1. Thực trạng giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn học, nghệ thuật - những vấn đề đặt ra
1.1. Nhận thức chưa đầy đủ về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, văn học, nghệ thuật
Hướng tới mục tiêu phát triển “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò to lớn của văn hoá và văn học, nghệ thuật. Trong nhận thức của Đảng, văn hoá và kinh tế không phải là hai lĩnh vực tách rời mà có mối quan hệ chặt chẽ. Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII Về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ngày 16 tháng 7 năm 1998 chỉ rõ: “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”1. Trong văn kiện này, Đảng đã cụ thể hoá một số nội dung liên quan đến chính sách “kinh tế trong văn hoá” và “văn hoá trong kinh tế”. Đến Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới, Đảng ta khẳng định “văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hoá”, đồng thời gắn phát triển văn học, nghệ thuật với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá hoá đất nước và hội nhập quốc tế. Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 của Bộ Chính trị Về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước chủ trương “xây dựng thị trường văn hoá lành mạnh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hoá, tăng cường quảng bá văn hoá Việt Nam”. Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của văn hoá và nhấn mạnh mối quan hệ chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hoá. Trong nhận thức của Đảng, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, văn học, nghệ thuật là mối quan hệ hai chiều, sự tương hỗ giữa chúng phản ánh xu thế nổi bật của phát triển đương đại là kinh tế trong văn hoá và văn hoá trong kinh tế. Một mặt, tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện để đầu tư cơ sở hạ tầng văn hoá; mặt khác, các sản phẩm kinh tế đương đại luôn mang chứa hàm lượng trí tuệ văn hoá cao và giàu tính thẩm mĩ. Văn hoá và văn học, nghệ thuật, đặc biệt là công nghiệp văn hoá, vừa có thể thu được lợi ích kinh tế từ thị trường vừa thông qua quảng bá và gắn kết du lịch mà mở rộng độ phủ sóng của các thương hiệu kinh tế, từ đó, nâng cao sức cạnh tranh kinh tế và sức mạnh tổng hợp quốc gia.
Tuy nhiên, trong thực tế, việc nhận thức mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn học, nghệ thuật ở nhiều cơ quan trung ương và địa phương còn phiến diện, chưa đầy đủ. Biểu hiện rõ nhất của sự phiến diện này là quá chú trọng phát triển kinh tế mà xem nhẹ vai trò văn hoá, văn học, nghệ thuật, coi văn học, nghệ thuật chỉ là những hoạt động mang tính phong trào, hoàn toàn phụ thuộc vào kinh tế. Trong khi ở nhiều quốc gia phát triển và quốc gia mới nổi như Mĩ, Nhật Bản, Pháp, Trung Quốc, Hàn Quốc… văn hoá, đặc biệt là công nghiệp văn hoá, được coi là ngành công nghiệp quan trọng, tạo ra nhiều giá trị gia tăng và việc làm thì rõ ràng, vấn đề mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, văn học, nghệ thuật cần được nhận thức lại một cách sâu sắc, toàn diện hơn.
1.2. Tăng trưởng kinh tế nhanh nhưng đầu tư cho văn học, nghệ thuật chưa tương xứng, khoảng cách thụ hưởng giá trị nghệ thuật lớn
Tính từ Đổi mới (1986) đến nay, Việt Nam là một điểm sáng về tăng trưởng kinh tế với mức GDP tăng trung bình hàng năm từ 6-7%/năm2. So với trước đây, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ta đã được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, việc đầu tư cho phát triển văn hoá, văn học, nghệ thuật còn thấp. Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch cho biết, theo Kết luận số 30-KL/TW ngày 20/7/2004 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đầu tư cho văn hoá chỉ ở mức 1,8% tổng chi ngân sách Nhà nước3. Rõ ràng đây là mức đầu tư còn khiêm tốn, chưa đủ sức kích hoạt tiềm năng to lớn để phát triển văn hoá theo đúng chủ trương của Đảng.
Mặt khác, thiết chế văn hoá, văn học, nghệ thuật chưa được hoàn thiện và chưa đồng bộ. Hệ thống nhà xuất bản, báo chí, trung tâm nghệ thuật, thư viện còn nghèo nàn. Nhiều địa phương hoạt động văn hoá, văn học, nghệ thuật cầm chừng, kém hiệu quả.
Một thực tế đáng chú ý là khoảng cách giữa tăng trưởng kinh tế và thụ hưởng giá trị văn học, nghệ thuật chưa đồng đều. Trong thời gian qua, chúng ta đã xây dựng nhiều trung tâm kinh tế trọng điểm quan trọng. Tuy ở các trung tâm kinh tế này, mức sống vật chất của người dân khá cao nhưng không gian văn hoá, nghệ thuật công cộng lại chưa được quan tâm đúng mức. Ngoại trừ một số đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh có hệ thống thư viện, bảo tàng, rạp chiếu phim khá hoàn chỉnh, phần lớn các tỉnh lỵ khác lại chưa chú trọng hình thành hệ sinh thái văn hoá, văn học, nghệ thuật rộng mở để đáp ứng nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của người dân. Thị trường văn học, nghệ thuật thời gian qua tuy đã được thiết lập nhưng yếu và thiếu, chưa thu hút được sức mua của người tiêu dùng văn hoá.
Giữa các vùng miền, các địa phương có sự chênh lệch lớn trong tiếp cận và hưởng thụ giá trị văn hoá, văn học, nghệ thuật. So với các đô thị lớn, số người đọc sách báo ở các địa bàn thuộc vùng sâu, vùng xa ít hơn hẳn. Thậm chí, có những “vùng trắng” về văn hoá đọc4. Ở đó, người dân chủ yếu giải trí hoặc nắm thông tin văn hoá qua các phương tiện truyền thông phổ biến như truyền hình, điện thoại di động mà ít có hình thức sinh hoạt văn hoá nào khác.
1.3. Cơ chế khuyến khích sáng tạo văn học, nghệ thuật chưa hoàn thiện
Đến nay, nhiều luật hoặc văn bản pháp quy, văn bản điều chỉnh về các lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật chưa hoàn chỉnh hoặc chưa có những điều chỉnh cho phù hợp với sự phát triển của thực tiễn. Chẳng hạn, giữa năm 2025, chúng ta mới bắt đầu xây dựng nghị định quy định về khuyến khích phát triển văn học để trình Chính phủ thông qua. Điều đó cho thấy thể chế, cơ chế phát triển văn học, nghệ thuật chưa bắt kịp nhịp điệu phát triển chung và chưa đủ sức kích hoạt tính năng động của thị trường nghệ thuật. Đáng lưu ý là thời gian qua, trong khi sân chơi của văn học, nghệ thuật tinh hoa bị thu hẹp thì văn học, nghệ thuật đại chúng lại bùng nổ. Tiểu thuyết ngôn tình, phim kiếm hiệp, dã sử, xuyên không… tràn ngập thị trường. Đây là một thực tế đòi hỏi các nhà quản lý văn hoá và đội ngũ hoạt động văn học, nghệ thuật phải tìm ra giải pháp phù hợp để bảo đảm sự phát triển lành mạnh của đời sống và thị trường văn học, nghệ thuật nước nhà.
2. Giải pháp hài hoà mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn học, nghệ thuật
2.1. Quan điểm, cơ sở nhận thức
Về quan điểm gắn kết/ tích hợp giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn học, nghệ thuật đã được Đảng đề cập đến trong nhiều văn kiện, nghị quyết, chỉ thị, kết luận… Mục tiêu phát triển đất nước mà Đảng và Nhà nước ta xác định là phát triển toàn diện, bền vững. Vì thế, cấp uỷ và chính quyền các cấp cũng như các cơ quan, đơn vị văn hoá, văn học, nghệ thuật cần phải nhận thức đầy đủ mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn học, nghệ thuật.
Trước hết, tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện, cung cấp nguồn tài chính dồi dào để hoàn thiện thể chế, hỗ trợ phát triển hệ sinh thái sáng tạo văn học, nghệ thuật hiệu quả, hoàn thiện cơ sở hạ tầng văn hoá như nền tảng số, hệ thống thư viện, bảo tàng, các trung tâm văn hoá, nghệ thuật nhằm kết nối hiệu quả giữa sáng tạo và tiếp nhận, mở rộng thị trường văn học, nghệ thuật. Bên cạnh đó, tăng trưởng kinh tế sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp văn hoá, kích hoạt tính năng sản của xuất bản, sân khấu, điện ảnh, biểu diễn, triển lãm, du lịch… bảo đảm hài hoà hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế trong lĩnh vực văn hoá, văn học, nghệ thuật.
Ở chiều ngược lại, văn học, nghệ thuật hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế. Sáng tạo văn học, nghệ thuật sẽ góp phần quảng bá hình ảnh thương hiệu quốc gia, nâng cao năng lực cạnh tranh kinh tế - văn hoá. Văn học, nghệ thuật cũng tạo nên những sản phẩm văn hoá - du lịch mang lại những nguồn thu nhập quan trọng. Thông qua việc mở rộng và hoàn chỉnh hệ thống bảo tàng, xuất bản, điện ảnh và festival văn hoá, văn học, nghệ thuật có khả năng thu hút khách tham quan, du lịch đến tìm hiểu Việt Nam và trở thành những “Thượng đế” tiêu thụ sản phẩm, mang lại hiệu quả kinh tế to lớn.
Văn học, nghệ thuật với tư cách là những sáng tạo tinh thần cũng góp phần đào tạo, nuôi dưỡng nguồn nhân lực cho nền kinh tế tri thức, tăng cường hàm lượng tri thức văn hoá cho tăng trưởng, phát triển kinh tế.
2.2. Hệ giải pháp khả thi
Để thúc đẩy sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn học, nghệ thuật vì mục tiêu phát triển bền vững, trong thời gian tới, chúng ta cần xây dựng hệ giải pháp mang tính đồng bộ, nhưng trước hết, cần chú ý ba nhóm giải pháp cơ bản sau đây:
2.2.1. Giải pháp về chính sách và cơ chế quản lý
Trước hết, để văn hoá, văn học, nghệ thuật đáp ứng tốt yêu cầu mới của thời đại, cần tăng tỉ trọng đầu tư cho văn học, nghệ thuật bằng ngân sách nhà nước. Tại Hội nghị Văn hoá toàn quốc năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Đối với công tác quản lý nhà nước, cần sớm khắc phục tình trạng chậm thể chế hoá đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng thành luật pháp và chính sách cụ thể, khả thi về phát triển văn hoá, xây dựng con người”5. Hiện nay, vẫn còn “khoảng trống” trong khung khổ pháp lý (luật, pháp lý điều chỉnh) để phát triển văn hoá như nghệ thuật biểu diễn, mĩ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm… Trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật cũng chưa có các quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của nghệ sĩ, nghị định khuyến khích sáng tạo văn học… Tuy nhiên, việc đầu tư cho văn học, nghệ thuật cần đặc biệt ưu tiên những vùng trọng điểm, tránh đầu tư dàn trải, manh mún. Ở đây, cần phân biệt rõ khu vực đầu tư để xác định nguồn đầu tư nào thuộc về Nhà nước, nguồn đầu tư nào theo hình thức công-tư hoặc do tư nhân thực hiện theo phương thức xã hội hoá.
Để tăng cường nguồn lực cho văn học, nghệ thuật, cần có chính sách khuyến khích thành lập quỹ hỗ trợ và đa dạng hoá các loại quỹ.
Cần nhanh chóng đổi mới cơ chế đãi ngộ văn nghệ sĩ tài năng, thể hiện thái độ tri ân, “uống nước, nhớ nguồn” vì những đóng góp to lớn của họ đối với Tổ quốc, nhân dân. Mặt khác, chú ý đổi mới hệ thống giải thưởng nhằm tôn vinh tài năng và cống hiến của cá nhân, tập thể trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, từ đó động viên các thế hệ văn nghệ sĩ nỗ lực sáng tạo nên những giá trị nghệ thuật xuất sắc, nâng tầm văn hoá dân tộc trên trường quốc tế.
2.2.2. Giải pháp về thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, các sản phẩm văn học, nghệ thuật cũng là hàng hoá, phải tuân thủ quy luật cung cầu của thị trường. Vì thế, để mở rộng thị trường văn học, nghệ thuật, phải chú trọng xây dựng và hoàn thiện chuỗi cung ứng giá trị: sáng tác - tiêu thụ - quảng bá - du lịch. Chuỗi cung ứng này về cơ bản được vận hành khác hẳn mô hình truyền thống vì các chủ thể hoạt động văn học, nghệ thuật buộc phải áp dụng thành quả khoa học kỹ thuật hiện đại để tương thích với yêu cầu của thời đại 4.0.
Thị trường văn hoá, văn học, nghệ thuật đương đại đòi hỏi phải đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hoá và chuyển đổi số, đặc biệt là xuất bản, điện ảnh, biểu diễn, mĩ thuật ứng dụng. Cần phát huy ưu thế địa phương để từ đó xây dựng các thương hiệu giàu bản sắc, có khả năng thu hút sức tiêu thụ lớn, hình thành các trung tâm văn hoá - du lịch và mạng lưới dịch vụ hoàn chỉnh nhằm kết nối trong nước, khu vực và toàn cầu một cách hiệu quả.
Kêu gọi, khuyến khích các tập đoàn, doanh nghiệp tham gia đầu tư, tài trợ hoạt động văn học, nghệ thuật ở các quy mô khác nhau. Việc đầu tư cho cho sáng tác, tổ chức sự kiện như một sản phẩm CSR (Corporate Social Responsibility) nhằm hiện thực hoá trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, hướng các doanh nghiệp này quan tâm đến các hoạt động xã hội phi lợi nhuận vì cộng đồng.
2.2.3. Giải pháp về nguồn nhân lực
Đây là giải pháp đặc biệt quan trọng vì tăng trưởng kinh tế và phát triển văn học, nghệ thuật đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, thành thạo ngoại ngữ và công nghệ hiện đại. Việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực sẽ gắn kết giữa các trường đại học, viện nghiên cứu với các doanh nghiệp sáng tạo và thị trường văn hoá, nghệ thuật. Nếu không bảo đảm được sự gắn kết này sẽ tạo ra sự đứt gãy của chuỗi cung ứng, triệt tiêu động lực sáng tạo và làm suy yếu thị trường nghệ thuật.
Thúc đẩy ứng dụng số đối với hoạt động xuất bản, sân khấu, điện ảnh, triển lãm, mĩ thuật, âm nhạc… nhằm khuếch đại tầm ảnh hưởng của nghệ thuật, mở rộng công chúng thụ hưởng các giá trị tinh thần và kích thích tiêu dùng văn hoá thông qua nhiều hình thức khác nhau.
Tăng cường hệ thống mạng lưới phục vụ văn hoá rộng khắp, chú trọng xây dựng không gian nghệ thuật công cộng thông minh, hiện đại, độc đáo ở các đô thị lớn và khu công nghiệp trọng điểm, từ đó lan toả các giá trị văn hoá, văn học, nghệ thuật đến các vùng dân cư khác. Hệ thống dịch vụ văn hoá, nghệ thuật phải bảo đảm đủ công năng để hài lòng khách nội địa và vui lòng khách quốc tế.
3. Kết luận
Sau bốn thập kỷ đổi mới và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã hội đủ các điều kiện để bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình, phát triển đột phá trên tất cả các lĩnh vực. Kinh tế và văn học, nghệ thuật chính là hai trụ cột quan trọng thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước, thể hiện rõ đặc trưng nổi bật của thời đại ngày nay là văn hoá trong kinh tế và kinh tế trong văn hoá. Đầu tư cho văn hoá, văn học, nghệ thuật là đầu tư cho sức mạnh mềm, chuyển sức mạnh mềm thành sức mạnh cứng. Văn hoá, văn học, nghệ thuật, thông qua sức thẩm thấu, tác động của mình, góp phần quảng bá đất nước, con người Việt Nam, xây dựng hình ảnh và thương hiệu kinh tế - văn hoá, trở thành động lực phát triển kinh tế. Bởi thế, để giải quyết hài hoà mối quan hệ tăng trưởng kinh tế và phát triển văn học, nghệ thuật trong kỷ nguyên mới, chúng ta cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách dài hạn, đồng bộ, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài để tạo nên hệ sinh thái phát triển sáng tạo, năng động và hiệu quả.
Chú thích:
1 Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, NXB. Chính trị quốc gia, tr. 55.
2 Theo báo cáo của bà Nguyễn Thị Hương, Tổng Cục trưởng Tổng cục Thống kê tại cuộc họp ngày 6/1/2025 thì năm 2024, nền kinh tế Việt Nam đạt mức tăng trưởng 7,09%, vượt mức 6,5% đã đề ra. Nguồn: Tạp chí Ngân hàng, Nam Hải thực hiện, ngày 7/1/2025.
3 Phát biểu của Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng tại Hội thảo Văn hoá 2022, ngày 17/12/2022. Nguồn: Đầu tư online, Nguyễn Lê - Hạnh Nguyên thực hiện, ngày 17/12/2022.
4 Về vấn đề này, xin xem: Nguyễn Đăng Điệp (Chủ biên, 2018), Văn hoá đọc ở Việt Nam hiện nay (từ thực tiễn tiếp nhận văn học), NXB. Khoa học xã hội.
5 Xem: Toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư tại Hội nghị Văn hoá toàn quốc sáng 24/11/2021 tại Hà Nội. Nguồn: Vietnamnet, ngày 25/11/2021.