80 năm - một cuộc đổi đời vĩ đại, sau gần một thế kỷ cả dân tộc chìm trong thân phận nô lệ của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Suốt nhiều thập kỷ, trên khắp cả nước, các sĩ phu, văn thân liên tục phát động khởi nghĩa nhằm giành lại độc lập dân tộc, nhưng đều thất bại, dẫu sự dũng cảm, chí căm thù và lòng yêu nước thì dư thừa. Con đường cứu nước chỉ thật sự được mở ra từ thời điểm năm 1911, trong bước chân và hành trình của người thanh niên mang tên Nguyễn Tất Thành ra đi từ Xứ Nghệ, để hướng về phương Tây, rồi tìm đến Luận cương về cách mạng dân tộc và thuộc địa của Lenin như một cẩm nang thần kỳ. Từ đây, trong tên gọi Nguyễn Ái Quốc, lịch sử và lịch sử văn chương cách mạng Việt Nam hiện đại có Bản án chế độ thực dân Pháp - năm 1925 và Đường Kách mệnh - năm 1927. Ba năm sau là sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Mười một năm sau, vào năm 1941, Nguyễn Ái Quốc trở về nước sau 30 năm xa xứ; để từ đây là bước đi thần tốc của dân tộc đến với Cách mạng Tháng Tám năm 1945, với Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Tuyên ngôn độc lập đã mở ra thời đại Hồ Chí Minh trong lịch sử dân tộc và trong dòng chảy văn chương Việt Nam hiện đại. Đó là thời đại của sự hoà điệu, hoà nhập “vũ khí” của tiếng nói và tiếng nói của vũ khí; thời đại mà tự do của tiếng nói và chữ viết đã có được sự bảo đảm cao nhất là nền độc lập tự do của dân tộc. Ở mỗi người dân Việt Nam, từ ấy cho đến hôm nay - tất cả đều có thể tìm thấy qua Tuyên ngôn độc lập, sự gắn bó khăng khít với truyền thống như một hậu sinh xứng đáng và sự kết nối với nhân loại như một người đồng thời. Niềm tự hào chính đáng - niềm tự hào được là người Việt Nam - đã được trả lại cho dân tộc sau gần 80 năm mất tên trên bản đồ thế giới và tiếp tục được bồi đắp bằng thành quả độc lập dân tộc mà Cách mạng Tháng Tám mang lại.
Tuy nhiên, lịch sử vẫn tiếp tục thử thách dân tộc, khiến vị Chủ tịch đầu tiên phải trở thành Tổng Tư lệnh tối cao trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ kéo dài hơn 30 năm, với quyết tâm: “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ” trong chống Pháp, đến khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trong chống Mĩ. Cùng với Tuyên ngôn độc lập, hai Lời kêu gọi trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại đã thành lời của núi sông, lời non nước.
Hồ Chí Minh không chỉ là người lãnh đạo tối cao mà còn trực tiếp ra trận, đưa thơ ca hòa vào khí thế chiến đấu. Trong Chiến dịch Biên giới năm 1950, Người viết:
“Chống gậy lên non xem trận địa,
Vạn trùng núi đỡ vạn trùng mây.
Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu,
Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy”.
(Lên núi - bản dịch của Xuân Diệu)
Bốn năm sau, vào mùa hè 1954, chiến thắng Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu” đã ghi dấu mốc vĩ đại trong lịch sử dân tộc.
Đất nước bị cắt chia từ 1954 và sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước lại đặt lên vai Chủ tịch Hồ Chí Minh trong 15 năm cuối đời. Từ đây, cuộc chiến dẫu có khốc liệt và gian nan đến mấy, toàn dân tộc từ Bắc chí Nam vẫn tìm thấy ở Người điểm tựa tinh thần vững chắc, là ý chí kiên định và niềm tin vào chiến thắng cuối cùng, trong những lời thư và thơ Xuân chúc Tết:
Với Xuân Mậu Thân 1968, Người viết:
“Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua,
Thắng lợi tin vui khắp nước nhà.
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ,
Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta!”.
Và Xuân Kỷ Dậu 1969:
“Năm qua thắng lợi vẻ vang,
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to.
Vì độc lập, vì tự do,
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào.
Tiến lên chiến sĩ đồng bào,
Bắc Nam sum họp xuân nào vui hơn”.
Vào tháng 9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại Di chúc với lời mở đầu:
“Cuộc chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hi sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn.
Đó là một điều chắc chắn”.
Ở hai chữ “hoàn toàn” và “chắc chắn” là một niềm tin tuyệt đối, một ý chí kiên định đến cùng.
Thế kỷ XX vận hành theo những mục tiêu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định nhằm phục hưng dân tộc sau gần một trăm năm đô hộ của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Đó là độc lập, tự do, hạnh phúc, trên nền tảng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đó là nhiệm vụ đánh và thắng “ba loại giặc”: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm – những mục tiêu được nêu ngay từ sau 1945, nhưng cũng là những thử thách phải trải qua suốt cả thế kỷ mới có thể hoàn thành. Đó còn là tâm nguyện: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Sau khi giành được độc lập, tự do thì cơm ăn, áo mặc, học hành – tức là việc thoát nghèo đói, là cuộc đấu tranh cực kỳ gian khổ, bởi suốt hàng nghìn năm, Việt Nam tồn tại trong một phương thức sản xuất phong bế, lạc hậu và bởi sự thống trị tàn bạo hàng trăm năm của chủ nghĩa thực dân. Cả ba loại giặc: đói, dốt, ngoại xâm (cả xa và gần) khiến mọi tiềm năng của dân tộc phải được huy động, để “chống”, để “đánh”, để “giành chiến thắng”, để “tồn tại trong danh dự”… cho đến hết thế kỷ. Một thế kỷ đối diện với mọi loại kẻ thù bên ngoài, gồm các thế lực xâm lược, xa và gần; cùng với mọi kẻ thù bên trong, là cái nghèo, cái đói, cái dốt. Thế kỷ XX xứng đáng mang tên là Kỷ nguyên Hồ Chí Minh.
25 năm mở đầu thế kỷ XXI, sau tròn 80 năm kể từ ngày Bác Hồ viết và đọc Tuyên ngôn độc lập, gần 100 triệu công dân Việt Nam vẫn vững vàng tiến bước trên con đường lớn mà Người đã lựa chọn.