VÍ, GIẶM TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA ĐƯƠNG ĐẠI NHÌN TỪ LÝ THUYẾT ĐA VĂN HÓ

Là ''đặc sản'' của văn hóa Xứ Nghệ, ví, giặm được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Vận dụng lý thuyết đa văn hóa, bài viết đề xuất nguyên tắc, gợi mở một số vấn đề về bảo tồn, phát triển ví, giặm, từ nhận thức đến thực hành văn hóa.

   Cũng như nhiều quốc gia ở Đông Nam Á, ở Việt Nam, văn hóa dân gian giữ vai trò quan trọng trong tiến trình hình thành, phát triển văn hóa quốc gia, dân tộc. Không thể hiểu văn hóa Việt Nam, hay hẹp hơn là văn hóa một vùng miền, nếu không bắt đầu từ văn hóa dân gian. Là khu vực văn hóa hình thành sớm, văn hóa Xứ Nghệ có những nét đặc thù, rõ nhất là trong văn hóa dân gian. Với hàng ngàn năm hình thành, phát triển, cư dân Xứ Nghệ đã kiến tạo một vùng văn hóa phong phú, đa dạng, giàu bản sắc. Trong đó, ví, giặm được xem là “đặc sản”, một “điểm nhấn”, góp phần làm nên dấu ấn Xứ Nghệ trong văn hóa Việt Nam. Ngày 27/11/2014, ví, giặm được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Đó là sự công nhận mang tính toàn cầu tầm vóc, giá trị văn hóa mang bản sắc vùng miền của ví, giặm. Tuy nhiên, trong bối cảnh văn hóa đương đại, ví, giặm đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Ví, giặm sẽ thế nào trong đời sống văn hóa đương đại? Liên kết vùng, hội nhập văn hóa có làm biến dạng ví, giặm? Làm thế nào để bảo tồn các giá trị cốt lõi của ví, giặm?... Đó là những vấn đề đến nay còn để ngỏ. Trong bối cảnh đó, lý thuyết đa văn hóa gợi mở nhiều vấn đề khoa học, có tính khả thi, từ nhận thức đến thực hành văn hóa.

   1. Thể hiện sự khác biệt trong ý thức bình đẳng, đối thoại là cách thức bảo tồn, phát triển của ví, giặm trong văn hóa đương đại

   Đa văn hóa (multicultural) là khái niệm xuất hiện vào đầu những năm 40 của thế kỷ XX ở Canada. Tuy nhiên, phải đến thập niên 80 của thế kỷ XX, đa văn hóa mới trở thành một lý thuyết văn hóa - xã hội, được nói đến nhiều ở Hoa Kỳ và Canada. Xuất phát từ những đặc điểm văn hóa - xã hội nhiều khác biệt của các quốc gia ở Bắc Mĩ, lý thuyết đa văn hóa ra đời nhằm thay đổi nhận thức về tình trạng bất bình đẳng giữa các cộng đồng có nguồn gốc văn hóa khác nhau. Từ đó, tìm kiếm giải pháp để những khác biệt văn hóa được tồn tại, phát triển trong xã hội hiện đại. Trên tinh thần bình đẳng, khoan dung, tôn trọng mọi khác biệt, lý thuyết đa văn hóa quan niệm văn hóa của một cộng đồng, dù lớn hay nhỏ, phải được thừa nhận công khai, bình đẳng trong sự phát triển của xã hội văn minh. Trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu hóa, tiếp biến văn hóa giữa các quốc gia, vùng miền diễn ra ngày càng sâu sắc, đa văn hóa đã trở thành hiện tượng phổ biến, nhất là ở các vùng miền có nhiều giao lưu tiếp xúc văn hóa như Xứ Nghệ. Nói tới đa văn hóa, là nói tới hiện tượng một nền/ vùng văn hóa, được tạo nên bởi nhiều cộng đồng cư dân, bao gồm/ liên quan đến, hay đại diện cho nhiều yếu tố văn hóa/ nền văn hóa, với sự hiện diện của nhiều nguồn gốc cư dân và khu vực/ vùng miền văn hóa, đạt được sự thống nhất trong đa dạng. Với cách hiểu đó, Xứ Nghệ hội đủ đặc điểm của một không gian đa văn hóa, mang đặc trưng văn hóa Bắc Trung Bộ, trong đó ví, giặm là “đặc sản”.

   Xứ Nghệ là tên chung của vùng đất Hoan Châu (gồm Nghệ An và Hà Tĩnh), có từ thời hậu Lê, chung nền văn hóa – văn hóa Hồng Lam với hai biểu tượng là núi Hồng, sông Lam. Văn hóa Xứ Nghệ được hình thành bởi cộng đồng cư dân nông nghiệp, trên một vùng rộng lớn, phía Bắc giáp Thanh Hoá, phía Nam giáp Quảng Bình, phía Tây tựa lưng vào dãy Trường Sơn, phía Đông nhìn ra biển. Từ xa xưa, dải đất này được xem là “địa linh, nhân kiệt”, “danh tiếng hơn cả Nam Châu” (Bùi Dương Lịch) với sông dài, biển rộng, núi cao. Nhận xét về đất và người Xứ Nghệ, sử gia Phan Huy Chú (1782-1840) trong Lịch triều hiến chương loại chí viết: “Con người ở đây rất cần kiệm và hiếu học, vật sản thì quý báu và hiếm lạ, thần núi và thần biển đều linh dị, khí thiêng non sông kết thành nhiều bậc danh hiền”1. Theo chiều dài lịch sử, vùng đất này đã trải qua nhiều thay đổi, cả về hình hài vóc dáng, và tên gọi, như: Việt Thường, Hoan Châu, An Tịnh (thời cổ, trung đại) hay Nghệ Tĩnh, hiện nay tách thành hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Tuy nhiên, từ góc nhìn địa - văn hóa - lịch sử, đây là một vùng văn hóa thống nhất trong đa dạng, có tính đặc thù, khu biệt với các khu vực văn hóa khác ở Việt Nam. Từ rất sớm, dọc theo hai bờ Sông Lam, từ thượng nguồn đến hạ lưu, đã hình thành những xóm làng trù phú. Với Xứ Nghệ, núi Hồng, sông Lam không chỉ là bức tranh thiên nhiên sơn thủy hữu tình mà còn góp phần tạo nên bản sắc của một vùng văn hóa. Vốn là vùng đất “biên ải”,”viễn trấn”, nguồn gốc cư dân Xứ Nghệ phức tạp, đa dạng. Tuy nhiên, sau hàng ngàn năm lịch sử, nơi đây đã hình thành một cộng đồng cư dân có tính thống nhất cao độ, với danh xưng người Nghệ. Theo nhiều nhà nghiên cứu (Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Khánh, Nguyễn Đổng Chi, Ninh Viết Giao…), so với cư dân ở các vùng miền khác, người Nghệ xưa có những đặc điểm riêng, dễ nhận biết, như: về tiếng nói, âm sắc của người Nghệ đục và nặng, khó nghe, khó bắt chước; về tư duy, người Nghệ thường không uyển chuyển, cứng nhắc, rạch ròi, dứt khoát đến cực đoan, bảo thủ; về hành động, người Nghệ quyết liệt, hăng hái, bản lĩnh đến liều lĩnh; về ứng xử hàng ngày, người Nghệ thường không thích hình thức, phô trương mà chuộng sự giản dị, mộc mạc. Những đặc điểm đó có ở người bình dân, người trí thức, trong văn chương nghệ thuật cũng như trong ứng xử giao tiếp đời thường. Ngày nay, tính khép kín của văn hóa vùng miền đã bị phá vỡ, thay vào đó là giao lưu, hội nhập. Theo đó, người Nghệ, tính cách Nghệ, đã có nhiều thay đổi. Văn hóa là sản phẩm của con người, thuộc về con người, vì con người; là những gì còn lại của một chu trình lịch sử. Trầm tích văn hóa của một dân tộc, một vùng miền gắn liền với lịch sử do con người tạo nên. Mỗi thành tố của một nền văn hoá cũng chính là một phần của cuộc sống con người. Từ cách nhìn đó, có thể nói, đất và người Nghệ Tĩnh đã làm nên bản sắc văn hóa Xứ Nghệ, trước hết là văn hóa dân gian, trong đó ví, giặm là thành tựu đặc sắc, nổi bật.

   Một trong những đặc điểm nổi bật của văn hóa đương đại là tồn tại, phát triển trong một không gian mở. Liên kết khu vực, giao lưu, hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, sâu rộng. Sự phát triển của khoa học công nghệ, internet, các ngành công nghiệp giải trí... là cơ hội và thách thức trong việc bảo tồn, phát triển các di sản tinh thần phi vật thể như ví, giặm. Nhìn từ lý thuyết đa văn hóa, để tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức, ví, giặm phải khẳng định được vị thế của một hình thức diễn xướng văn hóa dân gian truyền thống, giàu bản sắc, có khả năng đối thoại, thích ứng với đời sống văn hóa đương đại. Theo đó, bảo tồn ví, giặm phải gắn với việc mở rộng, phát triển, lan tỏa bản sắc, dựa trên tính đặc thù, sự bình đẳng, giữa các hình thức diễn xướng dân gian.

   2. Đặc trưng của ví, giặm trong nghệ thuật diễn xướng dân gian Việt Nam

   Cũng như các hình thức diễn xướng dân gian Việt Nam, ví, giặm Xứ Nghệ hình thành, phát triển trong môi trường văn hoá nông nghiệp lúa nước. Ảnh hưởng của văn hoá nông nghiệp lúa nước có thể thấy rõ ở cách thức tổ chức, nội dung và hình thức của ví, giặm. Nói cách khác, ví, giặm không vượt ra ngoài quỹ đạo của dân ca, dân vũ. Tuy nhiên, là sản phẩm văn hóa của đất và người Xứ Nghệ, ví, giặm có những đặc trưng rất riêng, khu biệt với các hình thức diễn xướng dân gian ở các vùng miền trên cả nước.

   Không gian văn hóa của ví, giặm trải dài, phủ rộng trên địa bàn hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, từ miền núi đến đồng bằng ven biển và hai bên bờ sông Lam. Ra khỏi vùng đất Xứ Nghệ, chia tách khỏi người Nghệ, ví, giặm khó tồn tại, phát triển. Đây là một độc đáo của ví, giặm, cho thấy bên cạnh khung cảnh thiên nhiên, tâm hồn, điệu sống, sinh hoạt văn hóa của cư dân Xứ Nghệ có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành, phát triển của ví, giặm. Nói cách khác, sinh quyển của ví, giặm được tạo nên từ tâm hồn, điệu sống của đất và người Xứ Nghệ. Mất những yếu tố đó, ví, giặm không có cơ sở để tồn tại, phát triển. Cũng như dân ca của nhiều vùng, miền trong cả nước, phương thức diễn xướng của ví, giặm vừa có hát lẻ (hát một mình, không cần tuân thủ lề lối, mang tính ngẫu hứng khi đang lao động hoặc nghỉ ngơi), hát cuộc (hay còn gọi là hát lề lối, thủ tục với nhiều người tham gia, diễn ra quy mô với hình thức đối ca nam nữ). Dù hát trên sông, trên đồng ruộng, trên bến dưới thuyền hay bên khung cửi, sau lũy tre làng... không gian diễn xướng bao trùm của ví, giặm vẫn là không gian làng quê, gắn với ba yếu tố cơ bản là nông thôn, nông nghiệp, nông dân. Ví, giặm không có sự phong phú về làn điệu như dân ca đồng bằng Bắc Bộ nhưng giai điệu của ví, giặm lại có sức mê hoặc, ám ảnh đến lạ lùng. Theo cách nói của nhạc sĩ An Thuyên, đó là “nỗi buồn thăm thẳm tận đáy”2 thể hiện cái khí chất, tính cách, hồn cốt của con người Xứ Nghệ. Những câu ví mượt mà, đằm thắm không chỉ thể hiện cảm xúc, nghĩ suy, trao gửi niềm thương nỗi nhớ, làm vợi đi sự vất vả của công việc đồng áng mà còn gắn kết tình làng nghĩa xóm, đưa con người xích lại gần nhau. Sự phong phú, đặc sắc và khả năng bảo tồn, lan tỏa của ví, giặm đều gắn với làng quê. Ví, giặm gắn với lao động, không có những mùa, những lễ hội riêng như hát xoan Phú Thọ, hát quan họ Bắc Ninh. Bởi vậy, ví, giặm không có nghệ nhân, truyền nhân, không có làng truyền thống, theo đúng nghĩa của những từ này. Những tên người, tên làng được nhắc đến không gợi tính chuyên nghiệp mà chỉ mang ý nghĩa nổi bật, tiêu biểu cho hát ví, giặm. Đó đơn giản chỉ là cuộc chơi, thú chơi mộc mạc, dân dã, nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của người dân Xứ Nghệ. Cách gọi tên, phân loại, cũng chỉ là tương đối, dựa trên nghề nghiệp của những người diễn xướng, như: ví phường vải, ví đò đưa, ví phường nón, ví phường cắt tranh, ví trèo non, ví phường bện võng, ví phường vàng, ví phường róc cau, ví phường lau mía, ví phường chắp gai đan lưới, ví phường củi, ví phường cỏ, ví phường măng, ví phường bẻ chè, ví phường bẻ ngô, ví phường buôn, ví phường nhổ mạ, ví phường gặt... Gắn với mỗi dòng sông, mỗi chuyến đi lại có cách gọi riêng, như: ví sông Phố, ví đò đưa sông La, ví đò đưa sông Lam, ví đò đưa xuôi dòng, ví đò đưa nước ngược... Sự khác biệt trong giai điệu, khúc thức âm nhạc giữa các loại ví đó không nhiều3 . Về thể thức và môi trường diễn xướng, ví, giặm Xứ Nghệ vừa có nét phóng túng tự do của hình thức hát trong lao động, vừa bài bản, lề lối theo hình thức hát hội. Người diễn xướng thường là nam thanh, nữ tú, nên nội dung lời ca nghiêng về đối đáp giao duyên. Thời gian và khung cảnh diễn ra hát ví linh hoạt, tuỳ vào công việc lao động. Chẳng hạn, ví phường vải thường diễn ra vào ban đêm, kéo dài thâu đêm suốt sáng, với không gian trong nhà - ngoài ngõ; ví đò đưa diễn ra trong không gian trên bến dưới thuyền, hoặc giữa các thuyền trên sông nước; ví phường gặt, ví phường nhổ mạ, ví phường cấy, thường diễn ra trên đồng ruộng... Hoàn cảnh diễn xướng, hoặc mang tính ngẫu hứng “đối cảnh sinh tình” trên bến dưới thuyền, hoặc những đêm hát phường, hội. Lề lối, cách thức cũng không khe khắt, chặt chẽ như hát quan họ (Bắc Ninh). Có thể xem đây là “thú chơi” của những người bình dân, và những nhà Nho chuộng lối sống bình dân. Hồn nhiên, mộc mạc, lạc quan yêu đời, lấy tình làm trọng, lấy nghĩa làm đầu. Trong số hơn 20 hình thức hát ví của dân ca Xứ Nghệ, ví phường vải và ví đò đưa được xem là hai hình thức tiêu biểu, đặc sắc nhất.

   Từ rất sớm, một cộng đồng người Nghệ đã hình thành và định cư, canh tác quanh lưu vực sông Lam. Gắn với nó là sự ra đời của nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt vải và nghề sông nước. Những chuyến đò ngược, xuôi trên sông Lam, sông La không chỉ để trao đổi, lưu thông hàng hóa giữa những vùng miền ở xứ Nghệ mà còn chở những câu hò, điệu ví đối đáp giữa trai gái trên bến dưới thuyền. Ở đó có những lời ca, những lối nói đã trở thành mòn sáo, được diễn lại và có cả những lời ca được ứng tác trong quá trình diễn xướng. Tài năng, hồn cốt của người hát được thể hiện rõ nhất ở lời ca, giọng hát chứ không phải là khúc thức âm nhạc. Đó là một cuộc chơi mà những người chơi không cần nhìn rõ mặt, không cần biết thân phận của nhau và không có gì phải ràng buộc. Ở đó có cả những ý tứ, nỗi niềm được trao gửi và có cả những câu hát bông đùa, tếu táo, thể hiện sự chất phác, hồn nhiên của người dân lao động. Tất cả đều bình đẳng, tự do. Cũng có đặc điểm tương tự là ví phường vải, một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian gắn với nghề trồng dâu, nuôi tằm dệt vải, thường diễn ra ở những nơi non nước hữu tình. Ở Xứ Nghệ xưa, ví phường vải tập trung và nổi tiếng nhất là Nam Đàn, Đô Lương, Quỳnh Lưu (Nghệ An) và Đức Thọ, Can Lộc, Kỳ Anh (Hà Tĩnh). Cũng như các hình thức dân ca nói chung, nội dung của ví phường vải mang đậm chất trữ tình. Tuy nhiên, do có sự tham gia của các trí thức Nho học, ví phường vải có những đặc tính riêng. Lời ca được trau chuốt, sử dụng nhiều điển tích, chơi chữ, ẩn ý, quy cách, hình thức phức tạp, chặt chẽ giàu tính văn chương. Thông thường, ví phường vải gồm bảy bước, ba chặng: Chặng một gồm 3 bước (hát dạo, hát chào, hát hỏi); chặng hai gồm 1 bước (hát đố - hát đối); chặng ba gồm 3 bước (hát mời, hát xe kết và hát tiễn). Thực hiện đầy đủ các chặng các bước trên, mỗi cuộc hát ví phường vải thường kéo dài trong nhiều đêm. Ở đó có sự pha trộn ít nhiều giữa văn hóa bác học và văn hóa bình dân, do sự can dự của các nhà Nho. Đây được xem là những điểm khác nhau cơ bản giữa hát ví phường vải với các thể hát ví khác trong dân ca Xứ Nghệ. Vai trò của các nhà Nho trong cuộc hát là người đặt lời, dẫn dắt, còn diễn xướng vẫn là những nam thanh, nữ tú bình dân. Nói cách khác, đó là quá trình dân gian hóa những sáng tác bác học. Thông qua hình thức hát đối đáp, người hát đã dân gian hoá một số hình thức nghệ thuật được coi là sản phẩm của văn học bác học, như hình thức đố chữ, cách dùng dẫn ngữ là điển tích văn chương... Điều này không chỉ làm phong phú, sâu sắc hơn văn hóa dân gian mà còn góp phần làm tươi mới, sống động hơn cho văn chương bác học, khi tác giả của nó – những nhà Nho được tắm gội trong nguồn mạch dân gian. Nhờ đó, sáng tác của họ phóng túng, tự do hơn. Ở Xứ Nghệ, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ là hai hiện tượng tiêu biểu cho mối quan hệ này. Trong sự ảnh hưởng của không gian văn hóa Xứ Nghệ đối với các sáng tác của Nguyễn Du, không gian diễn xướng của ví, giặm đã gợi cho thi nhân nhiều cảm hứng sáng tạo. Trong thời gian về sống ở làng Tiên Điền (Nghi Xuân - Hà Tĩnh), Nguyễn Du thường cùng trai làng phường nón đi hát ví giao lưu với các cô gái phường vải ở làng Trường Lưu (Can Lộc - Hà Tĩnh). Trong thời gian này, Nguyễn Du đã viết bài Thác lời trai phường nón trả lời bài Thác lời trai phường vải của Nguyễn Huy Quýnh. Bài thơ lục bát chan chứa tình cảm của chàng trai trẻ tài hoa, đa tình, mê hát ví, giặm. Ở đó, ông sử dụng nhiều ngôn từ của dân ca ví, giặm, gắn với nhiều địa danh non nước Hồng Lam. Cũng từ không gian ấy, Nguyễn Du đã cho ra đời bài Văn tế sống hai cô gái đất Trường Lưu được lưu truyền rộng rãi trong nhiều tầng lớp nhân dân. Ở chiều ngược lại, trong không gian diễn xướng ví, giặm, những nghệ sĩ dân gian đã sử dụng hình thức lẩy Kiều, tập Kiều để sáng tác những câu hát đối đáp mượt mà, sâu lắng. Sự tương tác giữa văn hóa dân gian và văn hóa bác học diễn ra một cách tự nhiên, mang đến những hiệu ứng tư tưởng, thẩm mĩ hết sức độc đáo. Nếu văn hóa, văn học dân gian là sự thể hiện khát vọng và ý thức dân chủ, thì ví, giặm là điển hình cho tính dân chủ. Ở đó, không có luật lệ nghiêm nhặt, không có phân biệt trên dưới, sang hèn, không có những điều cấm kỵ. Sự phóng túng trong tư tưởng được thể hiện ở ngôn từ, ở sự bình đẳng, gần gũi trong hình thức xưng hô. Trong diễn xướng, người hát thường sử dụng từ xưng hô ở ngôi thứ nhất, thứ hai số ít; dùng từ xưng hô mang tính định danh cụ thể; đưa tên riêng của các vai giao tiếp vào lời hát; dung nạp nhiều ngôn từ mộc mạc, dân dã.

   Một đặc điểm nổi bật của văn hóa truyền thống Việt Nam là vai trò của làng. Quan hệ xã hội của người Việt Nam chủ yếu là quan hệ dòng tộc, láng giềng. Làng không chỉ là đơn vị hành chính mà còn là nơi lưu truyền ngôn ngữ và văn hoá dân gian, nền tảng của ngôn ngữ và văn hoá dân tộc. Cây đa, bến nước, sân đình... là những hình ảnh thân quen, trở thành biểu tượng đặc trưng của làng quê Việt Nam. Từ cách nhìn đó, có thể thấy, ví, giặm thực sự đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành và bảo tồn các giá trị văn hóa làng quê Xứ Nghệ. Đó là một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian gần gũi, phổ biến, thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ, giúp người dân quên đi nỗi vất vả, cay đắng trong cuộc mưu sinh. Tính bình đẳng, dân chủ trong hình thức, ngôn từ của ví, giặm đã góp phần xóa đi khoảng cách, tôn ti, phá vỡ tính khép kín của xã hội truyền thống. Có thể nói, đó là một phương thức giao tiếp độc đáo, đặc sắc ở các làng quê Xứ Nghệ xưa. Nhiều giá trị tinh thần nhờ đó được lưu giữ và phát triển. Nhiều nhà yêu nước, nhà cách mạng đã mượn ví, giặm để vận động, tuyên truyền, giác ngộ nhân dân, tiêu biểu là Phan Bội Châu, một chí sĩ yêu nước nổi tiếng những năm đầu thế kỷ XX. Nhiều câu chuyện kể về Phan Bội Châu đi hát phường vải còn lưu truyền trong dân gian Xứ Nghệ.

   Qua những phân tích diễn giải trên đây cho thấy ví, giặm giữ một vai trò quan trọng trong cấu trúc văn hóa tinh thần ở Xứ Nghệ. Không thể hiểu một cách đầy đủ văn hóa, con người Xứ Nghệ nếu bỏ qua hình thức sinh hoạt văn hóa đặc sắc này. Theo Nguyễn Đổng Chi, Thái Kim Đỉnh, ví, giặm trở thành một hình thức sinh hoạt văn hóa phổ biến ở Xứ Nghệ từ thế kỷ XVIII. Nếu điều đó là xác thực thì đến nay, ví, giặm đã có một lịch sử tồn tại, phát triển hơn hai thế kỷ. Đó là khoảng thời gian chưa dài, song đã đủ để ví, giặm định hình, thấm sâu vào đời sống tinh thần người dân Xứ Nghệ. Tuy nhiên, trong đời sống văn hóa đương đại, ví, giặm đang bị mai một, mất dần vị thế. Những những câu ví, giặm ngày càng thưa vắng trong sinh hoạt văn hóa nơi làng quê Xứ Nghệ. Liệu ví, giặm có tồn tại trong đời sống văn hóa đương đại? Nếu có, bằng cách nào?

   3. Phát triển, mở rộng bản sắc – nguyên tắc cơ bản để ví, giặm hội nhập đời sống văn hóa đương đại

   Văn hoá có tính bền vững, là sản phẩm của con người, tồn tại trong đời sống của con người, gắn với con người, góp phần làm nên giá trị của con người. Bên cạnh giá trị bản sắc, văn hóa còn có giá trị phổ quát. Nơi nào có con người, nơi đó có văn hóa. Sự phát triển của khoa học công nghệ và giao lưu hội nhập trong đời sống hiện đại đã phá vỡ tình trạng khép kín, biệt lập của các vùng văn hóa. Đó là tất yếu của quá trình vận động, phát triển văn hóa. Là một di sản văn hóa tinh thần, ví, giặm không phải là hiện tượng bất biến mà vận động biến đổi không ngừng. Với cách nhìn đó, bảo tồn các giá trị truyền thống của ví, giặm không nệ cổ, phục cổ. Thay vào đó, phải làm cho ví, giặm sống động, tươi mới, hội nhập vào đời sống văn hóa đương đại.

   Ví, giặm thuộc loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian không có nhạc đệm, được cấu thành bởi ba yếu tố: lời ca, giai điệu, phương thức diễn xướng. Về nguồn gốc, ca từ ví, giặm được hình thành trong quá trình lịch sử, gắn với lao động và đời sống tinh thần của cư dân Xứ Nghệ. Ở đó, có những ca từ do người Nghệ sáng tác và không ít ca từ được “Nghệ hóa”, “dân gian hóa” từ thơ ca dân gian, thơ ca bác học, tạo nên một hệ thống ca từ phong phú, đặc sắc vào loại bậc nhất trong kho tàng dân ca Việt Nam. Ca từ ví, giặm mang đậm chất thơ, một chất thơ toát ra từ tình yêu cuộc sống; từ lối cảm, lối nghĩ chân chất, thực lòng của con người Xứ Nghệ – những con người luôn sống đến tận cùng niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và khổ đau. Nét nổi bật của ca từ ví, giặm là sử dụng nhiều phương ngữ, gắn với cách dùng từ, phát âm rất riêng của người Nghệ, chỉ có ở người Nghệ, người vùng khác khó bắt chước, học theo. Ở đó, vừa có phương ngữ địa lý vừa có phương ngữ xã hội, gắn với tập quán, nghề nghiệp, giới tính, tuổi tác, vùng miền... của những người diễn xướng, được thể hiện trên nhiều phương diện, như: cách sử dụng từ ngữ, nhất là từ xưng hô, từ chỉ không gian, thời gian, công việc; cách sử dụng nghệ thuật chơi chữ (nói lái, đồng âm, đồng nghĩa…). Với đặc điểm đó, việc phổ thông hóa tiếng Nghệ trong ví, giặm vô hình trung đã làm mất đi rất nhiều nét riêng, đặc sắc của ví, giặm, cho dù đó là một xu thế tất yếu của quá trình hội nhập văn hóa. Đây là một nghịch lý, một thách thức đối với quá trình bảo tồn phát triển ví, giặm trong xu thế hội nhập ngày nay. Làm thế nào để kết hợp hài hòa màu sắc địa phương và tính phổ thông của ca từ ví, giặm? Đó quả là điều không dễ. Thành công của Nguyễn Trung Phong trong Giận mà thương có thể xem là một mẫu mực của sự kết hợp này4.

   So với nhiều hình thức diễn xướng dân gian khác, khả năng “thành thị hóa” của ví, giặm là rất ít. Đây là một thách thức cho việc bảo tồn, phát triển ví, giặm, trong bối cảnh đô thị hóa ngày càng sâu, rộng như ngày nay. Không gian làng quê truyền thống đã bị phá vỡ. Lối sống, thị hiếu thẩm mĩ, nhu cầu văn hóa của con người, nhất là giới trẻ, cũng đã khác xưa. Con người cộng đồng trong văn hóa truyền thống bị lấn lướt bởi con người cá nhân, cá tính. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống được nhận thức lại và mất dần vị thế trong ý thức cộng đồng. Tình trạng khép kín với tính chất tự cung tự cấp của làng quê truyền thống đã được thay thế bằng giao lưu, hội nhập, hợp tác giữa các vùng miền và xa hơn là quốc tế. Sinh hoạt văn hóa, nhu cầu tinh thần của con người cũng trở nên phong phú, đa dạng và có khả năng được đáp ứng theo nhiều cách thức khác nhau. Theo đó, ví, giặm không thể sinh thành, phát triển như trong truyền thống. Trong bối cảnh đó, vận dụng, phát triển âm nhạc ví, giặm trong những sáng tác mới là hướng đi phù hợp, khả thi. Thực tế cho thấy nhiều nhạc sĩ đã khai thác thành công chất liệu âm nhạc dân ca Xứ Nghệ, nhất là ví, giặm, trong sáng tác ca khúc hiện đại ở nhiều chủ đề khác nhau. Nguyễn Tài Tuệ với Xa khơi, Đinh Quang Hợp với Tiếng hát sông Lam, Tân Huyền với Câu hò trên đất Nghệ An, Nguyễn Văn Tý với Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh, Trần Hoàn với Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò Nghệ Tĩnh, An Thuyên với Đêm nghe hát đò đưa nhớ Bác... là những hiện tượng như vậy. Chất liệu âm nhạc ví, giặm đã được tái sinh, phát triển trong những khúc thức âm nhạc hiện đại, mới mẻ, đầy sáng tạo, của những nhạc sĩ tài năng. Qua giai điệu, người nghe đã nhận ra hồn cốt của ví, giặm. Theo đó, một phần bản sắc văn hóa Xứ Nghệ trong ví, giặm đã được bảo tồn trong sự phát triển, hội nhập, lan tỏa một cách tự nhiên trong đời sống văn hóa đương đại.

   Trong bối cảnh hội nhập, phát triển, bên cạnh những giá trị truyền thống, bản sắc, văn hóa của một vùng miền, rộng hơn là quốc gia, dân tộc, phải hướng tới những giá trị hiện đại, phổ quát, mang tính nhân loại. Tuy nhiên, một tâm lý phổ biến của con người, đặc biệt là ở các nước nông nghiệp như Việt Nam, là thường dị ứng với cái mới, cái khác. Niềm tự hào về truyền thống gắn với nỗi lo về sự mất đi cái cũ. Để bảo tồn, phát triển các di sản văn hóa truyền thống như ví, giặm, trước hết phải vượt qua tâm lý ấy, từ đó tìm kiếm cách tiếp cận khoa học. Dựa trên nguyên tắc đề cao sự khác biệt, bình đẳng, đối thoại trong tiếp xúc, giao lưu của lý thuyết đa văn hóa, để bảo tồn, phát triển lan tỏa ví, giặm trong đời sống văn hóa đương đại, theo chúng tôi, cần phải thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau đây:

   Thứ nhất, cần có một cuộc “kiểm kê” toàn diện di sản dân ca ví, giặm, thông qua những cuộc sưu tầm, điền dã một cách bài bản, hệ thống trên địa bàn hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh. Đây là công việc đã được một số nhà nghiên cứu tiến hành từ những thập niên sáu mươi, bảy mươi của thế kỷ trước. Tuy nhiên, liệu những gì thu được đã phải là tất cả di sản ví, giặm? Hơn nửa thế kỷ với bao đổi thay của cuộc sống, con người Xứ Nghệ, thực trạng của ví, giặm hiện nay ở Nghệ An và Hà Tĩnh là như thế nào? Những gì còn, những gì đã mất? Những gì mới được sinh thành? Tất cả những điều đó chỉ được trả lời thỏa đáng dựa trên những kết quả khảo sát, điều tra toàn diện, khoa học, đồng bộ.

   Thứ hai, là một di sản văn hóa tinh thần, ví, giặm có đời sống riêng, không nằm trong những cuốn sách, bản nhạc in đẹp được lưu giữ trong các thư viện. Ví, giặm sinh tồn gắn với cuộc sống của người dân lao động. Vì vậy, việc bảo tồn, phát triển ví, giặm phải gắn với việc phục hồi sinh hoạt văn hóa dân gian ở các làng quê Xứ Nghệ. Trong đó, những câu lạc bộ dân ca ví, giặm là nòng cốt. Để hoạt động này được duy trì, phát triển, nhất thiết phải có sự hỗ trợ từ phía nhà nước, cả về chủ trương, chính sách và kinh phí. Cùng với nó, cần phải đưa dân ca ví, giặm thành một nội dung của môn Địa phương học trong chương trình của các trường phổ thông, cao đẳng, đại học ở Nghệ An, Hà Tĩnh, trang bị cho các em những tri thức cơ bản về ví, giặm.

   Thứ ba, cần có sự đầu tư chiều sâu, bài bản, trong việc sân khấu hóa ví, giặm. Ở đó, phải có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bảo tồn và phát triển cả về hình thức, không gian diễn xướng và ca từ, giai điệu, tránh lối trình diễn mang tính minh họa, lai ghép tùy tiện. Bên cạnh đó, cần có chiến lược đưa dân ca ví, giặm trở thành một sản phẩm đặc trưng của du lịch văn hóa ở Nghệ An, Hà Tĩnh.

   Thứ tư, cùng với quá trình xây dựng, phát triển đất nước, những cộng đồng người Nghệ đã hình thành ở nhiều nơi, trong và ngoài nước. Ở đó, tiếng Nghệ, nhiều phong tục tập quán của người Nghệ vẫn được bảo tồn. Theo đó, ví, giặm đã vượt ra ngoài không gian Xứ Nghệ, tái sinh, cộng sinh trong những sinh hoạt văn hóa của nhiều vùng miền trên cả nước và những cộng đồng người Nghệ ở nước ngoài. Đây là thế mạnh của dân ca ví, giặm, cần được khai thác, lan tỏa để ví, giặm thực sự là một di sản văn hóa tinh thần của nhân loại, có vị thế trong đời sống văn hóa đương đại.

   4. Kết luận

   Xu thế hội nhập, liên kết giữa các vùng, miền văn hóa mở ra cho ví, giặm một khả năng tham gia mạnh mẽ vào tiến trình văn hóa dân tộc và xa hơn là văn hóa nhân loại. Sự sàng lọc của thời gian, đổi thay của cuộc sống là những thử thách nghiệt ngã đối với các di sản văn hóa mà ví, giặm không phải là ngoại lệ. Ví, giặm chỉ tồn tại, phát triển khi được tái tạo, hội nhập, góp phần thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người trong đời sống hiện đại. Tất cả những điều đó phụ thuộc vào tầm nhìn, ý thức trách nhiệm của các cấp quản lý và của mỗi người dân Xứ Nghệ. Duy ý chí, chủ quan, thực dụng... là hiểm họa, nguy cơ làm biến dạng các giá trị văn hóa truyền thống, trong đó có ví, giặm.

   

 

Chú thích:
1 Phan Huy Chú (2014), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, NXB. Trẻ, tr. 186.
2 Văn hóa Nghệ An, ngày 20/6/2012.
3 Là người gắn bó với dân ca ví, giặm từ những năm 60 của thế kỷ XX, nhạc sĩ An Thuyên đã rất thành công khi phát triển dân ca Xứ Nghệ trong nhiều sáng tác của mình. Theo ông, âm nhạc ví, giặm được xây dựng trên trục ba nốt nhạc Mi - La - Đô, tương ứng với cách phát âm ba dấu của người Nghệ (dấu nặng, dấu huyền, không dấu), thay vì sáu dấu như cách phát âm tiếng Việt phổ thông.
4 Năm 1967, trong liên hoan kịch hát do Sở Văn hóa Nghệ An tổ chức, Nguyễn Trung Phong viết vở kịch hát Khi ban đội vắng nhà. Trong đó, có đoạn nhân vật người vợ hát ví, giãi bày với chồng suy nghĩ, việc làm của mình: “Anh ơi chứ khoan vội... bực mình/ Em xin kể lại cho anh tỏ tường/ Anh cứ nhủ rằng em không thương/ Em đo lường thì rất cặn kẽ/ Chính thương anh nên em bàn với mẹ/ Phải ngăn anh không đi chuyến ngược Lường.../ Giận thì giận mà thương thì thương/ Anh đi sai đường em không chịu nổi/ Anh ơi anh xin đừng có giận vội/ Trước tiên anh phải tự trách mình”. Năm 1969, Đỗ Nhuận dựa trên âm nhạc của đoạn ví này để viết ca khúc Trông cây lại nhớ đến Người. Chất liệu âm nhạc của Ví giận thương đã sử dụng làm nhạc nền cho bộ phim tài liệu Hồ Chí Minh - Chân dung một con người (Bùi Đình Hạc & Lê Mạnh Thích đạo diễn, Nguyễn Đình Thi viết lời bình).

Bình luận

    Chưa có bình luận