Văn Dũng là cây viết ký khẳng định được ngòi bút của mình ngay từ những trang viết đầu, bởi ở anh, có một vốn văn hóa đã chín, ngôn từ đã chọn lọc và cảm xúc thừa nhân ái chân thành. Người đọc sẽ cùng anh dõi theo những nỗi niềm sơn thủy và hoài niệm mây trời để được giàu có hơn lên trong nhận thức và dũng cảm qua từng chặng hành trình để cùng lãng du tâm hồn, lãng du văn hóa”41.
Có thể khẳng định, bút ký Nguyễn Văn Dũng có nhiều điều thú vị, vừa mới mẻ vừa cổ kính, vừa uyên thâm vừa nhân ái trong cuộc thám hiểm tâm hồn con người. Vì có những giá trị bền vững theo thời gian cũng như có những giá trị nhanh chóng biến thiên theo thời cuộc, văn bút của ông hoàn thành sứ mệnh dẫn đường của văn chương, cống hiến cho cuộc đời những trang văn đẹp và nhân bản. Dù đi rất nhiều nơi trên thế giới nhưng ở bất kỳ nơi nào có những điểm khác biệt hoặc tương đồng với văn hóa Việt Nam thì đều được ông so sánh. Điều đặc biệt là ông luôn so sánh với những giá trị nhân bản trong văn hóa Việt Nam. Những điều tốt đẹp được ông “phô ra”, những điều chưa tốt cũng được ông thẳng thắn chỉ ra, mong muốn những thói quen tốt đẹp, dù nhỏ nhặt, sẽ “góp gió thành bão”, nâng giá trị con người Việt Nam, văn hóa Việt Nam lên tầm cao mới.
Bút ký Nguyễn Văn Dũng đã chứng minh cho luận điểm “Văn chính là cuộc sống”. Các tác phẩm của ông thể hiện những triết lý nhân bản về đạo đức truyền thống, góp phần lan tỏa những điều tốt đẹp trong cuộc sống hiện tại.
Chú thích:
1, 2, 6, 13, 14, 15, 16, 38, 41 Nguyễn Văn Dũng (2006), Linh Sơn mây trắng, NXB. Thuận Hóa, tr. 12, 11, 11, 328, 106, 329, 103, 43, 333.
3, 4, 5, 19, 20, 21, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 36, 37 Nguyễn Văn Dũng (2012), Đi tìm ngọn núi thiêng, NXB. Thuận Hóa, tr. 322, 322, 323, 168, 9, 10, 13, 43, 43, 48, 63, 67, 32, 36.
7 Trò chuyện với môn sinh là tên bộ sách gồm 5 tập của tác giả Nguyễn Văn Dũng, được NXB. Thuận Hóa xuất bản từ năm 2014 đến 2024.
8, 9, 22, 40 Tường Minh (2019): “Võ sư Nguyễn Văn Dũng - một vòng tròn đời đạo”, nguồn: https:// baoquangnam.vn/vo-su-nguyen-van-dung-motvong-tron-doi-dao-3082356.html#google_vignette, ngày 23/9.
10 Nguyễn Vinh Sơn (2016), Cơ sở giáo dục nhân bản: Văn hóa Việt Nam – Văn hóa giao thoa Đông - Tây, NXB. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 89.
11, 12, 29, 30, 31, 32, 33, 34, 35, 39 Nguyễn Văn Dũng (2013), Lời tự tình của một dòng sông, NXB. Thuận Hóa, tr. 249, 244, 12, 193, 10, 13, 18, 14, 30, 5.
17 Đỗ Lai Thúy (2018), Văn hóa Việt Nam - nhìn từ mẫu người văn hóa, NXB. Văn hóa Thông tin, tr. 59.
18 Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học và NXB. Đà Nẵng, tr. 1034.