CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO, DÂN VẬN TRONG BỐI CẢNH, CỤC DIỆN THẾ GIỚI HIỆN NAY

Từ việc đánh giá bối cảnh thế giới và trong nước, bài viết chỉ ra những thuận lợi, thời cơ, vận hội cũng như những khó khăn, thách thức của công tác tư tưởng của Đảng ta trong bối cảnh toàn cầu hoá và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Đồng thời nêu ra một số giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng trong bối cảnh mới.

   Trọng trách lịch sử của công tác tuyên giáo, dân vận (bản chất là công tác tư tưởng) – công tác có tầm quan trọng hàng đầu trong hoạt động lãnh đạo của Đảng trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc là góp phần quan trọng để hiện thực hoá thắng lợi mục tiêu: Giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, phát triển nhanh, bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, cải thiện và nâng cao toàn diện đời sống của nhân dân, tự cường, tự tin, tiến mạnh trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc; thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao, vì một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc trên thế giới, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

   Để triển khai có chất lượng, hiệu quả các hoạt động công tác tư tưởng, trước hết phải đánh giá đúng bối cảnh thế giới, khu vực và trong nước để nhận thức đúng mọi thuận lợi, thời cơ, vận hội cũng như những khó khăn, thách thức.

   1. Bối cảnh toàn cầu hoá và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư

   Bối cảnh và cục diện thế giới và khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương đang có sự chuyển biến nhanh chóng, phức tạp chưa từng có theo hướng đa cực, đa trung tâm và phân tuyến mạnh. Hoà bình, hợp tác phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng đang đứng trước nhiều thách thức mới, gay gắt và phức tạp hơn. Các nước lớn, các trung tâm quyền lực đang hình thành và thay đổi cả chiến lược và chính sách mới tiếp tục vừa cạnh tranh vừa hợp tác, thoả hiệp song cạnh tranh đang và sẽ gay gắt hơn. Xung đột, chiến tranh đang diễn ra ở nhiều khu vực, phức tạp, ác liệt hơn, không loại trừ chiến tranh lan rộng. Các cuộc xung đột ở một số nước châu Phi, Trung Đông, Ukraina… là những minh chứng.

   Toàn cầu hoá được thúc đẩy bởi hai động lực: Cuộc cách mạng công nghiệp làm chuyển đổi căn bản nền tảng sản xuất và việc xoá bỏ các rào cản đối với các dòng chảy thương mại, đầu tư, thông tin, công nghệ, lao động… Do kết hợp hai động lực này, toàn cầu hoá diễn ra theo các làn sóng. Quá trình toàn cầu hoá cho đến nay đã diễn ra ba cao trào, xen giữa là các giai đoạn thoái trào. Toàn cầu hoá lần thứ ba từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, toàn cầu hoá lần này tăng tốc và mở rộng đặc biệt mạnh mẽ sau chiến tranh lạnh (1991), nhờ sự gia nhập của các nền kinh tế chuyển đổi từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường. Sự tăng tốc và mở rộng của toàn cầu hoá sau chiến tranh lạnh đã dẫn tới ba thay đổi nền tảng: cán cân thanh toán toàn cầu đang mất cân đối nghiêm trọng, đặc biệt là giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc; sự chuyển động ồ ạt của các ngành công nghiệp và công nghệ từ các nước phát triển sang các nước mới nổi làm gia tăng bất bình đẳng tại các nước phát triển; cán cân quyền lực chuyển dịch về các nước mới nổi, đặc biệt là Trung Quốc, Ấn Độ, Nga thúc đẩy mạnh xu thế đa cực hoá trật tự thế giới. Trong gần hai thập niên qua, những biểu hiện như cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009, số lượng các thoả thuận quốc tế về thương mại và đầu tư giảm xuống mức thấp nhất, Anh rời khỏi EU, Hoa Kỳ rời khỏi TPP, chiến tranh thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc gia tăng mạnh mẽ cả cường độ và quy mô, bùng phát chủ nghĩa dân tuý, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa đơn phương, chính sách chống nhập cư, phục hồi chính trị cường quyền, chủ nghĩa bảo vệ thương mại, biểu hiện nóng bỏng là chính quyền Mĩ cũng áp đặt thuế đối ứng rất cao đối với hầu hết các quốc gia, kể cả các quốc gia đồng minh, đối tác lớn… đang cản trở và làm suy yếu toàn cầu hoá. Đáng chú ý, từ năm 2020 đến nay, đại dịch COVID-19 đã kích hoạt và đẩy nền kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng sâu rộng chưa từng có, đến nay vẫn khó dự báo vì cuộc khủng hoảng kinh tế rất sâu và rộng lần này còn chịu sự tác động của nhiều nhân tố như: sự chuyển dịch sức mạnh của các quốc gia, thay đổi mô hình phát triển, thay đổi mạnh cơ cấu kinh tế, sự điều chỉnh lớn của các chuỗi sản xuất và cung ứng, các thể chế, luật lệ của các tổ chức đa phương đã và đang hình thành. Chiều hướng chung của toàn cầu hoá hiện nay đang ở chặng giảm tốc, suy yếu nhưng đây không phải là sự cáo chung của toàn cầu hoá. Dù hiện nay và những năm tới, chính sách của nhiều nước, nhất là của Hoa Kỳ và một số nước lớn có thể tiếp tục xu hướng bảo hộ, hướng nội, co lại, dân tuý, dân tộc chủ nghĩa, cứng rắn cực đoan nhưng bản chất của khuynh hướng này là Hoa Kỳ và một số nước khác đang chủ động giảm tốc quá trình toàn cầu hoá để cơ cấu lại chuỗi giá trị toàn cầu, tập trung nguồn lực về Hoa Kỳ để phục hồi sức mạnh đang bị suy giảm. Trên thực tế đã và đang xuất hiện nhiều cấu trúc hợp tác đa tầng nấc, theo cả trục dọc và trục ngang, cả quy mô tiểu khu vực, khu vực, liên khu vực và toàn cầu, cơ chế liên kết kinh tế thể hiện trong các Hiệp định thương mại tự do (FTA) vẫn đang tồn tại và đang được điều chỉnh hoặc hình thành các FTA mới. Chủ nghĩa đa phương dù gặp nhiều thách thức hơn hẳn giai đoạn trước nhưng vẫn tiếp tục phát triển vì lợi ích địa chính trị, địa kinh tế, nhiều nước gác lại tranh chấp, đối đầu để cùng hợp tác khai thác thế mạnh của nhau. Tuy nhiên toàn cầu hoá đang trong xu hướng giảm tốc, gây ra nhiều thách thức và hệ luỵ nghiêm trọng: thương mại toàn cầu tăng trưởng chậm lại, nhiều dòng vốn đầu tư bị hút mạnh về thị trường Hoa Kỳ, dư địa phát triển của nhiều nước ngoại vi bị thu hẹp, nhất là với các quốc gia thực hiện mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu. Đợt thoái trào của toàn cầu hoá lần này đã và đang xuất hiện sự bất ổn ở nhiều quốc gia, khu vực. Sự gia tăng tình trạng lạm phát, khủng hoảng năng lượng, thảm hoạ nhân đạo… đã và đang gia tăng sự đối đầu giữa Mĩ và Trung Quốc; giữa Mĩ, phương Tây với Nga. Trong bối cảnh thế giới phân tuyến ngày càng rõ nhưng toàn cầu hoá vẫn tiếp tục là một xu thế khách quan, quá trình điều chỉnh toàn cầu hoá và liên kết kinh tế vẫn tiếp tục được thúc đẩy với những đặc điểm mới do nhu cầu phát triển của các nước. Do vậy các nước sẽ xây dựng những tiêu chuẩn mới cho việc duy trì sự chu chuyển của các dòng hàng hoá, dịch vụ, lao động, công nghệ… Đồng thời các biện pháp ngăn ngừa những nguy cơ, tác động tiêu cực đến sự chu chuyển này. Có nhiều khả năng sẽ hợp tác xây dựng lại mô hình toàn cầu hoá dựa trên các nền kinh tế khu vực, liên khu vực, quốc tế, đảm bảo cân bằng giữa tính hiệu quả, khả năng chống chịu của chuỗi cung ứng, giữa tăng trưởng kinh tế với khắc phục sự gia tăng bất bình đẳng.

   - Sự chuyển dịch quyền lực và sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn phù hợp với quy luật phát triển không đều nên đến nay thế giới đã chứng kiến ba cuộc chuyển dịch quyền lực lớn làm thay đổi cơ bản đời sống quốc tế trên mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá. Sự chuyển dịch quyền lực lớn thứ nhất là sự trỗi dậy mạnh mẽ của châu Âu từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Cuộc chuyển dịch quyền lực lớn thứ hai là sự trỗi dậy mạnh mẽ của Hoa Kỳ bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX, nhất là từ sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945), Hoa Kỳ trở thành siêu cường chi phối trật tự quốc tế cho tới cuối thế kỷ XX. Từ thập niên cuối của thế kỷ XX đến nay diễn ra sự suy yếu tương đối của Hoa Kỳ, Tây Âu, Nhật Bản và sự trỗi dậy mạnh mẽ của một số nước, nổi bật là Trung Quốc, Nga, Ấn Độ dẫn tới sự chuyển dịch quyền lực lần thứ ba trên phạm vi toàn cầu. Sự trỗi dậy mạnh mẽ của các quốc gia mới nổi như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ… đang thúc đẩy cục diện thế giới biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm nhanh hơn, chuyển trật tự thế giới từ đơn cực sau chiến tranh lạnh thành thế giới “đa cực, đa trung tâm, đa tầng nấc”. Xu hướng này phản ánh sự chuyển dịch sức mạnh của các quốc gia, trong đó có Hoa Kỳ và Tây Âu suy yếu tương đối. Trung Quốc vươn lên mạnh mẽ, Nga nỗ lực khôi phục vị trí cường quốc hàng đầu của mình, Ấn Độ đang vươn lên cường quốc kinh tế, hạt nhân thứ tư. Trong bối cảnh này, sự cọ xát cạnh tranh chiến lược, điều chỉnh chiến lược, tập hợp lực lượng, tranh giành ảnh hưởng đang gia tăng tính quyết liệt, gay gắt hơn và tác động ảnh hưởng sâu rộng đến an ninh chính trị toàn cầu. Các cuộc cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn hiện nay thể hiện rõ nét giữa các cặp cạnh tranh: Hoa Kỳ - Trung Quốc; Hoa Kỳ, Tây Âu - Nga; Trung Quốc - Ấn Độ. Trong các cặp cạnh tranh này, cuộc cạnh tranh Hoa Kỳ - Trung Quốc là cuộc cạnh tranh chiến lược tiêu biểu giữa cường quốc mới “trỗi dậy” và cường quốc đang “tại vị”. Cuộc cạnh tranh này ngày càng gay gắt, khốc liệt, tác động rất tiêu cực đến kinh tế, chính trị, an ninh toàn thế giới, nhất là với châu Á - Thái Bình Dương, biển Đông, cho nên tạo ra nhiều thách thức mới khó lường đối với khu vực, trong đó có Việt Nam. Khả năng xảy ra đụng độ lớn về quân sự giữa các cường quốc trong những thập niên tới thấp. Biểu hiện phân cực, nguy cơ xung đột cục bộ, “chiến tranh uỷ nhiệm” ngày càng lớn. Xung đột ở Trung Đông, Ukraina thực chất theo nhiều chuyên gia quôc tế cho rằng đây là cuộc “chiến tranh uỷ nhiệm” vẫn đang diễn biến rất phức tạp, khó dự báo, xu hướng ác liệt ngày càng tăng. Sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt ở hai khu vực này không chỉ tác động rất xấu đối với Trung Đông và châu Âu mà còn tác động ngày càng nghiêm trọng đến chuỗi cung ứng toàn cầu, đẩy khủng hoảng kinh tế và an ninh thế giới ngày càng gia tăng nghiêm trọng hơn. Đáng chú ý là một dự báo cụ thể về xu thế phân tuyến: Hiện nay cuộc chiến thuế quan do Tổng thống Mĩ khởi xướng không chỉ châm ngòi cho một cuộc chiến thương mại mà còn đẩy toàn cầu hoá vào kỷ nguyên suy thoái nghiêm trọng, thậm chí là phi toàn cầu hoá, nơi ba cực kinh tế nổi lên định hình lại chuỗi cung ứng thương mại và quyền lực địa chính trị toàn cầu. Xu hướng toàn cầu hoá suy thoái nghiêm trọng hoặc phi toàn cầu hoá bắt nguồn từ cạnh tranh địa chính trị và kinh tế giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Tình hình hơn một năm qua cho thấy kỷ nguyên của những rào cản thương mại thấp và sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế đang dần suy yếu. Cuộc chiến thuế quan đã buộc các đồng minh của Mĩ phải đặt câu hỏi về vai trò của Washington trên trường quốc tế, thậm chí Chủ tịch Ủy ban châu Âu Ursula von der Leyen đã tuyên bố vào tháng 4/2025 rằng: “Phương Tây như chúng ta từng biết không còn nữa”. Các sự kiện gần đây cho thấy khả năng trật tự kinh tế toàn cầu bị phân chia sâu sắc hơn, đặc biệt với những dấu hiệu cho thấy EU đang theo đuổi một hướng đi chính trị và kinh tế riêng. Thế giới đang chuyển mình từ một nền kinh tế toàn cầu sang một thế giới đa cực với ba đầu tàu chủ yếu: Mĩ, Trung Quốc - Nga, Liên minh châu Âu:

   + Khối Mĩ được xây dựng trên nền tảng liên minh truyền thống, chia sẻ các giá trị tự do thương mại định hướng Mĩ và cam kết kiềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc cũng như các nền kinh tế “phi thị trường”. Khối này gồm một nửa GDP toàn cầu.

   + Khối Trung Quốc - Nga là sự kết hợp giữa các quốc gia có liên hệ kinh tế - chiến lược với Trung Quốc được sự hỗ trợ bởi các khoản đầu tư hạ tầng trong sáng kiến vành đai – con đường, trong điều kiện Mĩ gia tăng thuế quan và hạn chế công nghệ buộc Trung Quốc phải tìm kiếm thị trường thay thế và củng cố các liên minh ngoài phương Tây. Nhiều quốc gia tham gia khối này có liên minh chính trị hoặc quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc và Nga đang tìm kiếm mô hình phát triển thay thế phương Tây. Khối này chiếm hơn ¼ GDP toàn cầu.

   + Khối châu Âu (EU) muốn tái khẳng định độc lập địa chính trị. EU đang chuyển mình từ vai trò “cầu nối” sang một cực đối lập. Các nước tham gia khối này nhằm chia sẻ lợi ích chung về chính sách môi trường và kiểm soát công nghệ số, nhất là tránh bị kẹp giữa cuộc cạnh tranh Mĩ - Trung và phát huy vai trò, năng lực định hình luật lệ kinh tế toàn cầu thông qua các chuẩn mực xuất khẩu (carbon, quyền riêng tư, AI). Với ba khối kinh tế này, mỗi khối phản ánh một mô hình phát triển, hệ giá trị và liên minh chiến lược khác nhau. Sự phân chia này sẽ tái định hình chuỗi cung ứng, đầu tư và chính sách công nghệ toàn cầu – không chỉ dựa trên lợi ích thị trường đơn thuần mà còn dựa trên liên minh và sức mạnh địa chính trị. Thế giới đang chứng kiến một sự chuyển mình sâu sắc khi địa chính trị ngày càng đóng vai trò then chốt trong định hình kinh tế.

   - Xu thế toàn cầu hoá và sự bùng nổ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng 4.0). Như chúng ta đã biết, toàn cầu hoá được thúc đẩy bởi hai động lực: cuộc cách mạng công nghiệp chuyển đổi căn bản nền tảng sản xuất và việc xoá bỏ các rào cản đối với các dòng chảy thương mại, đầu tư, thông tin, công nghệ, lao động… và sự kết hợp hai động lực này. Phần trên chúng ta đã nhận diện những biểu hiện mới của toàn cầu hoá trong chặng giảm tốc đang được điều chỉnh dựa trên sự hợp tác trên các tầng nấc quy mô tiểu khu vực, khu vực, liên khu vực và quốc tế. Tiếp theo, chúng ta cần nhận thức sâu sắc về cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang diễn ra mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu với sự phát triển của một số công nghệ mang tính đột phá như trí tuệ nhân tạo, internet kết nối vạn vật (IOT), hệ thống cảm biến và dữ liệu lớn. Cách mạng công nghiệp xảy ra khi có đột phá lớn về công nghệ dẫn đến các thay đổi sâu sắc trong sản xuất và xã hội. Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất từ cuối thế kỷ XVIII với sự phát minh ra động cơ hơi nước và tạo ra sản xuất cơ khí; cách mạng công nghiệp lần thứ hai là từ đầu thế kỷ XX với sự xuất hiện của điện lực tạo ra sản xuất hàng loạt (điện khí hoá); cách mạng công nghiệp lần thứ ba từ những năm 1970 với sự xuất hiện của điện tử, máy tính, internet và tạo ra sản xuất tự động (tự động hoá); cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư từ cuối thế kỷ XX đến những năm đầu thế kỷ XXI, với sự ra đời của hàng loạt các công nghệ đột phá như: AI (trí tuệ nhân tạo) – con người đang nỗ lực làm cho máy móc có những năng lực trí tuệ của con người (đương nhiên AI còn phải tiếp thu phát triển lâu dài nữa để tới gần hơn những năng lực trí tuệ của con người, tăng cường năng lực trí tuệ của con người). Đáng chú ý, tháng 3/2016, cỗ máy trí tuệ nhân tạo AlphaGO của Google với những đột phá mới trong kỹ thuật học sâu dựa trên dữ liệu lớn có khả năng tiến hoá qua các lần học, máy học là một nhánh của trí tuệ nhân tạo, có mục tiêu làm cho máy móc có khả năng học tập như con người. Học sâu là một hướng phát triển lớn, đột phá quan trọng của máy học. Học sâu dựa trên mô phỏng cấu trúc mạng nơ-ron và hoạt động của bộ não con người để xử lý, phân tích dữ liệu lớn bao gồm cả dữ liệu cấu trúc và phi cấu trúc. Có thể ví trí tuệ nhân tạo gần giống như hệ thần kinh của con người.

   - Internet vạn vật (IOT) đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối giữa môi trường thực và môi trường số, được ví như các giác quan của con người.

   - Chuỗi khối (Blockchain): Phương thức ghi và chia sẻ dữ liệu minh bạch, độc lập, an toàn. Chuỗi khối là một chuỗi dữ liệu phân tán trên mạng gồm các khối thông tin được liên kết với nhau bằng mã hoá và mở rộng theo thời gian. Các giao dịch trong mạng chuỗi khối diễn ra tự động mà không cần bên thứ ba chứng nhận. Công nghệ chuỗi khối sẽ giảm dần và xoá bỏ vai trò của trung gian trong các giao dịch.

   - Dữ liệu lớn (Big Data) được sinh ra từ hàng tỉ điện thoại thông minh, thiết bị cảm biến kết nối vạn vật và hoạt động của con người trên mạng. Công nghệ số hiện nay xử lý dữ liệu phi cấu trúc (hiện đang chiếm 70%-80%) do vậy dữ liệu phi cấu trúc chứa rất nhiều thông tin hơn dữ liệu cấu trúc. Có thể ví dữ liệu lớn (Big Data) như bộ não của con người.

   - Điện toán đám mây (Cloud computing): Nền tảng lưu trữ, sắp xếp dữ liệu trên cùng một hệ thống; điện toán đám mây là công nghệ cho phép năng lực tính toán nằm ở các máy chủ ảo, gọi là đám mây trên internet.

   - Công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới…

   Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đặc biệt là sự ra đời của những công nghệ số nêu trên là bước phát triển cao hơn, bước phát triển tiếp theo của công nghệ thông tin cho phép tính toán nhanh hơn, xử lý dữ liệu nhiều hơn, truyền tải dung lượng lớn hơn (nhanh hơn, nhiều hơn, lớn hơn gấp nhiều lần) với chi phí rẻ hơn. Công nghệ số là một trong các nhóm công nghệ chính của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với đại diện là: trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật (IOT), chuỗi khối (Blockchain), dữ liệu lớn (Big Data), điện toán đám mây (Cloud computing).

   Trong hơn 30 năm qua, từ thập niên cuối của thế kỷ XX đến thập niên thứ 3 của thế kỷ XXI, thế giới đã và đang chứng kiến 3 làn sóng công nghệ của cách mạng công nghiệp 4.0:

   - Làn sóng thứ nhất, từ khoảng năm 1985 đến năm 2000, gắn với sự phổ biến của máy vi tính, có thể tạm gọi là làn sóng số hoá thông tin – chuyển các tài liệu từ bản giấy sang bản điện tử.

   - Làn sóng thứ hai, từ năm 2000 đến năm 2015, gắn với sự phổ biến của internet, điện thoại di động và mạng viễn thông di động, có thể tạm gọi là làn sóng số hoá quy trình nghiệp vụ, tin học hoá các quy trình nghiệp vụ để nâng cao năng suất, hiệu quả.

   - Làn sóng thứ ba, được cho là từ năm 2015 và dự báo đến năm 2030, gắn với sự phát triển đột phá của công nghệ số, có thể tạm gọi là làn sóng chuyển đổi số, đưa toàn bộ các hoạt động từ xã hội thực lên không gian mạng, từ môi trường truyền thống lên môi trường số. Những công nghệ tiêu biểu thúc đẩy chuyển đổi số là: trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật, dữ liệu lớn, điện toán đám mây và chuỗi khối. Trong lịch sử phát triển của nhân loại, ba cuộc cách mạng công nghiệp đã qua là cơ khí hoá, điện khí hoá, tự động hoá. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư được bắt đầu từ đầu thế kỷ XXI với các đột phá và cộng hưởng của các công nghệ số và tạo ra sản xuất thông minh. Cho nên cuộc cách mạng 4.0 là thông minh hoá, là máy móc thay lao động trí óc.

   Thế kỷ XXI đã và đang chứng kiến hai xu hướng lớn định hình lại thế giới: toàn cầu hoá và cách mạng công nghiệp 4.0 với sự xuất hiệu của làn sóng chuyển đổi số. Thế giới đang đứng trước bước ngoặt của lịch sử trong thời kỳ định hình lại trật tự toàn cầu dưới tác động của sự chuyển dịch sức mạnh của các quốc gia từ thế giới đơn cực sang thế giới đa cực, đa trung tâm, đa tầng nấc, sự thay đổi mạnh cơ cấu kinh tế, sự điều chỉnh lớn của các chuỗi sản xuất và cung ứng, các thể chế, luật lệ của các tổ chức đa phương đã và đang hình thành, sự dịch chuyển địa - chính trị, địa - chiến lược, địa - kinh tế và phát triển mạnh mẽ, đột phá của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang tác động sâu rộng, mạnh mẽ, tổng thể (mọi quốc gia dân tộc, mọi tổ chức, cá nhân) mọi mặt từ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại… làm thay đổi lớn cách thức sản xuất kinh doanh, thương mại của mọi doanh nghiệp, phương thức quản lý của mọi tổ chức, cơ quan, đơn vị và nhất là cách sống, lối sống, nếp sống của mọi con người. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và sự bùng nổ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và nổi bật là làn sóng cuộc cách mạng chuyển đổi số, đưa toàn bộ các hoạt động từ xã hội thực lên không gian mạng, từ môi trường truyền thống lên môi trường số, chuyển nền sản xuất và toàn bộ hoạt động xã hội từ tự động hoá đến thông minh hoá (máy móc thay lao động trí óc với những mức độ khác nhau), tất cả dẫn đến sự biến đổi mạnh mẽ chưa từng thấy của lực lượng sản xuất. Nền kinh tế thế giới sẽ có bước chuyển đổi vượt bậc mang tính cách mạng. Những điều trên đã và đang đưa đến những biến đổi sâu sắc về chất lượng cuộc sống, kết cấu giai cấp, cơ cấu nghề nghiệp tại các quốc gia, tạo nên sự chuyển đổi của toàn bộ hệ thống sản xuất kinh doanh và quản trị trên phạm vi toàn cầu. Chuyển đổi số, chuyển đổi xanh… và các liên kết kinh tế mới ngày càng được coi trọng trước hết, trên hết, đây sẽ là xu thế chủ đạo, quyết định năng lực cạnh tranh, sự phát triển nhanh và bền vững của các quốc gia đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050.

   2. Công tác tư tưởng (công tác tuyên giáo, dân vận) của Đảng ta trong bối cảnh toàn cầu hoá và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

   Quan niệm chung, công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một chính đảng nhằm hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng trong quần chúng, thúc đẩy quần chúng hành động vì lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng. Đối với Đảng ta, công tác tư tưởng là bộ phận cấu thành rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động cách mạng của Đảng, công tác tư tưởng có trọng trách hàng đầu là trực tiếp góp phần xây dựng Đảng ta vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Tiến hành công tác tư tưởng nhằm phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng cơ sở khoa học, thực tiễn để hình thành cương lĩnh, đường lối, chính sách trong từng thời kỳ. Truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, Đảng viên và nhân dân nhằm đem lại cho họ sự giác ngộ về thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cao đẹp, tạo nên sự nhất trí cao trong toàn Đảng, sự đồng thuận trong toàn xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, biến nó thành niềm tin, lý tưởng, lẽ sống, thành nguyên tắc đạo đức, thành tình cảm cách mạng, cổ vũ, động viên tính tích cực, tự giác, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Công tác tư tưởng góp phần quan trọng vào việc hình thành thượng tầng kiến trúc mới về mặt hình thái ý thức, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào, ý chí tự lực, tự cường, khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, có đạo đức, lối sống và nhân cách cao đẹp. Đảng ta tiến hành công tác tư tưởng trên nguyên tắc toàn Đảng làm công tác tư tưởng, trước hết là bí thư, cấp uỷ, là người đứng đầu các cơ quan, đơn vị. Công tác tư tưởng với 3 bộ phận cơ bản cấu thành là công tác lý luận; công tác giáo dục, truyền bá, công tác tuyên truyền, cổ động thông qua hoạt động của các binh chủng chủ yếu là: các cơ quan nghiên cứu lý luận; các cơ quan giáo dục lý luận chính trị, đó là các trường chính trị, các khoa chính trị trong các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, cơ chế học tập quán triệt các nghị quyết của Đảng; hệ thống trung tâm thông tin công tác tư tưởng – hệ thống tuyên truyền miệng (báo cáo viên, tuyên truyền viên), hệ thống báo chí truyền thông, xuất bản và phát hành; các tổ chức, cơ quan văn hoá, văn học, nghệ thuật và lực lượng văn nghệ sĩ; hệ thống các cơ quan, đơn vị điều tra, nghiên cứu và định hướng dư luận xã hội; hệ thống các phương tiện trực quan sinh động…

   Trong lịch sử 95 năm lãnh đạo cách mạng của Đảng ta, công tác tư tưởng với vị trí là công tác có tầm quan trọng hàng đầu trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, là công tác luôn đi đầu: Chuẩn bị cơ sở khoa học, thực tiễn để hình thành cương lĩnh, đường lối, chính sách đi cùng truyền bá giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân đoàn kết nhất trí, đồng thuận cao với đường lối, chính sách của Đảng, cổ vũ, động viên cán bộ, đảng viên và nhân dân tự giác, tích cực sáng tạo trong phong trào cách mạng, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ; sau mỗi nhiệm vụ, mỗi nhiệm kỳ, mỗi chặng đường cách mạng, công tác tư tưởng lại tổng kết sâu sắc, rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu, là những cơ sở khoa học và thực tiễn soi sáng các hoạt động tư tưởng trong thời kỳ mới.

   Việt Nam có vị trí địa chính trị, địa kinh tế rất quan trọng và nằm trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, ASEAN với sự hiện diện của nhiều nước lớn và các nền kinh tế năng động, nằm trên tuyến hàng hải, hàng không sôi động bậc nhất thế giới, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động song cũng là khu vực trọng điểm cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn. Bởi thế, trong bối cảnh toàn cầu hoá và cách mạng 4.0 hiện nay, chúng ta đang chịu tác động rất nhanh, rất mạnh, rất phức tạp, đa chiều, tạo ra những thời cơ, vận hội lớn cũng như những khó khăn, thách thức mới, rất phức tạp, khó lường. Sự tác động này là sự tác động dưới nhiều cấp độ nhưng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Trên mặt trận tư tưởng - văn hoá, sự tác động này đến cả chủ thể và khách thể của công tác tư tưởng văn hoá (tuyên giáo, dân vận), tác động sâu rộng và chưa từng có đến cả 3 bộ phận cấu thành của công tác tư tưởng là: công tác lý luận; công tác giáo dục lý luận chính trị, tư tưởng; công tác cổ vũ, động viên phong trào hành động cách mạng.

   Khi toàn cầu hoá đang suy thoái, xu thế đa cực, đa trọng tâm, đa tầng nấc, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, nhất là giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc ngày càng phức tạp, gay gắt, dù có những thoả hiệp tạm thời nhưng sự tranh chấp của hai cường quốc trong khu vực này đang nóng lên ở bán đảo Triều Tiên, eo biển Đài Loan, biển Hoa Đông, biển Đông. Đáng chú ý là chủ nghĩa dân tuý, dân tộc cực đoan đang tăng lên và cuộc cách mạng chuyển đổi số đang làm thay đổi mạnh mẽ đời sống sản xuất, kinh doanh, thương mại. Sự gia tăng nhanh chóng của tầng lớp giàu có kéo theo sự phân hoá, phân cực xã hội ngày càng rõ nét và nhất là thay đổi chưa từng thấy trong tư tưởng, lối sống của các tầng lớp, giai cấp trong xã hội… và trong điều kiện lực lượng sản xuất ngày càng chuyển mạnh sang giai đoạn thông minh hoá, máy móc từng bước suy nghĩ thay con người…

   Vấn đề đặt ra cho công tác lý luận là phải đổi mới và nâng tầm tư duy lý luận như thế nào để nhận thức đúng quy luật vận động của lực lượng sản xuất, để chủ động xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp và sâu xa hơn, phải định vị cho đúng nước ta đang ở chặng nào của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tên và nội dung của chặng từ nay đến 2045, 2050 với mục tiêu đến năm 2045 hiện thực hóa mức nào của 8 đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng! Từ đó mới xác định đúng chiến lược kinh tế, mô hình tăng trưởng kinh tế, chiến lược công nghiệp hóa - hiện đại hóa, chiến lược chấn hưng văn hoá, phát triển toàn diện con người Việt Nam, chiến lược công bằng, tiến bộ xã hội trong chặng này. Trong công tác tuyên truyền, cổ động, chúng ta cần khắc ghi những điều các nhà kinh điển Marxist luôn nhắc nhở: Phương tiện truyền thông luôn có tác động to lớn đến ý thức xã hội. Khi phương tiện truyền thông thay đổi căn bản như hiện nay, công tác tư tưởng, công tác tuyên giáo và dân vận cũng phải thay đổi tương ứng để luôn giữ vững và không ngừng nâng cao hiệu quả của công tác tư tưởng, đó là: hoàn thành nhiệm vụ (Được việc), mọi tổ chức trong hệ thống chính trị đến trong sạch, vững mạnh (Được tổ chức), mọi người đều tiến bộ, trưởng thành (Được người). Điều này đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu kỹ lưỡng bản chất cách mạng 4.0 và chuyển đổi số để hoàn thiện kế hoạch, lộ trình chuyển đổi số đồng bộ, thông suốt, hiệu quả trong toàn bộ hệ thống công tác tư tưởng – tuyên giáo, dân vận trong toàn quốc.

   Trong những năm gần đây, hệ thống công tác tuyên giáo, dân vận đã đạt được một số thành tựu nhất định trong việc ứng dụng công nghệ số: các cơ quan tham mưu công tác tuyên giáo, dân vận, các “binh chủng” của công tác tư tưởng: “binh chủng” nghiên cứu, lý luận; “binh chủng” giáo dục lý luận chính trị, cơ chế học tập quán triệt các nghị quyết; “binh chủng” báo chí xuất bản, phát hành; “binh chủng” văn hoá, văn nghệ; “binh chủng” các vấn đề xã hội; “binh chủng” khoa học, giáo dục đào tạo… từ trung ương đến địa phương, cơ sở đều xây dựng phát triển hệ thống website, fanpage, kênh truyền thông số với lượng truy cập và tương tác ngày càng cao. Từ thời đại dịch COVID-19 đến nay, công tác tư tưởng qua nền tảng số đã phát huy hiệu quả rõ rệt: các buổi tuyên truyền trực tuyến, họp báo, hội nghị, học tập, quán triệt nghị quyết online… vừa đảm bảo nhanh chóng, tiết kiệm, tạo hiệu ứng xã hội, tăng giao tiếp giữa lãnh đạo quản lý và nhân dân. Các mô hình dân vận như “Chính quyền điện tử”, nhất là đang phổ cập “Dịch vụ công trực tuyến”, giảm nhanh tệ phiền hà, nhũng nhiễu, tăng nhanh nhu cầu minh bạch, công khai, góp phần nâng cao hiệu quả phục vụ nhân dân, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Hiện nay, việc ứng dụng công nghệ trong giải quyết các thủ tục hành chính đang chuyển biến mạnh mẽ, tích cực.

   Bên cạnh những thành tựu công tác tuyên giáo, dân vận trong bối cảnh mới còn nhiều hạn chế, bất cập: Không ít cơ quan, đơn vị còn áp dụng công nghệ số một cách hình thức, chưa hiểu rõ bản chất và tiềm năng của các công cụ mới. Nội dung tiến hành công tác tư tưởng ở một số cấp, một số cơ quan, đơn vị còn đơn điệu, thiếu tính tương tác và hấp dẫn. Việc chỉ đơn thuần chuyển nội dung từ hình thức truyền thống sang định dạng số mà không có điều chỉnh phù hợp là làm giảm hiệu quả của các hoạt động tuyên truyền, cổ động, vận động. Công tác tư tưởng đang phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các nguồn thông tin quốc tế và đáng chú ý: đế quốc thông tin, xâm lăng văn hoá thông qua mạng internet, công nghệ số. Từ những thành công và hạn chế bước đầu trong ứng dụng công nghệ số, cần rút kinh nghiệm sâu sắc, nghiên túc gắn chặt với quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị, tập trung xây dựng hoàn thiện kế hoạch, lộ trình chuyển đổi số đồng bộ, thông suốt, hiệu quả trong toàn bộ hệ thống công tác tư tưởng – tuyên giáo, dân vận trong toàn quốc. Là người làm công tác tư tưởng văn hoá – tuyên giáo lâu năm, tôi nhận thức được một số vấn đề trong ứng dụng công nghệ số của hệ thống công tác tư tưởng văn hoá như:

   - Các hoạt động tư tưởng, nhất là hoạt động tuyên truyền giáo dục, thông tin cổ động tập trung vào các cơ quan, đơn vị, phương tiện truyền thông của đội ngũ cán bộ tư tưởng văn hoá chuyên nghiệp, cuộc cách mạng số đang làm thay đổi hoàn toàn mô hình truyền thống này. Ngày nay, bất kỳ cá nhân nào có smartphone và kết nối internet đều có thể trở thành một “tờ báo” (báo chữ, báo nói, báo hình) với khả năng tiếp cận hàng triệu người. Mạng xã hội đã dân chủ hoá quyền lực truyền thông, tạo ra môi trường thông tin đa chiều, phân tán, khó kiểm soát, giờ đây chúng ta phải đối mặt với hàng triệu “Micro - Influencer” có khả năng ảnh hưởng đến dư luận xã hội. Thực tiễn này đòi hỏi một cách tiếp cận hoàn toàn mới trong công tác tư tưởng, định hướng dư luận xã hội. Một trong những hệ quả của dân chủ hóa thông tin truyền thông là hiện tượng “buồng vang” (echo chamber) – nơi mà mọi người chỉ tiếp cận với những thông tin phù hợp với quan điểm của họ. Vì thuật toán của mạng xã hội được thiết kế để tăng tương tác nên thường hiển thị những nội dung mà người dùng “thích” và “chia sẻ” cao nhất, do đó, trước một sự kiện, một chủ trương chính sách… lại hiển thị nhiều cách giải thích khác nhau, trái ngược nhau, ảnh hưởng đáng kể đến sự đồng thuận xã hội với đường lối, cơ chế, chính sách. Điều đó đòi hỏi công tác tư tưởng phải có chiến lược truyền thông đa dạng, phù hợp với từng cộng đồng thông tin khác nhau và có các giải pháp kết cấu cộng đồng thông tin này với nhau xung quanh giá trị chung, nhận rõ những luận điệu sai trái, thù địch.

   - Trong môi trường số, nội dung lan truyền không theo quy luật tuyến tính mà theo quy luật bùng nổ theo cấp số nhân. Một video, một hình ảnh, một câu nói có thể lan truyền đến hàng triệu người trong thời gian ngắn nếu chạm được vào những cung bậc cảm xúc phù hợp của công chúng. Những tư tưởng, những vấn đề phức tạp cần được định hướng nếu được truyền tải bằng những hình ảnh gây ấn tượng kèm theo một dòng chữ ngắn gọn sẽ có sức lan tỏa nhanh. Điều này vừa là cơ hội vừa là thách thức cho công tác tuyên giáo, dân vận hiện nay. Cơ hội là ở việc chúng ta có thể truyền tải những thông điệp tích cực một cách nhanh chóng và hiệu quả đến đông đảo quần chúng. Thách thức là các thông điệp tiêu cực, thông tin sai lệch cũng được lan truyền với tốc độ tương tự. Ở đây chúng ta phải thấy rõ: “chữa cháy” thông tin sai lệch khó hơn nhiều so với việc chúng ta có các giải pháp ngăn chặn từ đầu.

   - Toàn cầu hóa đã biến không gian mạng thành một mặt trận mới trong công tác tư tưởng. Nơi đây đang diễn ra cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia, các tập đoàn, các tổ chức gây ảnh hưởng về văn hóa, chính trị. Mặt trận này không có biên giới rõ ràng, không có quy tắc giao tranh cụ thể và sức mạnh không nhất thiết phụ thuộc vào quy mô kinh tế hay quân sự. Một quốc gia nhỏ có thể gây ảnh hưởng lớn trên không gian mạng nếu họ hiểu rõ cách thức hoạt động của các nền tảng số và có khả năng sáng tạo nội dung hấp dẫn. Trái lại, một quốc gia lớn có thể gặp khó khăn trong việc truyền tải thông điệp của mình nếu không thích ứng được với ngôn ngữ và văn hóa của thời đại số.

   Trên không gian mạng toàn cầu, chúng ta không chỉ cạnh tranh với các quốc gia khác nhau mà còn phải đối mặt với sự hiện diện của các tập đoàn truyền thông đa quốc gia, các tổ chức phi chính phủ, thậm chí của các cá nhân đang có ảnh hưởng lớn. Một số quốc gia đã đầu tư mạnh mẽ vào việc xây dựng các “máy tuyên truyền” toàn cầu, sử dụng công nghệ tiên tiến để tác động đến dư luận ở nhiều nước khác nhau, họ không chỉ truyền bá những thông tin có lợi cho mình mà còn tích cực phá hoại hình ảnh của các đối thủ. Đối với Việt Nam, hơn lúc nào hết, chúng ta phải thực sự đẩy mạnh và đổi mới mạnh mẽ toàn diện các hoạt động thông tin đối ngoại nói chung nhưng cần tập trung chỉ đạo phát triển mạnh thông tin đối ngoại trên mạng. Trước hết cần phải vừa bảo vệ không gian thông tin trong nước khỏi các tác động tiêu cực từ bên ngoài vừa chủ động lan tỏa những thông điệp tích cực về đất nước ra thế giới. Để nâng cao chất lượng hiệu quả công tác tư tưởng trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0 với sự bùng nổ của các công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ số, công tác tuyên giáo, dân vận phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, nhất là tư duy khoa học, tư duy lý luận; đổi mới căn bản và toàn diện nội dung, phương thức công tác tuyên giáo, ứng dụng công nghệ số trong toàn bộ các hoạt động công tác tuyên giáo, dân vận.

   Trước hết, cần xây dựng một bộ phận chuyên trách gồm các chuyên gia giỏi về công nghệ thông tin, công nghệ số và các chuyên gia hàng đầu về công tác tư tưởng: từ công tác nghiên cứu, lý luận, truyền bá giáo dục lý luận chính trị, công tác tuyên truyền cổ động, các chuyên gia hàng đầu về các binh chủng của công tác tuyên giáo, dân vận xây dựng hoàn thiện kế hoạch, chương trình chuyển đổi số; hoàn thiện hệ sinh thái bao gồm hạ tầng số, hệ thống dữ liệu của công tác tuyên giáo, dân vận trong toàn bộ hệ thống công tác tuyên giáo, dân vận từ trung ương đến cơ sở:

   - Phải tổ chức bồi dưỡng kỹ năng sử dụng công nghệ số cho đội ngũ cán bộ tư tưởng chuyên trách từ trung ương đến cơ sở; đào tạo ứng dụng công nghệ số trong công tác nghiên cứu, lý luận, tổng kết thực tiễn, trong công tác giảng dạy lý luận chính trị, trong tổ chức hội nghị học tập quán triệt nghị quyết, trong tuyên truyền miệng, trong thông tin đối ngoại, trong hoạt động báo chí, xuất bản, phát hành, trong nghiên cứu và định hướng dư luận xã hội, trong hoạt động nắm bắt các xu hướng tư tưởng của từng đối tượng và xử lý các điểm nóng về tư tưởng, trong các hoạt động xây dựng môi trường văn hóa: văn hóa gia đình, văn hóa học đường, văn hóa công sở, văn hóa trong các cơ quan của hệ thống chính trị, trong hoạt động bảo vệ không gian thông tin trong nước, phản bác kịp thời các thông tin sai trái trên mạng. Cần kiên quyết đấu tranh để khắc phục có hiệu quả tệ quan liêu, lười suy nghĩ, dựa hoàn toàn vào AI-ChatGPT để làm báo cáo, đề án, làm các bản tin, bài báo gây ra nhiều hệ quả xấu.

   - Trong 2 năm đầu, cần thường xuyên có các đoàn trực tiếp kiểm tra, giám sát và hỗ trợ các cơ quan, đơn vị trong hệ thống công tác tuyên giáo, dân vận trong cả nước để ứng dụng có hiệu quả công nghệ số, thực sự nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quan trọng hàng đầu này trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước.

 

 

 

Chú thích:
* Nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương.

Bình luận

    Chưa có bình luận