Nói đến lý luận văn học hiện đại là nói đến những đặc điểm của tư duy lý luận văn học hiện đại. Không thể có một nền lý luận văn học nếu không có tư duy lý luận văn học, không thể có tư duy lý luận văn học nếu không có tư duy triết học và mĩ học. Cùng với sự hình thành và phát triển của khoa học văn học từ cuối thế kỷ XIX, ở châu Âu, lý luận văn học ngày càng có vị trí quan trọng trong hệ thống các khoa học văn học, ngày càng khoanh vùng được đối tượng nghiên cứu với những vấn đề riêng, lý giải và soi sáng những vấn đề đó trên bình diện lý luận. Trải qua hơn một thế kỷ, tư duy lý luận văn học hiện đại đã đạt được những thành tựu có ý nghĩa bước ngoặt trong việc tiếp cận bản chất của văn học. Có thể nói, nếu trước và sau thời Phục hưng người ta ít bàn về lý luận văn học thì từ thế kỷ XVII-XVIII trở đi tình hình đã thay đổi với sự xuất hiện một số công trình lý luận mang tính chất chuyên ngành. Từ cuối thế kỷ XIX trở đi, lý luận văn học không còn chỉ là sự “bàn luận văn chương” như R. Wellek — A. Warren định nghĩa, mà vượt lên điều đó, tư duy lý luận văn học xuất hiện như là hệ quả của sự phát triển của văn học. Trong quá trình lịch sử, có cái gì đó thay đổi trong sự tồn tại của tác phẩm văn học, chính sự thay đổi này đặt ra những yêu cầu mới liên quan đến các phương pháp chiếm lĩnh tác phẩm văn học, tạo nên sự cần thiết phải đổi mới tư duy lý luận văn học. Như vậy, sự thay đổi của văn học đã làm thay đổi các nguyên tắc quy định cách nhìn nhận, đánh giá của chúng ta về văn học. Lý luận văn học xuất hiện khi mà những giả thiết và khái niệm trước đó không có vấn đề bỗng nhiên trở thành đối tượng tranh luận. Từ đây, để có được những nhận thức mới về phương thức tồn tại của tác phẩm văn học, lý luận văn học hiện đại phải khám phá những yếu tố đặc thù của văn bản văn học, trước hết là ngôn ngữ, cái chất liệu làm nên văn bản văn học. Điều đó giải thích tại sao những thành tựu của tư duy lý luận văn học hiện đại hơn một thế kỷ qua gắn liền với những thành tựu của ngôn ngữ học hiện đại và triết học ngôn ngữ. Với ảnh hưởng của tư duy triết học hiện tượng học, lý luận văn học hiện đại đã tiếp cận bản chất của sự đọc và hiểu văn bản, vận động từ mĩ học sáng tạo sang mĩ học tiếp nhận. Chúng ta cũng không thể phủ nhận vai trò và ảnh hưởng của triết học Marxist đối với tư duy lý luận văn học hiện đại, nhất là trong việc nghiên cứu mối quan hệ giữa văn bản văn học và hiện thực. Chính trên một số mô hình lý luận văn học, lý luận văn học Marxist đã bộc lộ những tương đồng và khác biệt, thậm chí cả những giới hạn bên trong hệ thống.
Với thao tác đi từ diện đến điểm, bài viết cố gắng mang lại cái nhìn bao quát những đặc điểm lớn của tư duy lý luận văn học hiện đại, đặt lý luận văn học Marxist, trong đó có lý luận văn học Marxist ở Việt Nam, trong tương quan với quá trình phát triển chung của tư duy lý luận văn học hiện đại.
1. Những khám phá về bản chất của ngôn ngữ
Sau khi nghiên cứu, tìm hiểu những tương đồng và khác biệt bên trong hệ thống lý luận văn học Marxist trên một số mô hình lý luận tiêu biểu, từ nhiều năm qua, chúng tôi đã kiên trì nghiên cứu những thành tựu của lý luận văn học phương Tây, trực tiếp đọc những tác phẩm lý luận quan trọng của các nhà lý luận lớn, với nỗ lực tìm hiểu từ gốc những vấn đề đã và đang đặt ra cho tư duy lý luận văn học hiện đại và hậu hiện đại. Đặc điểm nổi bật mà chúng tôi nhận ra trước hết là tư duy lý luận văn học hiện đại ở phương Tây luôn có cái nhìn khám phá về bản chất của ngôn ngữ. Muốn tiếp cận với bản chất của văn học, người ta phải xuất phát từ bản chất của cái chất liệu làm nên tác phẩm văn học, để từ đó hiểu được phương thức tồn tại của tác phẩm văn học cũng như những biến thể của sự diễn giải và tiếp nhận tác phẩm văn học. Đầu thế kỷ XX, với nhận thức mới về ngôn ngữ, người ta vừa biết mở ra cái ý nghĩa của từng thông điệp lại vừa nắm bắt cái bản chất của thông điệp như là thông điệp. Từ đây, đối với lý luận văn học hiện đại, văn bản văn học là hệ thống ký hiệu, là trung tâm tạo nghĩa. Trên cơ sở đó, khoa học văn học hiện đại đã tách tác phẩm văn học ra khỏi tác giả và loại bỏ những gì liên quan đến mối quan hệ nhân quả trong quan niệm của tư duy lý luận văn học tiền hiện đại. Chỉ còn lại tác phẩm văn học như là hình thức ngôn ngữ đặc trưng, là hiện tượng ngôn ngữ. Có thể nói ngôn ngữ học và triết học ngôn ngữ thời hiện đại cũng đã xác lập những quan điểm nghiên cứu văn học. Qua những quan niệm về ngôn ngữ có thể biết được khoa học văn học hiện đại quan tâm đến khía cạnh nào của đối tượng nghiên cứu. Xuất hiện những trào lưu lý luận văn học dựa vào tính ngôn ngữ để đề cao tính ký hiệu, phủ nhận tính phản ánh, khẳng định không gian ngôn ngữ và quyền tự trị ngữ nghĩa của văn bản văn học.
Edmund Husserl, người sáng lập triết học hiện tượng học, chỉ nhìn thấy vai trò thứ yếu của ngôn ngữ trong hoạt động nắm bắt một hiện tượng nhất định nào đó của con người. Theo ông, hoạt động nắm bắt một hiện tượng nào đó đều được thực hiện độc lập với ngôn ngữ. Ngôn ngữ chỉ là hoạt động thứ hai, nó đặt tên cho cái mà bằng cách nào đó chủ thể đã tri giác được từ trước. Hiện tượng học của Husserl muốn tách bạch những kinh nghiệm bên trong thuộc về tri giác chủ quan thuần túy của con người ra khỏi sự vấy bẩn xã hội của ngôn ngữ. Ngôn ngữ, theo Husserl, như một thứ vỏ bọc, dùng để giữ lại các nghĩa được hình thành độc lập với nó. Nghĩa của tác phẩm văn học, do đó, chỉ là cái mà tác giả có chủ định từ đầu, nó thuộc về ý thức chủ quan hơn là thuộc về ngôn ngữ. Chính vì vậy, theo quan niệm này, nghĩa của một tác phẩm văn học chỉ có một lần, nó đồng nhất với cái “khách thể ý thức” mà trong khi viết nhà văn có ý hướng tới. Do đó, có thể có nhiều sự diễn giải một văn bản văn học, nhưng tất cả đều phải nằm trong hệ thống mà nghĩa chủ ý của tác giả quy định. Tức là tác phẩm văn học chỉ có một nghĩa mà thôi. Như vậy, muốn vượt lên hệ thống hiện tượng học của Husserl để có cái nhìn mới về nghĩa và ý nghĩa của tác phẩm văn học thì phải có cái nhìn mới về bản chất và vai trò của ngôn ngữ.
Các quan điểm triết học của M. Heidegger đã chi phối cái nhìn của ông về vai trò và bản chất của ngôn ngữ, đáp ứng được cái nhìn mới về ngôn ngữ (những nỗ lực của Todorov, Jakobson cũng cần được hiểu trong tinh thần đó). Trong công trình Trên đường đến với ngôn ngữ1 mà chúng tôi đã dịch sang tiếng Việt, M. Heidegger đã gọi ngôn ngữ là ngôi nhà của Hữu thể. Theo ông, ngôn ngữ không chỉ là công cụ giao tiếp, mà cao hơn thế, nó có khả năng tạo lập đời sống. Nếu Husserl – thầy của ông – chỉ xem ngôn ngữ như công cụ thứ yếu dùng để thể hiện các ý tưởng đã có sẵn thì Heidegger xem ngôn ngữ là nơi mà đời sống con người diễn ra, là cái đầu tiên tạo ra thế giới. Heidegger cho rằng ngôn ngữ là sự kiện có đẳng cấp cao nhất của sự tồn tại của con người, ông không xem ngôn ngữ chỉ là sự thể hiện của một chủ thể. Khác với E. Husserl, M. Heidegger không nghi ngờ tổ chức nghĩa của một ngôn ngữ mang tính xã hội. Khi ông cho rằng lời nói không chỉ hoàn toàn là các ký hiệu, lời nói có hai mặt: hướng đến người nào đó và đặt điều kiện cho người đó phải nỗ lực hướng về sự hiểu, chính là ông đã gợi những ý tưởng quan trọng cho việc nghiên cứu vấn đề nghĩa và sự tạo nghĩa của văn bản thông qua người đọc. Do quan niệm như vậy về ngôn ngữ, Heidegger cho rằng sự diễn giải văn chương không tùy thuộc vào tính năng động của người đọc: tác phẩm văn học là cái mà người đọc để cho nó xảy ra nhờ văn bản. Người đọc đứng trước văn bản văn học như là trước cái mê cung của thế giới ngôn từ đầy bí ẩn. Heidegger gọi triết học của mình là sự minh giải Hữu thể. Chính vì vậy người ta gọi hình thức triết học của Heidegger là hiện tượng học giải thích để phân biệt với hiện tượng học siêu nghiệm của Husserl. Trong công trình Trên đường đến với ngôn ngữ được viết năm 1959, với sự đổi mới ngôn ngữ triết học, Heidegger đã nêu lên một vấn đề quan trọng là sự hòa trộn giữa tồn tại và ngôn ngữ trong nhau. Quan điểm này sẽ được một người Đức khác, nhà tường giải học, triết gia Hans-Georg Gadamer tiếp tục phát triển trong công trình triết học nghệ thuật nổi tiếng Chân lý và phương pháp2.
H. G. Gadamer đã có bước đi quan trọng trong việc tạo ra khái niệm ngôn ngữ tường giải học và trong việc phê phán những quan điểm của các lý thuyết ngôn ngữ học hiện đại. Trong công trình triết học - nghệ thuật Chân lý và phương pháp (1960), Gadamer đã dành trọn cả phần III có tựa đề Bước ngoặt bản thể của tường giải học để nghiên cứu về ngôn ngữ, với các tiểu mục sau: Ngôn ngữ như là vùng kinh nghiệm tường giải học; Sự hình thành khái niệm ngôn ngữ trong lịch sử tư duy châu Âu; Ngôn ngữ như là chân trời bản thể tường giải học.
H. G. Gadamer bác bỏ quan niệm công cụ về ngôn ngữ, ông viết: “Người diễn giải không sử dụng lời nói và các khái niệm như người thợ thủ công sử dụng các công cụ của mình"3. Theo Gadamer, lời nói không phải là sản phẩm của hình thức tâm tính nào đó, nó không phải là những sở hữu của năng lực nhận thức, lời nói là những cái bên ngoài, là tiên nghiệm. Lời nói không thuộc về chúng ta mà thuộc về các tình huống của Hữu thể, nơi lời nói hình thành và điều muốn nói được tạo ra. Gadamer cho rằng không phải con người tìm ra, tạo ra lời nói mà là lời nói tìm thấy chúng ta. Ngôn ngữ không phải là công cụ mà là một hiện tượng, một quá trình vừa liên quan đến quá khứ lại vừa đi trước vào tương lai. Về điểm này, quan niệm của Gadamer gần với quan niệm của M. Heidegger hơn và khác với quan điểm của Nietzsche. Gadamer cũng nhấn mạnh rằng ngôn ngữ không phải là công cụ để chúng ta thể hiện một cái gì đó mà là nơi để chúng ta tồn tại. Mọi yếu tố ký hiệu và sử dụng ký hiệu đều được nhìn nhận trong tinh thần đó. Nhờ lời nói chúng ta mới chuyển dịch được vào thế giới, vào các tình huống của tồn tại. Nhờ ngôn ngữ mà con người có thế giới của mình. Mối quan hệ giữa thế giới và ngôn ngữ là tương hỗ, thế giới là thế giới nhờ ngôn ngữ, còn ngôn ngữ là ngôn ngữ nhờ thế giới thể hiện trong nó. Điều này không có nghĩa là ngôn ngữ thể hiện thế giới mà là ngôn ngữ tồn tại thông qua thế giới và thế giới tồn tại trong tính chất ngôn ngữ. Nói một cách khái quát: Thế giới là cái tương đồng của ngôn ngữ và ngôn ngữ là cái tương đồng của thế giới. Thế giới không phải là môi trường bao quanh con người, mà nó được hình thành nhờ ngôn ngữ như là yếu tố liên kết các sự việc. Ngôn ngữ và thế giới là những hiện tượng tiên nghiệm, vượt lên cá nhân, trong quá trình hiểu một cái gì đó thì chúng ta mới đến được với chúng, sự tồn tại của chúng ta mới hiện hữu trong chúng.
Liên quan đến cái nhìn mới về ngôn ngữ, không thể không nói đến trường phái hình thức Nga với những công trình nghiên cứu về ngôn ngữ thơ của các nhà ngôn ngữ học trẻ tuổi thời đó. Cần nhìn nhận chủ nghĩa hình thức Nga không phải với tư cách là lý luận mĩ học đề xuất những vấn đề phương pháp luận, có như thế chúng ta mới thấy hết những nỗ lực của các nhà hình thức trong việc khám phá những phẩm chất độc đáo của chất liệu văn học, từ đó có cái nhìn đúng về bản chất của tác phẩm văn học và sự tiến triển của văn học. Những công trình nghiên cứu của Jakubinsky và Shklovsky đã cho thấy rằng có tồn tại một sự thực hành ngôn ngữ mà chức năng thông báo trực tiếp lùi ra phía sau, nói cách khác, trong thơ, việc sử dụng các từ mang nghĩa không có vai trò quyết định. Trong các công trình nghiên cứu của các nhà hình thức Nga4, bên cạnh việc phân tích chi tiết sự khác biệt giữa ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ văn xuôi, ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ đời sống, họ còn quan tâm đến sự phát triển của văn học hay sự vận động của các hình thức văn học. Từ đây, đối với các nhà hình thức Nga, đối tượng của khoa học văn học không phải là văn học mà là tính văn học. Đối với họ, hình thức không phải là cái nồi để đổ nước (nội dung) vào. Đặc trưng nghệ thuật không thể hiện qua những yếu tố nằm trong tác phẩm mà qua việc sử dụng một cách đặc trưng các yếu tố đó. Như vậy là khái niệm hình thức có được ý nghĩa mới mà không cần đến khái niệm nội dung bên cạnh. Việc các nhà hình thức khẳng định tính chất đặc biệt của ngôn ngữ văn học đã mở ra cho lý luận văn học cái nhìn mới về nhiều vấn đề của văn học. Bắt đầu bằng những nỗ lực của trường phái hình thức Nga trong việc nghiên cứu chất liệu văn học, tính văn học, lý luận văn học hiện đại thật sự quan tâm đến văn bản văn học. Việc làm này cho thấy sự khác biệt giữa văn bản văn học như là đối tượng của phân tích cấu trúc và văn bản văn học như là đối tượng của phân tích lịch sử. Từ đây, văn bản và sự tạo nghĩa, ký hiệu và chức năng thẩm mĩ trở thành những đối tượng quan tâm của lý luận văn học hiện đại. Chúng ta sẽ thấy những khả năng mới của lý luận văn học hiện đại trong việc khám phá và lý giải phương thức tồn tại của tác phẩm văn học, tính chủ ý và không chủ ý cũng như tính chất mở của văn bản văn học trong quan hệ với người đọc. Như là cấu trúc ngôn từ động, văn bản văn học là tập hợp các ký hiệu ngôn ngữ có đời sống riêng, với năng lượng ngữ nghĩa riêng, độc lập với tác giả của nó.
Liên quan đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ và xã hội, chúng ta không thể không nhắc đến nhóm các nhà khoa học xuất hiện ở chặng cuối của trường phái hình thức Nga, chịu ảnh hưởng của các nhà hình thức Nga và chủ nghĩa Marx. Đó là các tên tuổi M. Bakhtin, P. Medvedev và V. Voloshinov. Bakhtin và các đồng nghiệp đã nghiên cứu ngôn ngữ trong các tình huống xã hội và nhận thấy rằng lời nói luôn có tính đối thoại, ông viết: “Đối thoại là bản chất của ý thức, bản chất của cuộc sống con người... Sống tức là tham gia đối thoại: hỏi, nghe, trả lời, đồng ý... con người ra đi khi đã nói lời của mình, nhưng bản thân lời nói ấy còn lại mãi mãi trong cuộc đối thoại không bao giờ kết thúc”5. Theo Bakhtin, việc phổ cập tính hội thoại và phiếm thoại làm nên sự thống nhất của ngôn ngữ chứ không phải là lời nói cá thể hay các yếu tố sáng tạo của câu. Như vậy, thông điệp của lời nói còn phụ thuộc vào người đối thoại chứ không chỉ phụ thuộc vào người phát ngôn. Quan điểm này của Bakhtin về tính đối thoại nội tại của lời nói không chỉ soi sáng những đặc điểm của ngôn ngữ tiểu thuyết mà còn giúp chúng ta có cái nhìn khoa học hơn về vấn đề tác phẩm văn học nói chung.
Chúng tôi đồng ý với ý kiến cho rằng không nên nhìn nhận sự phát triển của tư duy lý luận văn học hiện đại theo các giai đoạn một cách quá rạch ròi, máy móc. Quá trình hiện đại hóa tư duy lý luận văn học trên thế giới có thể chia làm ba giai đoạn là tiền hiện đại, hiện đại và hậu hiện đại.
Tuy nhiên, chúng ta không thể xác định một cách chính xác ngày tháng bắt đầu và kết thúc của mỗi giai đoạn. Tư duy lý luận văn học hiện đại phát triển một cách liên tục, ngay cả khi những quan điểm và mô hình lý luận văn học đến sau có xu hướng phủ nhận những quan điểm và mô hình lý luận văn học có trước. Trong tinh thần đó, mặc dù những quan điểm giải cấu trúc của Jacques Derrida về ngôn ngữ là mới và có tính chất phủ định những quan điểm mà chúng tôi vừa nêu ở trên đây thì chúng tôi vẫn thấy cần phải nhắc tới ở đây như một sự tiếp nối của tư duy lý luận văn học hiện đại, ở mức cao hơn. Trước hết, Derrida đã cho thấy những vấn đề cần xem xét lại trong quan niệm ngôn ngữ học hiện đại và chủ nghĩa cấu trúc. Derrida nghi ngờ khái niệm tính ngôn ngữ được quan niệm theo phương pháp cấu trúc - hình thức của chủ nghĩa hiện đại. Cái mới trong cách tiếp cận của ông không phải là việc đưa vào vị trí của khái niệm cũ một khái niệm mới mà ở việc ông đã chỉ ra cái nền tảng của logic tư duy dẫn đến chủ nghĩa hiện đại đã trở nên có vấn đề. Ngay ở phần đầu của tác phẩm Văn phạm học6, Derrida đã nói về sự giảm giá của từ, về sự lạm phát của ký hiệu ngôn ngữ. Derrida cho rằng ở nơi sâu lắng của ngôn ngữ có một trò chơi liên tục di chuyển, trong khuôn khổ của sự di chuyển này, các ký hiệu được tạo thành những hệ thống khác biệt, không ổn định; rồi lại có những khác biệt mới xuất hiện, được tổ chức và sau đó tan rã. Ông nhấn mạnh rằng những khác biệt của ngôn ngữ là vô tận và không ổn định. Như vậy, các cấu trúc chỉ bề ngoài là có vẻ ổn định, mọi cấu trúc, đằng sau vẻ tin cậy bề ngoài là sự bấp bênh, là giải cấu trúc. Derrida phê phán cái vương quốc ký hiệu và nghĩa của chủ nghĩa cấu trúc. Như chúng ta đã biết, các lý thuyết ngôn ngữ học hiện đại về nghĩa đã xuất hiện hồi đầu thế kỷ XX với hai xu hướng chính: Hướng thứ nhất lấy việc nghiên cứu mối quan hệ giữa kết cấu nghĩa và cái hiện thực liên quan làm mục đích. Hướng thứ hai đặt vấn đề là do đâu mà có việc những ký hiệu nhất định lại liên quan đến những hiện thực nhất định? Cái gì xác lập mối quan hệ giữa ký hiệu và hiện thực? Theo hướng thứ hai này có triết gia người Đức là Edmund Husserl với những quan điểm hiện tượng học về ngôn ngữ mà chúng tôi đã nói đến ở phần trên và Ferdinand de Saussure với công trình Nhập môn ngôn ngữ học đại cương. Husserl cho rằng ngôn ngữ đích thực là sự thể hiện, là ý muốn thể hiện một nghĩa thông qua người phát ngôn. Sự thể hiện của người phát ngôn là mang tính chủ ý và tính ý hướng, tức là bản chất của nghĩa đã có trong ý thức của người phát ngôn.
Derrida không chấp nhận quan điểm này của Husserl về ngôn ngữ. Ông cho rằng ý thức của người phát ngôn (ở văn bản văn học là tác giả) không hề có ưu thế vượt trội lên nghĩa của ngôn từ. Tác giả chỉ phát hiện được nghĩa của ngôn từ qua việc viết ra nó, hầu như nhà văn đối diện với những cái biểu đạt độc lập với anh ta. Cái biểu đạt tự nó nói nhiều hơn, ký hiệu được viết ra không phải là cái gửi đi mà chỉ là cái nhà văn nhận được. Nhà văn không nói ra điều gì bằng ký hiệu, mà chính việc sử dụng các ký hiệu tạo điều kiện để nhà văn có được sự đối thoại. Derrida cho rằng những cái biểu đạt vĩ đại hơn rất nhiều so với những cái được biểu đạt, bởi vì hệ thống những cái biểu đạt phân chia cái thế giới đang có quanh ta và rất nhiều điều sở dĩ không có đối với ta là vì chúng ta không có đủ cái biểu đạt để nói về chúng. Xuất phát từ quan điểm này, Derrida đã xem văn bản văn học là không khép kín, nghĩa của nó không tùy thuộc vào tác giả hay mối quan hệ với hiện thực. Việc đọc hết một văn bản văn học cũng tạo nghĩa như là việc viết ra nó, thậm chí tất cả sự viết thực ra cũng là đọc văn bản. Đến đây, chúng ta thấy Derrida đã nâng vấn đề đọc lên tầm vấn đề triết học. Với công trình Văn phạm học, Derrida đã cắt đứt với những định nghĩa thông thường về văn học của chủ nghĩa hiện đại, theo đó văn học là sự sử dụng ngôn ngữ đặc biệt, là biến thể đặc trưng của ngôn ngữ thường nhật. Giải cấu trúc cho rằng không thể gọi văn học là ngôn ngữ ăn theo, là sự điều chỉnh ngôn ngữ thường nhật, mà ngược lại cần phải hiểu cái ngôn ngữ đã được đặc trưng hóa của triết học như là biến thể đặc trưng của ngôn ngữ văn học, thậm chí có thể cắt nghĩa ngôn ngữ thông thường như là phương thức biểu hiện đã quên mất tính ẩn dụ và hư cấu. Ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ tự do, nó cho phép mọi đặc điểm ngôn ngữ xuất hiện. Không thể xác định ngôn ngữ văn học bằng cách đối chứng nó với những đặc điểm của ngôn ngữ phi văn học. Văn bản văn học vượt lên mọi định nghĩa về nó, tác phẩm văn học không phải là hình thức ngôn ngữ đặc trưng mà là hình thức đọc đặc trưng, Derrida nhấn mạnh.
2. Từ mĩ học sáng tạo đến mĩ học tiếp nhận
Qua những khám phá về bản chất của ngôn ngữ, chúng ta có thể thấy rằng tùy theo cách nhìn về bản chất của ngôn ngữ mà tư duy lý luận văn học hiện đại có cách tiếp cận tương ứng với bản chất của văn học. Chúng ta cũng thấy rằng đằng sau cái nhìn mới về ngôn ngữ là những tư tưởng triết học mới và tại sao sự phát triển của tư duy lý luận văn học hiện đại, hậu hiện đại không thể tách rời triết học ngôn ngữ. Chính những ý kiến khác nhau, thậm chí phủ định lẫn nhau về bản chất của ngôn ngữ đã làm cho tư duy lý luận văn học luôn phải tự thay đổi cho phù hợp với những phát hiện mới về đối tượng. Với việc nhận ra sự khác biệt giữa văn bản văn học và tác phẩm văn học, lý luận văn học hiện đại đã vượt lên tư duy lý luận văn học tiền hiện đại. Nếu trước đó, tư duy lý luận văn học tiền hiện đại (nhất là khoa học văn học thực chứng) chỉ nhấn mạnh đến mối quan hệ nhân quả, đề cao yếu tố môi trường, tác giả... thì lý luận văn học hiện đại đã nhận ra những yếu tố đặc thù của văn bản văn học và phương thức tồn tại của tác phẩm văn học thông qua người đọc. Từ chỗ lấy mĩ học sáng tạo làm cơ sở, tư duy lý luận văn học hậu hiện đại đã từng bước khẳng định vai trò quan trọng của mĩ học tiếp nhận. Sẽ không sai nếu nói rằng tư duy lý luận văn học hậu hiện đại đã đưa vấn để đọc lên tầm triết học7. Có thể nói những thành tựu của lý luận văn học hiện đại đã thể hiện những bước tiến quan trọng trong việc khám phá văn bản văn học như là cấu trúc ngôn từ động. Nhưng rồi tư duy lý luận văn học hậu hiện đại đã có những khám phá mới hơn về đặc trưng bản thể của văn bản văn học trong quan hệ với những yếu tố khác, với người tiếp nhận. Các lý thuyết hậu hiện đại (giải cấu trúc) cho rằng nghĩa của văn bản văn học không ổn định, nó mang tính quan hệ và được tạo nên do một quá trình. Tiếp theo khái niệm nghĩa đang tồn tại của lý luận văn học hiện đại là khái niệm nghĩa được thiết lập của lý luận văn học hậu hiện đại. Câu hỏi phương thức tồn tại của tác phẩm văn học là gì đã nêu lên hai vấn đề phải đề cập đến. Một là tính chất ngôn ngữ, cái quyết định đặc trưng văn học của văn bản; hai là khả năng tạo lập một đời sống cụ thể của văn bản văn học. Cả hai đều liên quan đến quá trình xâm nhập đời sống của văn bản văn học, nói chính xác hơn, đó là quá trình tự tạo ra đời sống của văn bản. Như vậy là sau khi lý luận văn học hiện đại xác định được vai trò trung tâm tạo nghĩa của văn bản văn học, độc lập với tác giả và môi trường ra đời của nó, lý luận văn học hậu hiện đại đã khám phá ra quá trình tạo lập đời sống của văn bản văn học trong quan hệ với sự tiếp nhận của người đọc. Đây là cơ sở để lý luận văn học hậu hiện đại thể hiện tham vọng lấy mĩ học tiếp nhận thay cho mĩ học sáng tạo.
Chúng tôi xin nhấn mạnh rằng chỗ dựa lớn nhất của tư duy lý luận văn học hiện đại và hậu hiện đại là những tư tưởng triết học. Thực ra, trong những cái nhìn mới về ngôn ngữ mà chúng tôi vừa phân tích trên đây đều có dấu ấn của hiện tượng học (từ M. Heidegger, H. G. Gadamer, P. Ricœur, R. Ingarden đến trường phái hình thức Nga đều chịu ảnh hưởng của hiện tượng học, với mức độ đậm nhạt khác nhau). Trong chuyên luận Tác phẩm văn học như là quá trình8 , chúng tôi đã đi sâu vào hiện tượng học. Để thấy rõ hơn vai trò của mĩ học tiếp nhận, chúng tôi xin nhắc lại ở đây một số quan điểm cơ bản của hiện tượng học. Trước hết, hiện tượng học bắt đầu bằng bản thể học, nó loại trừ thế giới như là khách thể tự thân để nhấn mạnh sự sinh thành của cái thế giới có giá trị siêu nghiệm nhờ hoạt động của ý thức chủ quan có tác dụng tạo lập. Edmund Husserl cho rằng chúng ta không thể tin vào sự tồn tại độc lập của các sự vật và đối tượng của nhận thức không tồn tại ngoài ý thức của chủ thể đang hướng tới nó. Các khách thể chỉ tồn tại thông qua ý thức như là những sự vật có ý hướng. Đối tượng của nhận thức được tạo ra nhờ trực giác hướng vào nó. Khái niệm trung tâm của hiện tượng học là tính chủ ý của ý thức hướng tới khách thể, không có khách thể nếu không có chủ thể. Ý thức không thụ động mà luôn chủ động tạo lập và ý hướng thế giới. Chủ thể nhận thức luôn phải quy giản cái thế giới bên ngoài cho phù hợp với nội dung của ý thức, mọi dữ kiện đều cần phải đối xử như là “hiện tượng” trong những giới hạn của hoạt động ý thức. Nói cách khác, nếu chúng ta muốn nắm bắt một hiện tượng thì chúng ta cần phải nắm bắt cái gì là bản chất và bất biến trong hiện tượng đó. Phải trở về với chính sự vật và tìm lại ý nghĩa của bản thể trong sự phong phú về chân lý của nó. Không phải ngẫu nhiên ngay ở những trang đầu của công trình Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng9, Trần Đức Thảo cho rằng Husserl với một độ chính xác chưa từng có đã phục hồi ngay chính ý nghĩa của nhận thức là nhận thức về chân lý. Theo Trần Đức Thảo, Husserl độc đáo ở chỗ đã tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề của chủ nghĩa duy lý trong hoạt động của ý thức chủ quan có tác dụng tạo lập. Như vậy, hiện tượng học của Husserl không phủ nhận tính khách quan của thế giới nhưng lại quan niệm thế giới này là tập hợp của những sự vật rơi vãi hỗn loạn mà ý nghĩa của chúng chỉ có được thông qua hoạt động ý thức chủ quan của con người. Giữa con người và thế giới tự nhiên không phải được kết nối bằng các mối liên hệ nhân quả mà bằng các quan hệ hiện tượng. Các sự vật chỉ tồn tại đối với tôi khi tôi tri giác chúng.
Trong lý luận văn học hiện đại, Roman Ingarden là người đã vận dụng hiện tượng học một cách triệt để và hiệu quả nhất qua công trình Tác phẩm văn học10. Theo cách phân tích đối tượng của hiện tượng học, R. Ingarden đã nhìn nhận tác phẩm văn học như là khách thể mang tính chủ ý. Và như một khách thể mang tính chủ ý thì đời sống của tác phẩm văn học cũng phụ thuộc vào những hoạt động cụ thể hóa (đọc) văn bản có chủ ý của người đọc hướng tới nó. Một mặt, tồn tại một văn bản văn học như là sản phẩm sơ lược với những chỗ trống và những sự việc chưa xác định giống như một bộ xương. Mặt khác, thông qua sự cụ thể hóa (đọc) như là hoạt động của ý thức hướng về nó mà bộ xương được đắp thêm da thịt và tác phẩm văn học hình thành. Tính chất của sự cụ thể hóa này phụ thuộc vào người đọc và bản thân tác phẩm cũng hiện ra đúng với diện mạo của nó nếu gặp được sự cụ thể hóa lý tưởng. Sự cụ thể hóa văn bản của người đọc mà Ingarden nói ở đây chính là hoạt động có chủ ý của ý thức hướng tới đối tượng, theo tinh thần của hiện tượng học.
Với sự xuất hiện của mĩ học tiếp nhận, cái văn bản văn học mang thông điệp đối thoại có được vị thế mới: làm đối tác đối thoại, tức là không phải sự giải mã thông điệp có trong văn bản làm xuất hiện nghĩa mà chính các hoạt động liên kết được thực hiện trong quá trình đọc tạo nên cấu trúc nghĩa có phương thức tồn tại là sự đối thoại. Đây là đóng góp có ý nghĩa lý luận của mĩ học tiếp nhận nói riêng và lý luận văn học hậu hiện đại nói chung. Trong thực tế, trường phái mĩ học tiếp nhận Konstanz (Đức) tập hợp những cố gắng khoa học của các cá nhân khác nhau, với tên tuổi của hai nhà khoa học xuất sắc là Hans Robert Jauss và Wolfgang Iser. Về mặt lý thuyết, giữa H. R. Jauss và W. Iser cũng có những khác biệt về quan điểm. Jauss xây dựng lý thuyết của mình từ người đọc lịch sử, còn W. Iser thì nghiêng theo hướng hiện tượng học đã được hậu hiện đại hóa, với người đọc tiềm ẩn trong văn bản. Công trình lý luận Thế giới của sự diễn giải (2000)11 được Wolfgang Iser viết trực tiếp bằng tiếng Anh và ngay lập tức được dịch ra nhiều thứ tiếng. Cũng cần nói thêm là công trình này của W. Iser ra đời khi ở phương Tây đang thịnh hành lý thuyết cộng đồng diễn giải, với nhiều cách lý giải khác nhau. Ở hệ thống quan điểm của H. R. Jauss, có nhiều đặc điểm hiện đại liên quan đến chủ nghĩa hình thức Nga và Séc, kể cả những quan niệm tưởng giải học hậu hiện đại. Như vậy, xu hướng tường giải học mĩ học tiếp nhận có hai nguồn phát sinh: một là tường giải học của H. G. Gadamer, hai là chủ nghĩa cấu trúc Séc và hiện tượng học. Công trình Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học văn học (1967)12 của Hans Robert Jauss đã nổi tiếng như là tuyên ngôn của trường phái mĩ học tiếp nhận Đức. Với quan niệm cái hữu thể (tác phẩm nghệ thuật) có thể xác định như là sự khám phá được xảy ra trong một kết cấu tưởng tượng (trong tình thế tiếp nhận), mĩ học tiếp nhận đã bác bỏ tính chất khép kín của văn bản văn học mà mĩ học sáng tạo trước đây vẫn bảo vệ, thay vào đó là tính chất mở và dấu ấn cá nhân. Mĩ học tiếp nhận nêu lên những giá trị dễ thay đổi, trực tiếp gắn liền với cá nhân người đọc thông qua quá trình cụ thể hóa văn bản. Người tiếp nhận đối thoại và tái tạo tác phẩm và tác phẩm tái tạo người đọc. Từ đây, lịch sử văn học không chỉ đơn giản là con số cộng các tác giả và tác phẩm mà còn được hiểu là các tác phẩm và người tiếp nhận trong những biến chuyển lịch sử của nó. Lý thuyết cộng đồng diễn giải xuất hiện trên cơ sở mĩ học tiếp nhận đã kêu gọi người đọc suy nghĩ về văn học như nghĩ về cái thiết chế tập hợp các loại diễn giải khác nhau.
3. Mô hình phản ánh nghệ thuật
Thời gian gần đây, tôi thật sự phải suy nghĩ trước cách nghĩ của Jacques Derrida trong tác phẩm Những bóng ma của Marx (1993). Ở thời điểm mà không ít người dao động sau khi bức tường Berlin sụp đổ thì J. Derrida đã viết cuốn sách này nhằm phê phán khái niệm “sự kết thúc của lịch sử” mà Francis Fukuyama đưa ra trong cuốn sách Sự kết thúc của lịch sử và người cuối cùng (1992). Trong tác phẩm Những bóng ma của Marx, tác giả J. Derrida đã khẳng định rằng không thể loại bỏ Marx ra khỏi di sản văn hóa của chúng ta một cách đơn giản. Ông viết: “cần phải thừa kế di sản của chủ nghĩa Marx, thừa kế phần sinh động nhất của chủ nghĩa đó, nghĩa là cái phần, nghịch lý thay, chưa kết thúc việc đưa lên bàn phân tích vấn đề về cuộc sống...”13.
Trong tinh thần đó, bức tranh lý luận văn học hiện đại sẽ không đầy đủ nếu chúng ta không nói đến hệ thống lý luận văn học Marxist. Trên cơ sở triết học Marx-Lenin và những ý kiến của Marx-Engels bàn về văn học, có thể nói từ năm 1870 đến hết thế kỷ XX, lý luận văn học Marxist, từ những nước có truyền thống mĩ học đến những nước không có truyền thống đó, đã hình thành và phát triển với nhiều sắc thái đa dạng. Cũng như hệ thống lý luận văn học hiện đại phương Tây, nói đến tính hệ thống của mĩ học và lý luận văn học Marxist không có nghĩa là chỉ nói đến sự thống nhất tuyệt đối của mọi quan điểm tạo nên hệ thống đó. Bên trong mỗi hệ thống triết học hay mĩ học đều có những khác biệt nhất định do mỗi nhà triết học hay mĩ học đều có hệ thống riêng của mình. Ở mỗi hệ thống riêng này lại có những hạn chế không tránh khỏi. Chúng tôi muốn có cái nhìn phân tích về hệ thống lý luận văn học Marxist nói chung và hệ thống lý luận văn học Marxist ở Việt Nam nói riêng trên một số vấn đề cơ bản nhất.
Một trong những vấn đề cơ bản đó là mối quan hệ khách thể - chủ thể mà các nhà lý luận văn học Marxist gọi là sự phản ánh, còn các nhà ký hiệu học gọi là mối quan hệ ký hiệu. Mô hình phản ánh hay mô hình ký hiệu thực ra đều cố gắng nắm bắt sự chuyển dịch từ hiện thực đến tác phẩm văn học, xem xét văn học, nghệ thuật trong mối liên hệ với hiện thực. Người có công tập hợp, hệ thống hóa các ý kiến của Marx-Engels-Lenin bàn về văn học, nghệ thuật là Lukács György, triết gia, nhà mĩ học lớn người Hungary. Mô hình phản ánh trong mĩ học Marxist gắn liền với tên tuổi của Lukács György. Những năm ba mươi của thế kỷ XX là thời kỳ Lukács xây dựng hệ thống các quan điểm mĩ học của mình về phản ánh nghệ thuật trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Xuất phát từ phản ánh luận của Lenin, Lukács nhấn mạnh quan điểm văn học phản ánh hiện thực “bằng các hình thức của đối tượng”. Ông khẳng định văn học, nghệ thuật như là ý thức của sự phát triển nhân loại. Cũng như Plekhanov, ông luôn trung thành với quan điểm văn học, nghệ thuật không tách rời đời sống xã hội. Cái khác ở Lukács là ông đã xác lập được hệ thống quan điểm mĩ học của mình về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực qua đặc trưng của phản ánh nghệ thuật. Trong khi Plekhanov cho rằng “muốn hiểu nghệ thuật phản ánh cuộc sống như thế nào thì cần phải hiểu cơ cấu của cuộc sống đó”14 thì Lukács nhấn mạnh đến thế giới riêng của sáng tạo nghệ thuật. Theo Lukács, sự say mê của người tiếp nhận là sự say mê hoàn toàn vào đặc trưng của cái “thế giới riêng” của tác phẩm, do tác phẩm đã phản ánh hiện thực trung thực hơn, hoàn thiện hơn, sinh động hơn cái mà người đọc có được về hiện thực. Có thể nói trong công trình Nghệ thuật và chân lý khách quan (1934)15 mà chúng tôi đã dịch sang tiếng Việt, Lukács đã thể hiện những quan điểm cơ bản của mĩ học Marxist về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực. So sánh tác phẩm Ảo ảnh và hiện thực của một nhà lý luận văn học Marxist khác của Anh là Ch. Caudwell với tác phẩm Đặc trưng của cái thẩm mỹ của Lukács György, chúng ta thấy những tương đồng và khác biệt bên trong hệ thống mĩ học của hai nhà mĩ học Marxist này. Trước hết, trong việc xác định đối tượng của phản ánh nghệ thuật. Theo Caudwell thì đối tượng của phản ánh nghệ thuật là “hiện thực bên trong” của con người, còn “hiện thực bên ngoài” là đối tượng của phản ánh khoa học. Caudwell viết: “Nghệ thuật có thể thay đổi thế giới cảm xúc, tức là thế giới hiện thực bên trong, còn khoa học thay đổi thế giới của các hiện tượng, tức là thế giới hiện thực bên ngoài”16. Lukács thì lại cho rằng nghệ thuật cũng như khoa học, đều phản ánh cùng một hiện thực. Lukács gắn bó với yêu cầu về chủ nghĩa hiện thực, về tính chân thực của sự phản ánh; còn Caudwell nhấn mạnh tính chân thực lịch sử của thái độ và tư tưởng của nhà văn, tức là nhấn mạnh vai trò của chủ thể sáng tạo. Ông viết: “Thơ ca với việc sử dụng ngôn ngữ của nó, thường xuyên bóp méo và phủ nhận cấu trúc hiện thực để giữ lại cấu trúc của cái tôi”17. Cần nói thêm là giữa các nhà lý luận văn học Marxist như Ernst Fischer, Roger Garaudy, Theodor W. Adorno và Lukács György cũng có những khác biệt ý kiến về chủ nghĩa hiện thực. Khi bàn về các sáng tác của Franz Kafka, R. Garaudy và Th. W. Adorno đã không cùng chung quan điểm với Lukács György, còn Ernst Fischer thì xem ông là người bảo thủ. Th. W. Adorno phê phán Lukács đã đưa vào lĩnh vực nghệ thuật những phạm trù liên quan đến mối quan hệ giữa ý thức và hiện thực khách quan cứ như thể giữa nghệ thuật và hiện thực không hề có sự khác biệt nào cả: Adorno cho rằng giữa nghệ thuật và hiện thực có khoảng cách và cái khoảng cách này làm cho tác phẩm có khả năng phê phán hiện thực. Trong công trình Những ghi nhận về Kafka18 ông đã dẫn lời của Marcel Proust rằng: “Nếu Thượng đế tạo ra các sự vật bằng cách đặt tên cho chúng thì người nghệ sĩ tái tạo các sự vật bằng cách tước bỏ tên gọi của chúng, hoặc trao cho các sự vật cái tên khác”19.
Với quan điểm chống chủ nghĩa giáo điều, Th. W. Adorno, một trong những người sáng lập trường phái Frankfurt đã trở thành người đại diện lớn của mô hình tri thức phản chứng mà nhiều người đã nói đến.
Quả thực lý luận văn học Marxist đã quan tâm quá nhiều đến mối quan hệ giữa văn học và hiện thực, đến xuất xứ, nguyên nhân và các yếu tố khác liên quan đến sự ra đời của tác phẩm văn học. Một biến thể khác của mô hình phản ánh được nhắc đến nhiều là mô hình phát sinh gắn liền với tên tuổi của nhà lý luận xã hội học gốc Romania là Lucien Goldmann. L. Goldmann cho rằng cần phải dựa vào cơ sở nghiên cứu các mối liên kết giữa cấu trúc tác phẩm và cấu trúc thuộc về ý thức của các nhóm xã hội mà tác giả là thành viên. Trong công trình Chúa trời ấn náu (1955)20, L. Goldmann cho rằng nguồn gốc của các tác phẩm có thể tìm thấy trong ý thức và trong cách ứng xử xã hội, văn học không thể hiện cái tôi của tác giả mà thể hiện cái giai cấp xã hội mà nó lệ thuộc, ứng xử xã hội mà Goldmann hiểu ở đây là do hành động thống nhất của hai hoặc nhiều cá thể quy định, giống như một vật nặng được nâng bởi nhiều người. Goldmann tìm thấy sự đồng đẳng giữa cấu trúc ý thức của cái nhìn bi kịch và cấu trúc của tác phẩm văn học khi ông nghiên cứu các mối liên hệ giữa một nhóm xã hội và phong trào tôn giáo, giữa triết học Pascal và các vở bi kịch của Racine. Chúng ta dễ dàng nhận thấy ảnh hưởng của Lukács đối với tư duy lý luận văn học của L. Goldmann, thậm chí cả khái niệm đồng đẳng mà Goldmann sử dụng cũng có từ Lukács. Cả hai nhà lý luận đều đặt điều kiện trực tiếp về sự tương ứng hình thức giữa tác phẩm văn học và hiện thực xã hội.
Có thể nói “bóng ma” của Lukács cũng đã đến Việt Nam với mô hình phản ánh. Trong thực tế, từ những ngày đầu đến hôm nay, lý luận văn học Marxist ở Việt Nam chủ yếu vẫn phất cao ngọn cờ của chủ nghĩa hiện thực. So với trình độ phát triển lý luận văn học của một số nước trên thế giới mấy chục năm qua, lý luận văn học Marxist ở Việt Nam chỉ mới ở trình độ khiêm tốn. Tính từ Văn học khái luận (1944) của Đặng Thai Mai, sự vận động của tư duy lý luận văn học hiện đại ở Việt Nam luôn cho thấy những nỗ lực tiếp nhận cái mới và hội nhập với bên ngoài. Nhưng những nỗ lực đó xuất hiện không đều và không phải lúc nào cũng đủ mạnh để tạo ra những cú hích thật sự, tạo thành trường phái học thuật. Vì sao vậy? Vì chúng ta chưa có mặt bằng tư duy lý luận truyền thống tương ứng có thể làm chỗ dựa thuận lợi cho sự chuyển đổi hệ hình tư duy lý luận văn học hiện đại.
Chúng ta không có thời gian cho tư duy tư biện, cho nghiền ngẫm và khắc khoải trước các vấn đề học thuật. Mô hình phản ánh đã bị quan niệm một cách đơn giản và thô thiển. Cả thế giới đều biết mô hình phản ánh trong lý luận văn học Marxist cùng với những giới hạn của nó, gắn liền với tên tuổi Lukács György, nhưng ở Việt Nam, thậm chí những công trình mĩ học quan trọng nhất của ông cũng không được giới thiệu và nghiên cứu. Người ta chỉ dựa vào câu nói của Lenin về L. Tolstoy như là “tấm gương phản ánh cách mạng Nga” làm xuất phát điểm cho mọi lập luận liên quan đến mối quan hệ giữa văn học và hiện thực. Thay vì nỗ lực khám phá bản chất của văn học, lý luận văn học ở nước ta đã dành ưu tiên cho việc đề cao hiện thực, cái hiện thực đã bị tinh thần duy ý chí áp đặt từ trước. Chúng ta đều biết, cùng với sự phát triển của khoa học văn học, đã hình thành hai hệ thống chuyển tiếp quan trọng được thiết chế hóa, đó là phê bình văn học và giảng dạy văn học trong nhà trường. Hai hệ thống này chuyển tiếp những mô hình diễn giải liên quan đến tác phẩm văn học, chúng giúp cho những người không nghiên cứu văn học một cách chuyên nghiệp vẫn có thể hiểu những tác phẩm văn học cần hiểu. Trong thực tế, mô hình diễn giải tác phẩm văn học ở nước ta cho đến hôm nay vẫn chịu sự chi phối của mô hình phản ánh. Nhà phê bình, giảng dạy văn học thay vì giúp mọi người nhận ra bản chất của văn chương, hay khả năng văn chương của ngôn ngữ, tiến tới chỉ ra sự vận động của tư duy nghệ thuật qua từng giai đoạn phát triển của văn học, thì trái lại, người ta chỉ quan tâm tới những yếu tố ngoài văn học thông qua tác phẩm văn học. Cách làm này đã dẫn đến nhiều thói quen tiếp nhận và đánh giá văn học một cách sai lầm và thô thiển, ảnh hưởng xấu đến hoạt động sáng tạo văn học, nghệ thuật. Những năm trước đây, chúng ta đã nhận ra vấn đề này nhưng vẫn chưa có những công trình lý luận nghiên cứu chuyên sâu một cách bài bản trên cơ sở học thuật. Mô hình phản ánh, một khi được nghiên cứu nghiêm túc, sẽ soi sáng nhiều vấn đề liên quan đến chủ nghĩa hiện thực, đến những giới hạn của văn học Việt Nam hiện đại.
Do quá nhấn mạnh đến mô hình phản ánh, tư duy lý luận văn học ở Việt Nam đã không quan tâm đến mô hình ngôn ngữ. Đây là đặc điểm của toàn bộ hệ thống lý luận văn học Marxist chứ không riêng gì ở Việt Nam. Lukács György chỉ thấy ở ngôn ngữ cái công cụ hình thức cao nhất, ông không xem ngôn ngữ là thực thể của tác phẩm. Nghiên cứu các công trình của L. Goldmann, chúng ta thấy nhà lý luận này cũng không xem cấu trúc ý thức là cấu trúc ngôn ngữ. Theo Goldmann, chính hiện thực đã tạo sẵn hình thức cho tác phẩm văn học qua cấu trúc của cái nhìn thế giới, theo tinh thần của chủ nghĩa cấu trúc sinh thành. Như chúng tôi đã phân tích ở phần trên, không phải ngẫu nhiên các xu hướng lý luận văn học hiện đại ở phương Tây đã khai thác ở đối tượng ngôn ngữ nhiều như vậy, bởi vì người ta đã ý thức rõ rằng tác phẩm văn học, xét từ phương thức tồn tại của nó, là sản phẩm của ngôn ngữ, là ký hiệu. Do nhận thức tác phẩm văn học không chỉ mang tính hiện thực mà còn có tính ký hiệu nên nhiều vấn đề liên quan đến văn học đã được tư duy lý luận văn học hiện đại phương Tây lý giải và soi sáng từ mô hình ngôn ngữ. Những nỗ lực trong việc nghiên cứu thi pháp ở nước ta, chính vì vậy, là rất đáng trân trọng và cần tiếp tục phát triển.
Còn có một đặc điểm chúng tôi muốn nói tới ở đây là trong tư duy lý luận văn học ở Việt Nam vẫn chưa có ý thức phân biệt giữa đối tượng nghiên cứu của lý luận văn học với đối tượng nghiên cứu của lịch sử văn học và phê bình văn học. Do nhập nhằng trước đối tượng nghiên cứu của lý luận văn học, người ta đồng nhất sự phân tích tác phẩm văn học cụ thể trong nghiên cứu lịch sử văn học và phê bình văn học với sự phân tích vấn đề tác phẩm trong lý luận văn học, nơi vai trò của những khái quát hóa lý luận và việc tiếp cận bản thể của tác phẩm văn học đều xảy ra trên bình diện trừu tượng. Cũng vì không phân biệt rõ đối tượng của lý luận văn học và đối tượng của nghiên cứu, phê bình văn học mà người ta thường cho rằng lý luận văn học gắn liền với văn học hiện đại hơn văn học cổ, cận đại. Nghiên cứu đồng đại cái hệ thống bên trong của tác phẩm văn học như các tầng bậc của tác phẩm, chức năng của chúng, các mối quan hệ bên trong của văn bản... là không phải công việc của lịch sử văn học. Văn học như là hoạt động ký hiệu, tác phẩm văn học như là hệ thống các ký hiệu, nghĩa và việc tổ chức nghĩa của tác phẩm là những vấn đề vượt quá khuôn khổ đối tượng của lịch sử văn học, chúng tạo nên hệ thống dành riêng cho lý luận văn học. Nói lý luận văn học trên thế giới ngày càng khoanh vùng được đối tượng nghiên cứu, chính là nói về sự xác lập đối tượng nghiên cứu riêng của lý luận văn học hiện đại.
Chú thích:
1 Martin Heidegger (1999): “Trên đường đến với ngôn ngữ” (Trương Đăng Dung dịch), Tạp chí Văn học nước ngoài, số 1.
2, 3 Hans-Georg Gadamer (1984), Chân lý và phương pháp (Bonyhai Gábor dịch), NXB. Gondolat, Budapest, tr. 282.
4 Xem Nghệ thuật như là thủ pháp (Đỗ Lai Thúy biên soạn, nhiều người dịch, NXB. Hội Nhà văn, 2001).
5 Dân theo Phạm Vĩnh Cư trong sách M. Bakhtin, Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Trường Viết văn Nguyễn Du xuất bản, 1992, tr. 12).
6 Xem Jacques Derrida, Văn phạm học (Molnár dịch, NXB. Életünk, Szombathely, 1991).
7 Thực ra quá trình này đã có từ những thập niên đầu thế kỷ XX. Sau khi trường phái hình thức Nga tan rã, Mukařovský đã quan tâm nghiên cứu những giá trị xuất hiện trong quá trình tiếp nhận. Ông cho rằng việc phân tích sự chủ ý có trong tính chất ký hiệu vẫn chưa đủ để hiểu tác phẩm, vì để hiểu tác phẩm văn học còn có sự không chủ ý nảy sinh từ tính chất của sự việc.
8 Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, NXB. Khoa học xã hội.
9 Xem Trần Đức Thảo (2004), Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng, NXB. Đại học Quốc gia.
10 Roman Ingarden (2001): “Tác phẩm văn học” (Trương Đăng Dung trích dịch), Tạp chí Văn học nước ngoài, số 3.
11 Wolfgang Iser (2004), Thế giới của sự diễn giải, NXB. Gondolat, Budapest.
12 Hans Robert Jauss (2002): “Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học văn học” (Trương Đăng Dung dịch), Tạp chí Văn học nước ngoài, số 1.
13 Jacques Derrida (1994), Những bóng ma của Marx, NXB. Chính trị quốc gia, tr. 119.
14 Plekhanov (1963), Nghệ thuật đời sống xã hội, NXB. Văn hóa nghệ thuật, tr. 283-284.
15 Lukács György (1999): “Nghệ thuật và chân lý khách quan” (Trương Đăng Dung dịch), Tạp chí Văn học nước ngoài, số 6.
16 Ch. Caudwell (2000): “Ảo ảnh và hiện thực” (Trương Đăng Dung trích dịch), Tạp chí Văn học nước ngoài, số 5, tr. 189.
17 Ch. Caudwell (1960), Ảo ảnh và hiện thực, NXB. Gondolat, Budapest, tr. 199-200.
18 Theodor W. Adorno (1998), Những ghi nhận về Kafka (trong sách Nghệ thuật và các nghệ thuật, NXB. Helikon, Budapest, tr. 134-143), tr. 134.
20 Lucien Goldmann (1997), Chúa trời ẩn náu, (Pödör Lászlo dịch), NXB. Gondolat, Budapest.