''TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP'' - ÁNG THIÊN CỔ HÙNG VĂN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

Bài viết khẳng định ''Tuyên ngôn độc lập'' của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một áng 'thiên cổ hùng văn' của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm không chỉ mang giá trị lịch sử, chính trị, pháp lý, văn chương sâu sắc mà còn khẳng định vị thế, chủ quyền Việt Nam trên trường quốc tế và trở thành niềm tự hào lớn lao, là di sản tinh thần bất diệt của dân tộc.

   Trong lịch sử của dân tộc Việt Nam có những áng văn hùng tráng còn lại mãi mãi với muôn đời, đó là bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt (?), Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi... Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là một áng thiên cổ hùng văn như thế

   Cách mạng Tháng Tám thành công, sáng ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập chính thức công bố trước quốc dân, trước thế giới sự thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khẳng định quyền độc lập, tự do và ý chí bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Bản Tuyên ngôn đã chấm dứt một thời kỳ nô lệ đen tối, đau thương và mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc ta, đó là kỷ nguyên độc lập, tự do, kỷ nguyên nhân dân là người làm chủ đất nước, nhân dân cũng là người quyết định vận mệnh của đất nước.

   Trong khi đó, bọn đế quốc, thực dân núp dưới danh nghĩa Đồng minh câu kết với bọn phản động trong nước nhằm phá hoại chính quyền cách mạng còn non trẻ: ở phía Bắc, đằng sau quân Tưởng là đế quốc Mĩ; ở phía Nam, đằng sau quân Anh là thực dân Pháp. Pháp còn tuyên bố Đông Dương là thuộc địa của Pháp bị Nhật xâm chiếm, nay Nhật đầu hàng Đồng minh, Đông Dương phải được trả về tay Pháp. Đặt trong hoàn cảnh như thế, bản Tuyên ngôn còn nhằm bác bỏ lý lẽ của bọn xâm lược trước dư luận thế giới.

   1. Cơ sở pháp lý của bản Tuyên ngôn

   Trong tranh luận, để bác bỏ luận điệu của một đối thủ nào đó, không gì đích đáng hơn là dùng chính lý lẽ của đối thủ ấy, người ta gọi đó là lập luận theo kiểu “lấy gậy ông đập lưng ông”. Mở đầu bản Tuyên ngôn của dân tộc mình, Bác đã nhắc tới hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng của thế kỷ XVIII, hai bản Tuyên ngôn đánh dấu buổi bình minh của cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến và nêu lên thành nguyên tắc pháp lý những quyền sống cơ bản của con người. Đó là bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mĩ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

   Tiếp đó là bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

    Sau khi dẫn xong những lời bất hủ của hai bản Tuyên ngôn, Bác khẳng định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Như vậy, trên cơ sở xác lập những nguyên tắc, những chuẩn mực mang tính chân lý muôn đời, Bác đã ngầm vạch rõ sự sai trái trong mưu toan xâm lược của đế quốc Mĩ và thực dân Pháp đối với nước ta lúc ấy.

   Cảm nhận sâu xa hơn có thể thấy cách lập luận trên đây của Bác là rất khéo léo và kiên quyết: khéo léo vì rất trân trọng tư tưởng tiến bộ của người Mĩ, người Pháp, cũng là của nhân loại nói chung; kiên quyết vì nhắc nhở người Mĩ, người Pháp nếu họ nhất định xâm lược Việt Nam thì họ đã phản bội tổ tiên mình, đã làm vấy bẩn lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại ở nước Mĩ, nước Pháp.

   Đáng chúý là cái mới của bản Tuyên ngôn này: nếu Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp xuất phát từ quyền lực tự nhiên (Tạo hóa) để khẳng định quyền sống của con người, thì Hồ Chủ tịch lại xuất phát từ quyền lực, từ chủ quyền của mỗi dân tộc để khẳng định mạnh mẽ quyền lợi của dân tộc ấy: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Trong cuốn sách Hồ Chủ tịch trong lòng nhân dân thế giới, một nhà văn hóa nước ngoài đã bình luận: “Cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình”. Đặt trong hoàn cảnh đương thời, có thể xem sự phát triển trong lập luận của Bác là một hành động cách mạng táo bạo, tài tình, bởi vì mở đầu bản Tuyên ngôn của dân tộc mình mà nhắc tới Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp, đồng thời khẳng định quan điểm tư tưởng của dân tộc Việt Nam thì cũng có nghĩa là đặt ba cuộc cách mạng, ba nền độc lập, ba bản Tuyên ngôn ngang hàng nhau. Tóm lại, việc khẳng định chủ quyền độc lập của mỗi dân tộc chính là cơ sở pháp lý vững chắc cho Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

   2. Cơ sở thực tế của bản Tuyên ngôn

   Ở thời điểm lịch sử khi bản Tuyên ngôn ra đời, kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất đe dọa nền độc lập của dân tộc ta là bọn xâm lược Pháp. Đẩy lùi nguy cơ ấy sẽ phải là một cuộc chiến đấu vũ trang lâu dài của toàn dân, nhưng cuộc chiến đấu đó cần phải có thời gian chuẩn bị lực lượng và rất cần sự đồng tình, ủng hộ của nhân loại tiến bộ. Muốn vậy, chỉ xác lập cơ sở pháp lý chưa đủ, còn rất cần những chứng cứ cụ thể, xác thực nêu cao chính nghĩa của dân tộc ta và đập tan những luận điệu xảo trá của bọn thực dân nhằm hợp pháp hóa cuộc xâm lược của chúng trước dư luận quốc tế.

   Trước hết, bản Tuyên ngôn đã vạch rõ những việc làm “trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa” của thực dân Pháp. Chúng đã lợi dụng danh nghĩa đi “khai hóa”, “bảo hộ”, núp dưới lá cờ “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” để cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Về chính trị, thực dân Pháp dùng nhiều thủ đoạn thâm độc nhằm tiêu diệt ý chí chiến đấu giành độc lập của người Việt Nam: chúng không cho dân ta được hưởng tự do, dân chủ; chúng chia cắt ba miền bằng những chế độ chính trị khác nhau nhằm phá vỡ tinh thần đoàn kết thống nhất của nhân dân ta; chúng thi hành chính sách ngu dân, dùng rượu cồn, thuốc phiện để đầu độc nhân dân ta. Về kinh tế, thực dân Pháp dùng nhiều biện pháp dã man bóc lột “đến xương tủy” nhằm tiêu diệt sức mạnh chiến đấu của người Việt Nam: chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu; chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng; chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý để vơ vét tiền bạc, của cải - tất cả dẫn tới thảm cảnh vô cùng đau xót “hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói”. Về bản chất, thực dân Pháp rất đê tiện, vô nhân đạo: chúng đã không bảo hộ được nước ta, trái lại, chỉ trong 5 năm đã hai lần chúng bán nước ta cho Nhật; tồi tệ hơn, chúng đã không hưởng ứng lời kêu gọi của Việt Minh cùng hợp tác chống Nhật mà chúng còn quay lại khủng bố Việt Minh, giết hại tù chính trị và những người yêu nước của nhân dân ta.

   Đồng thời, bằng sự so sánh tương phản đầy sức thuyết phục, bản Tuyên ngôn đã khẳng định lẽ phải và chính nghĩa hoàn toàn thuộc về dân tộc ta. Nếu thực dân Pháp có tội phản bội Đồng minh vì đã hai lần dâng Đông Dương cho Nhật, tiếp tay tiếp sức cho bọn phát xít mở rộng chiến tranh, thì dân tộc Việt Nam đã dũng cảm chiến đấu chống phát xít Nhật, ủng hộ sự nghiệp cao cả của Đồng minh và cuối cùng giành được chủ quyền độc lập trong Cách mạng Tháng Tám. Nếu thực dân Pháp bộc lộ bản chất vô nhân đạo qua những hành động dã man, tàn bạo, thì dân tộc Việt Nam đã thể hiện thái độ khoan hồng và nhân đạo ngay với kẻ thù bị thất thế: “Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ”.

   Sức mạnh của chính nghĩa bao giờ cũng đồng thời là sức mạnh của sự thật và không có lý lẽ nào có sức thuyết phục cao hơn lý lẽ của sự thật, vì thế từ tất cả những điều đã nói ở trên, bản Tuyên ngôn đi tới những sự thật lịch sử quan trọng. Trước hết, đó là sự thật kể từ mùa thu năm 1940 nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải của Pháp; khi Nhật đầu hàng Đồng minh, nhân dân ta đã nổi dậy giành lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Điều đó đã bác bỏ hoàn toàn chủ quyền của Pháp ở Việt Nam, đồng thời cho thấy dân tộc ta đã khẳng định chủ quyền độc lập không chỉ bằng cơ sở pháp lý vững chắc mà còn bằng hành động cách mạng cụ thể. Hơn thế, đó còn là sự thật những thế lực đen tối, phản động đã hết thời, độc lập đã là thực tế hiển nhiên ở Việt Nam và đã có một thực thể chính quyền mới để bảo vệ nền độc lập vừa giành được: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ trong mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”.

   3. Tuyên bố khẳng định chủ quyền độc lập

   Trên cơ sở pháp lý vững chắc và thực tế hiển nhiên, phần cuối cùng của bản Tuyên ngôn là những lời tuyên bố trang trọng của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam mới trước quốc dân đồng bào và trước nhân dân toàn thế giới. Sau gần 100 năm nước ta bị đô hộ, đây là lần đầu tiên tiếng nói tự hào vang lên khẳng định mạnh mẽ việc giành độc lập của dân tộc Việt Nam. Nhưng điều dễ hiểu lầm nhất trong dư luận thế giới lúc ấy là quan hệ giữa Việt Nam với Pháp, bởi vì có thể nhiều người vẫn cho rằng Việt Nam là thuộc địa của Pháp bị Nhật xâm chiếm, nay Nhật đầu hàng Đồng minh thì người Pháp có quyền trở lại thuộc địa của mình. Do đó bản Tuyên ngôn tuyên bố Việt Nam hoàn toàn độc lập với Pháp, “tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”, đồng thời kiên quyết chống lại mọi âm mưu đen tối của thực dân Pháp nhằm tước bỏ chủ quyền của dân tộc Việt Nam.

   Mặt khác, bản Tuyên ngôn còn ràng buộc các nước Đồng minh vào việc công nhận Việt Nam độc lập. Lý do thứ nhất, họ đã thừa nhận “nguyên tắc dân tộc bình đẳng” thì không thể không thừa nhận chủ quyền độc lập của dân tộc Việt Nam. Lý do thứ hai, dân tộc Việt Nam đã anh dũng chiến đấu chống ách đô hộ của thực dân Pháp để có độc lập, tự do, đã nêu cao tinh thần nhân đạo, bác ái đứng hẳn về phía Đồng minh chống phát xít cho nên “dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”. Nhưng chủ quyền độc lập chỉ được giữ vững khi toàn dân tộc chung sức chung lòng quyết tâm bảo vệ đất nước của mình, chính vì thế bản Tuyên ngôn trịnh trọng tuyên bố với toàn thế giới:

   “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

   Như thế là bằng lý lẽ và sự thật, bằng ý chí và quyết tâm, bản Tuyên ngôn đã khẳng định quyền được hưởng độc lập, khẳng định thực tế độc lập và khẳng định lời thề giữ vững độc lập của dân tộc ta. Đấy cũng là việc góp phần bảo vệ “nguyên tắc dân tộc bình đẳng” của nhân loại tiến bộ, từ đó có thể xem Tuyên ngôn độc lập là phát súng lệnh mở đầu cho phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới.

   4. Giá trị lớn lao của bản Tuyên ngôn

   Về giá trị lịch sử, Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện quan trọng đúc kết nguyện vọng sâu xa của dân tộc Việt Nam về quyền độc lập, tự do, đó cũng là kết quả quá trình đấu tranh gần 100 năm của dân tộc ta để có quyền đó. Đằng sau những dòng văn trang trọng của bản Tuyên ngôn là sự thật lịch sử; là hình ảnh một dân tộc, một đất nước trong những năm tháng đau thương, đen tối dưới ách thống trị của kẻ thù; là biết bao cuộc đấu tranh, khởi nghĩa đầy gian khổ, thất bại, hi sinh để cuối cùng có Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trong Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Trần Dân Tiên đã viết: “Bản Tuyên ngôn độc lập là kết quả của bao nhiêu máu đã đổ, bao nhiêu tính mạng đã hi sinh của những người con anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường. Bản Tuyên ngôn độc lập là kết quả của bao nhiêu hi vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn 20 triệu nhân dân Việt Nam”.

   Mặt khác, Tuyên ngôn độc lập đã thể hiện sâu sắc những tư tưởng mang tầm vóc lịch sử. Độc lập của một dân tộc bao giờ cũng gắn với quyền sống của con người và hạnh phúc của một đất nước cũng là hạnh phúc của mỗi cá nhân trong cộng đồng. Như vậy, quyền của dân tộc, quyền của con người, quyền của cá nhân là những phạm vi có liên quan với nhau; Tuyên ngôn độc lập đã tạo ra sự thống nhất giữa các phạm vi ấy: từ quyền của con người nâng cao thành quyền của dân tộc và trong quyền lợi của dân tộc đã bao hàm quyền sống của mỗi cá nhân.

   Về giá trị văn chương, Tuyên ngôn độc lập là một áng văn chính luận mẫu mực. Dung lượng của tác phẩm rất ngắn gọn, cô đọng nhưng có sức gây ấn tượng mạnh mẽ, tác động sâu sắc vào cảm nghĩ của người đọc, người nghe. Kết cấu của tác phẩm rất mạch lạc, chặt chẽ bởi vì các phần đều có liên quan tất yếu với nhau, chứng cứ cụ thể, xác thực, lập luận đanh thép, hùng hồn, tất cả đều hướng tới khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc. Ngôn ngữ của tác phẩm rất chính xác, giàu sức biểu hiện, từng câu từng chữ đều được lựa chọn và sử dụng sao cho có hiệu quả cao nhất. Trong bài Kinh nghiệm Bác viết thế nào?, chính Bác Hồ cũng tự thừa nhận sau lần đăng bài báo đầu tiên, rồi truyện ngắn đầu tiên, đây là lần thành công thứ ba khiến Người “cảm thấy thực sự sung sướng” trong cuộc đời viết văn, làm báo đầy kinh nghiệm của mình.

   Tuyên ngôn độc lập mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm đã khẳng định vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế và vạch trần âm mưu xâm lược, đập tan luận điệu phản động của kẻ thù. Đằng sau những dòng chữ sáng ngời trí tuệ và dạt dào tình cảm của bản Tuyên ngôn là hình ảnh một vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại, có tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn, đã tổng kết được trong một văn bản ngắn gọn, trong sáng kinh nghiệm nhiều thế kỷ đấu tranh vì độc lập, tự do, vì nhân quyền, dân quyền của dân tộc và của cả nhân loại. Theo luật sư Ngô Bá Thành, Tuyên ngôn độc lập là “một văn kiện chính trị pháp lý có giá trị thời đại và vượt khỏi phạm vi Việt Nam, có giá trị thế giới, vượt khỏi phạm vi thời gian, có giá trị muôn đời”.

Bình luận

    Chưa có bình luận