TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC TRONG THƠ ĐÔ THỊ MIỀN NAM 1954-1975 NHÌN TỪ CÁI TÔI TRỮ TÌNH

Bài viết phân tích tình yêu quê hương, đất nước trong thơ đô thị miền Nam 1954-1975 qua cái tôi trữ tình đầy cảm xúc cá nhân trong bối cảnh chiến tranh và chia cắt. Từ đó, cho thấy tình yêu ấy vừa thiết tha, gắn bó, vừa chất chứa mâu thuẫn, xung đột nội tâm, phản ánh sâu sắc tinh thần yêu nước và những biến động của thời đại.

   Sau khi Hiệp định Genève (7/1954) được ký kết, Việt Nam bị chia cắt thành hai miền Nam - Bắc. Miền Nam đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền Việt Nam Cộng hòa do Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Miền Bắc thuộc quyền kiểm soát của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sự chia cắt này đã tạo nên những sự khác biệt trong phát triển kinh tế, xã hội và văn học giữa hai miền, trong đó có thơ ca, mà biểu hiển rõ nhất là sự thể hiện tình yêu quê hương đất nước của cái tôi trữ tình trong thơ ở đô thị miền Nam với sự du nhập nhiều nền văn hóa, rõ nhất là văn hóa phương Tây và văn hóa Mĩ.

   Tình yêu quê hương đất nước trong thơ đô thị miền Nam 1954-1975 mang dấu ấn sâu đậm của cái tôi trữ tình, thể hiện qua cảm xúc cá nhân, khát khao tự do và sự gắn bó với quê hương. Mặc dù xã hội miền Nam có sự phân hóa rõ rệt và chịu ảnh hưởng từ văn hóa phương Tây nhưng thơ ca vẫn luôn là nơi để các nhà thơ bày tỏ tình yêu quê hương, đất nước, phản ánh mối quan hệ giữa cái tôi cá nhân và sự gắn kết với cộng đồng, dân tộc.

   Cái tôi trữ tình trong thơ đô thị miền Nam không chỉ gắn với cảm giác hoài niệm về quá khứ mà còn là những đau đớn trước hiện thực chiến tranh, trước sự chia cắt đất nước. Tuy nhiên, điều nổi bật vẫn là tình yêu quê hương, đất nước tha thiết trong những vần thơ ấy, dù cuộc sống có bị xáo trộn bởi những thay đổi của chiến tranh và xã hội.

   1. Những biểu hiện của tình yêu quê hương, đất nước nhìn từ cái tôi trữ tình

   Tình yêu quê hương, đất nước là một trong những nội dung nổi bật của thơ đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975, đặc biệt là ở khía cạnh biểu đạt của cái tôi trữ tình ở người nghệ sĩ. Bởi theo Trần Hoài Anh, “Văn học miền Nam rất đề cao cá tính sáng tạo và phong cách của nhà thơ”1. Vì thế, “văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975 mang dáng dấp một nền văn học “mở”, đa sắc màu. Mỗi người sáng tác, người đọc đều có quyền khẳng định tiếng nói của mình”2. Điều này thể hiện rõ qua một số bình diện sau:

   1.1. Cái tôi trữ tình và tình yêu quê hương, đất nước

   Cái tôi trữ tình về tình yêu quê hương, đất nước là dấu ấn sâu sắc trong thơ đô thị miền Nam. Cái tôi trữ tình thường thể hiện qua cảm xúc cá nhân, tâm trạng, suy nghĩ và những trải nghiệm riêng biệt của thi nhân. Đây là cái tôi chủ quan, mang đậm dấu ấn cá nhân nhưng cũng có thể mở rộng, kết nối với những cảm xúc chung của cộng đồng dân tộc. Cái tôi trữ tình không chỉ là sự thể hiện cái tôi đơn lẻ mà còn là sự hòa quyện của cái tôi với các mối quan hệ xã hội. Theo Bùi Bích Hạnh, “đặc trưng xã hội là một trong những nhân tố tạo nên sự vận động của cái tôi trữ tình. Con người không tách mình ra khỏi hiện thực cuộc sống mà luôn chịu sự chi phối của chấn động tinh thần thời đại”3.

   Thơ đô thị miền Nam phản ánh cái tôi trữ tình mạnh mẽ của tâm trạng cô đơn, mất mát trong một xã hội đầy những màu u xám:

   “Năm tháng nhúng hoàng hôn
   Đến rã rời thân xác
   Tôi thấy đã mất mát
   Tất cả trừ cô đơn”.
                         (Thân phận của thi sĩ, Tô Thùy Yên)

   Cái tôi trữ tình không chỉ đối diện với nỗi cô đơn thân phận mà còn là cảm nhận sâu sắc hình ảnh quê hương, đất nước. Cái tôi trữ tình ấy như đang trở về với hoài niệm, về miền quê, nơi có “cánh đồng” và “gốc rạ non”, những hình ảnh đặc trưng của làng quê Việt Nam. Những chi tiết này không chỉ là cảnh vật đơn thuần mà còn là biểu tượng của tình yêu thương gắn bó với quê hương:

   “Sớm muộn gì cô đơn cũng tới
   khi cuộc đời ta chớm mức xô nhanh
   như chuyến xe đò một chiều rét mướt
   băng qua cánh đồng trơ gốc rạ non”.
                             (Một hồi sau, Viên Linh)

   Các nhà thơ miền Nam cũng thể hiện cái tôi trữ tình qua việc khám phá tâm lý con người trong xã hội đô thị. Đó là sự cô đơn, mệt mỏi nhưng cũng không thiếu những khát khao về tình yêu, về hạnh phúc:

   “Bây giờ năm đã hết
   thời gian đương bắt đầu
   chỉ còn lại mình anh
   và nốt nhạc cô đơn”.
                             (Nhã Ca, Trần Dạ Từ)

   Chiến tranh với những đau khổ của kiếp người đã làm cho cái tôi trữ tình trong thơ đô thị miền Nam chứa đầy những hoài nghi vô vọng:

   “Tôi sống để quên quên để sống
   Chẳng thể đa mang tôi vốn tật nguyền”.
                              (Thái độ, Tô Thùy Yên) 

   Vì vậy, trong niềm vô vọng này, thi nhân đã tìm về với nguồn cội, trong tình tự dân tộc mà biểu hiện rõ nhất là tình yêu quê hương, đất nước. Tình yêu quê hương có thể được thể hiện qua nỗi nhớ nhung hay nỗi đau trước những thay đổi của xã hội, lịch sử. Bài thơ Chết đuối của Du Tử Lê mang đậm sắc thái trữ tình về quê hương, đất nước qua những cảm xúc sâu sắc về nỗi đau và khắc khoải của con người khi phải đối mặt với phân cách, chia ly. Cho nên, bàn tay “xẻ năm” có thể hiểu là sự phân tách, rạn vỡ, tượng trưng cho những nỗi buồn, mất mát trước hiện tình đất nước:

   “Tôi nhìn tôi nức nở
   Mà không hiểu vì đâu
   Giọt úa vàng cứ nhảy
   Sao bàn tay xẻ năm
   Để lọt hoài ước vọng”.

   Cái tôi trữ tình thể hiện một cảm giác yêu thương sâu sắc, quê hương là điểm tựa tinh thần, là nơi trái tim “rung động” không ngừng. Trong bài thơ Sóng vẫn đập vào eo biển, Lê Văn Ngăn thể hiện hình ảnh “dưới bầu trời sao” không chỉ gợi lên vẻ đẹp mênh mông của đất trời mà còn là sự hòa quyện của con người với vũ trụ, với quê hương mình. Quê hương trong thơ Lê Văn Ngăn không tươi sáng như trong thơ của Tần Hoài Dạ Vũ: “trời quê hương đã không còn mưa bụi/ hàng cây xanh thay lá mới bên đường/ khắp mọi lòng đang mở cửa ra vui/ người người đã thấy nắng hồng lên chật phổi” (Dòng chữ máu rưng rưng) mà chất chứa trong đó những u buồn khi phải đắm chìm trong lửa đạn chiến tranh.

   Với Nguyên Sa, tình yêu quê hương, đất nước thể hiện qua sự hòa quyện giữa hình ảnh miền Nam và miền Bắc, giữa những cảm xúc cá nhân và những giá trị văn hóa, truyền thống. Hình ảnh “nắng Sài Gòn”, “áo lụa Hà Đông” không chỉ biểu hiện cho vẻ đẹp của người con gái mà còn là sự thể hiện tình yêu sâu sắc, bền chặt của tác giả đối với quê hương đất nước, một tình yêu không thể phai mờ:

   “Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
   Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
   Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
   Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng”.
                                (Áo lụa Hà Đông, Nguyên Sa)

   Trong bối cảnh chiến tranh và chia cắt đất nước, tình yêu quê hương, đất nước trong thơ đô thị miền Nam 1954-1975 được thể hiện một cách sâu sắc. Đó không chỉ là những câu thơ ca ngợi vẻ đẹp của cảnh vật hay của con người mà còn là những trăn trở, tiếc nuối cùng khát vọng hòa bình, tự do và tình yêu đôi lứa.

   Cái tôi trữ tình trong thơ đô thị miền Nam thường mang những xúc cảm mạnh mẽ về quê hương, gia đình và mảnh đất nơi mình sinh ra. Mặc dù sống trong môi trường đô thị nhưng các nhà thơ vẫn không thể quên nguồn cội, những ký ức đẹp đẽ về miền quê. Thơ của họ là lời nhắc nhớ về những gì đã mất, giữa những năm tháng chiến tranh và khát khao một ngày được trở lại quê nhà. Tình yêu quê hương qua cái tôi trữ tình thể hiện sự kính trọng của người con dành cho mẹ, đồng thời cũng phản ánh những đau thương, mất mát của chiến tranh:

   “Sao những đứa con mẹ chưa thấy về
   sao vẫn thấy những lao tù phơi xác
   cùm gông những thằng con yêu Tổ Quốc
                                                  quê hương
   những đứa cháu bỏ trường ngơ ngác
   đầu đường cuối chợ lang thang”.
                                         (Buổi chiều của mẹ, Thái Tú Hạp)

   Tình yêu quê hương qua cái tôi trữ tình mang đến cho người đọc cảm giác về sự đau đáu, không thể rời xa mảnh đất đã nuôi dưỡng mình trưởng thành. Cái tôi trữ tình trong thơ đô thị miền Nam, vì thế, luôn gắn với nguồn cội, với những khó khăn, gian khổ của quê hương. Tình yêu quê hương không chỉ là tình cảm yêu nước mà còn là ý thức tiếp nối và tưởng nhớ sự hi sinh cho đất nước của những thế hệ đi trước cũng như nỗi lo lắng dành cho gia đình, làng xóm:

   “Đem thân đi gởi thao trường
   Cha tôi không còn, xưa lấy máu nhuộm
   quê hương
   Thuở em tôi bé bỏng
   Nghe quân thù về, đồng khô ruộng trống.
   Cây không đơm hoa, người vắng nẻo
                                                         làng”.
                                     (Giấc ngủ chân đèo, Duy Năng)

   Tình yêu quê hương không chỉ đơn thuần là nỗi nhớ về một vùng đất mà còn là sự gắn kết sâu sắc với cảnh vật, con người. Trong bài thơ Ngày về, Trần Tuấn Kiệt thể hiện tình yêu quê hương một cách chân thành và thiêng liêng, được nâng lên một tầm cao mới qua cái tôi trữ tình, thể hiện tình cảm đậm sâu với cảnh vật, con người nơi mình lớn lên. Cái tôi trữ tình trong thơ là biểu hiện của sự gắn kết, hòa quyện giữa người và đất, giữa trái tim con người và mảnh đất quê hương:

   “Lòng ta vì quá đỗi nhớ thương
   Cành hoa bụp cũ khóc bên đường,
   bên khuya Sa Đéc trăng mười sáu
   mấy độ chìm theo sóng lớp lang”.

   Tình yêu quê hương qua cái tôi trữ tình còn nhấn mạnh sự đau xót và nỗi niềm nhớ nhung về quê hương, đồng thời phản ánh sự giằng xé trong tâm hồn của người con xa quê. Trong bài thơ Giao tình khúc II, Kim Tuấn thể hiện cái tôi trữ tình đầy trăn trở, day dứt về mối quan hệ giữa người con với quê hương, nơi sinh thành nhưng nay chỉ còn lại khoảng cách và tiếc nuối:

   “Như nỗi sầu đau của con người bơ vơ
                                                    tìm thấy
   cuộc đời. - Xưa - Anh nhớ ngày xưa
                                                     có một
   lần em hỏi anh rằng: “Sao anh đành bỏ
                                                     quên
   quê hương, sao anh không về thăm lấy
                                 quê hương một lần?”.

   Dù xa quê, người con vẫn cảm nhận được sự yêu thương, gắn bó với quê hương qua hình ảnh thiên nhiên, qua ký ức về “cây yêu”, “nương hương”, “cây rừng yêu thương”. Đây là tình yêu nồng nàn, đau đáu, luôn bồi đắp và sống mãi trong tâm hồn người con, dù có phải trải qua những chia ly và cô đơn:

   “Giã từ cây yêu
   Nương hương xiêu xiêu
   Say men nước mát
   Trời theo cô liêu
   Đêm nay cành buồn
   Mơ tình quê hương”.
                              (Một cành cây khô, Minh Đức)

   Tình yêu quê hương qua cái tôi trữ tình trong thơ đô thị miền Nam 1954-1975 là một tình cảm vừa thiết tha vừa day dứt, phản ánh sự hoài niệm, khát khao và nỗi đau của những con người xa quê hương. Thơ trong giai đoạn này không chỉ là nỗi nhớ nhung quê hương mà còn phản ánh sâu sắc về một giai đoạn lịch sử đầy biến động, với những xáo trộn, mất mát nhưng tình yêu đối với quê hương luôn là một giá trị bền vững, không thể tách rời khỏi tâm hồn mỗi con người.

   1.2. Cái tôi trữ tình thể hiện tình yêu quê hương, đất nước trong chiến tranh

   Trong thơ đô thị miền Nam, chiến tranh là nỗi ám ảnh trong tâm trí con người. Người dân đô thị miền Nam sống trong một xã hội đầy biến động và tình yêu quê hương, đất nước của họ thể hiện qua sự giằng xé giữa khát vọng tự do cá nhân và trách nhiệm với đất nước. Mặc dù họ yêu quê hương nhưng chiến tranh và xã hội chia cắt khiến tình yêu đó không trọn vẹn và những cảm xúc đau đớn, tan vỡ, đôi khi là sự tuyệt vọng.

   Cái tôi trữ tình trong thơ không chỉ đơn giản là một cá nhân đứng ngoài cuộc chiến mà đã chịu đựng những ảnh hưởng sâu sắc từ hoàn cảnh chiến tranh. “Vầng trăng còn đậu giữa hồn ta” là hình ảnh ẩn dụ đầy sức khơi gợi. “Vầng trăng”, một biểu tượng của vẻ đẹp thuần khiết, của sự vĩnh cửu, gợi nhắc về một ký ức, một tình cảm không thể phai mờ. Với hoàn cảnh chiến tranh, cái tôi trữ tình không chỉ là tiếng nói của sự cô đơn mà còn là lời tố cáo những đau thương mà chiến tranh đã mang lại:

   “Ai hỡi phương nào ai có biết
   Vầng trăng còn đậu giữa hồn ta
   Quê hương thấy đó mà như mất
   Tàn cuộc trăm năm vẫn nhớ nhà”.
                                     (Nhớ bạn, Uyên Hà)

   Cái tôi trữ tình được xây dựng qua hình ảnh những “đóm mắt hỏa châu” và những “chấm đèn lóe ấm không gian sương”. “Những đóm mắt hỏa châu”, ánh sáng yếu ớt nhưng bền bỉ trong đêm khuya biểu tượng cho ánh sáng của niềm hi vọng và sức sống trong hoàn cảnh chiến tranh tối tăm. Cái tôi trữ tình nói về sự thao thức, lo âu trong những đêm dài của cuộc chiến, nơi mà những “chấm đèn” lóe sáng nhưng lại không đủ mạnh để xua đi bóng tối của sự tàn phá. Nó không chỉ là nỗi nhớ quê hương mà còn là sự khắc khoải của một người lính, một con người đang phải đấu tranh giữa sự sống và cái chết, giữa hi vọng và tuyệt vọng:

   “Những đóm mắt hỏa châu
   Thao thức từng khuya dài dạ chiến
   Thắp sáng trời quê hương
   Ơi những chấm đèn lóe ấm không gian
                                                    sương?”.
                                 (Những đóm mắt hỏa châu, Tường Linh)

   Hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt không chỉ ảnh hưởng đến con người mà còn hình thành một cách nhận thức mới về vai trò và ý nghĩa của cá nhân trong lịch sử. Những câu thơ “vận nước thăng trầm luyện chí đấu tranh” và “với hành trang đường dài” không chỉ miêu tả cuộc hành trình gian khổ của người lính mà còn phản ánh sự gian truân của mỗi con người trong hành trình tìm kiếm và bảo vệ sự sống. Cái tôi trữ tình trong chiến tranh không phải chỉ là sự tồn tại của cá nhân mà còn là cái tôi gắn liền với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, là cái tôi hòa vào cuộc sống chung của dân tộc. Nó phản ánh một ý thức sâu sắc về sứ mệnh, hi sinh và tình yêu quê hương, trong khi vẫn giữ được những cảm xúc riêng tư, khát khao xây dựng lại một đất nước hòa bình, tươi đẹp:

   “Vận nước thăng trầm luyện chí đấu
                                                    tranh
   ta sửa soạn lên đường
   rồi em cùng cất bước
   đi xây nhà và dựng lại quê hương
   với hành trang đường dài”.
                                   (Trường ca hòa bình, Ngô Kha)

   Thơ đô thị miền Nam khắc họa một cái tôi trữ tình cá nhân đầy mạnh mẽ trong bối cảnh chiến tranh, khi cá nhân không còn đơn thuần là một thực thể riêng biệt mà đã hòa quyện vào một sứ mệnh chung của cộng đồng, dân tộc. Mỗi cá nhân trong “chúng ta” đều đồng lòng, quyết tâm bảo vệ quê hương bằng tất cả niềm tin và sức lực. Chính sự kết hợp giữa cái tôi cá nhân và lý tưởng chung đã tạo nên một tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, đầy khát vọng và quyết tâm, không lùi bước trước bất kỳ khó khăn, thử thách nào trong cuộc đấu tranh giải phóng và bảo vệ đất nước:

   “Chúng ta quyết giữ đồn, quyết ngăn
                                               xâm lược
   Niềm tin vững cao như núi đá Trường
                                                       Sơn
   Chúng ta những người con ưu ái của
                                                 quê hương
   Dù một tên giặc còn, vẫn chưa hề ngưng
                                                 chiến đấu”.
                              (Đêm kiên trì giữ đồn giết giặc, Huy Phương)

   Cái tôi trữ tình không chỉ thể hiện nỗi đau đáu, khắc khoải của một con người mà còn là sự hòa quyện giữa cảm xúc cá nhân và lý tưởng chung của thời chiến. Thơ ca là nơi con người gửi gắm tâm trạng, cảm xúc, nhưng trong chiến tranh, cái tôi ấy không còn thuần túy cá nhân nữa mà đã hòa vào tiếng gọi của quê hương, của lý tưởng. Tô Thùy Yên cho rằng: “Nhiệm vụ người làm thơ là bơm chất máu của sự sống thời đại vào ngôn ngữ có vẻ đã khô héo”4 . Cái tôi trữ tình cá nhân không chỉ là nỗi khắc khoải trong lòng người lính mà còn là sự chia sẻ với người yêu, người thân:

   “Em ơi, giờ phản công đã điểm
   Anh phải về chiếm lại quê hương
   Anh phải về, ôi Quảng Trị yêu thương
                                                          […]
   Đang ngóng đợi quân ta về giải phóng”.
                                       (Giờ phản công đã điểm, Lê Hồng Chương)

   Cái tôi trữ tình thể hiện rõ sự đau đớn, chia ly nhưng cũng là sự tôn vinh và tự hào, niềm tin vào chiến thắng. Tuy nhiên, cái tôi trữ tình không tồn tại tách biệt mà đã gắn chặt với lý tưởng và nghĩa vụ công dân, hòa vào nỗi lo chung của cả đất nước trong những năm tháng khói lửa. Đây là một phần không thể thiếu trong cái tôi trữ tình khi mỗi cá nhân, dù là người chiến sĩ hay người dân thường, đều chịu đựng những thương tổn, những mất mát khôn xiết:

   “Anh tự vệ ơi xin chào anh thân mến
    Từ thuở quê hương lâm vòng chiến
   Tổ quốc mình trông cậy các anh
   Nếu sa trường bao chiến sĩ hy sinh
   Thì hậu tuyến cũng là bao gang thép
    Giặc pháo kích dân lành ta gục chết”.
                                  (Đêm gang thép đợi thù, Nguyễn Tấn Lộc)

   Cái tôi trữ tình không chỉ bộc lộ nỗi đau khổ khi chứng kiến quê hương, đất nước bị tàn phá mà còn là sự nhận thức về những mất mát không thể tránh khỏi trong chiến tranh. Cái tôi trữ tình trong thơ đô thị miền Nam vì thế không chỉ là nỗi đau thương, nhớ nhung mà còn là sự khát khao, hi vọng vào một tương lai bình yên:

   “An Lộc ơi, bao giờ thôi chinh chiến
   Đất nở hoa, hoa hút thịt xương người,
   Tôi sẽ về ngửi nắng ngát thơm hơi.
   Để sống lại những giờ làm lịch sử”.
                                      (Tiến về An Lộc, Nhất Lãng)

   Chính trong bối cảnh chiến tranh khốc liệt này, cái tôi trữ tình không phải là sự khẳng định đơn lẻ mà là sự hòa nhập, đồng điệu với những hi sinh chung của dân tộc. Cái tôi trữ tình ấy là một cái tôi hòa nhập vào không gian của cuộc kháng chiến, biến mình thành một phần không thể tách rời của sự nghiệp chung. Người viết gửi gắm tình cảm yêu thương, nỗi nhớ nhung và cả niềm tự hào đối với những người đã chiến đấu, ngã xuống vì đất nước. Cái tôi trữ tình cá nhân được khắc họa rõ nét trong chiến tranh:

   “Tin về em bằng chiến công giết giặc
   Của những người tử thủ giữ quê hương
   Trong tuyến lửa vẫn kiên cường chiến
                                                           đấu
   Giữ Bình Long bằng thân xác, máu
                                                       xương”.
                                 (Chứng nhân, Sa Mạc Linh)

   Cái tôi trữ tình thể hiện tình yêu quê hương, đất nước trong thơ đô thị miền Nam 1954-1975 không chỉ là sự bộc lộ cảm xúc cá nhân mà còn là sự hòa quyện tình yêu quê hương, đất nước. Thơ miền Nam trong giai đoạn này đã thể hiện được một cái tôi trữ tình đồng cảm, phản ánh lòng yêu nước qua những hình ảnh đậm chất lãng mạn và hùng tráng, khẳng định sức mạnh của tình yêu quê hương, đất nước trong bối cảnh chiến tranh.

   2. Kết luận

   Tình yêu quê hương, đất nước trong thơ đô thị miền Nam từ 1954-1975, khi được nhìn nhận qua cái tôi trữ tình, thể hiện một cách sâu sắc và phức tạp những cảm xúc, tâm tư của người dân trong bối cảnh chiến tranh của một xã hội đầy biến động. Cái tôi ấy không chỉ là biểu hiện của tình yêu và sự gắn bó với đất nước mà còn phản ánh những mâu thuẫn nội tâm, đau đớn trước sự chia cắt và mất mát. Dù phải đối diện với chiến tranh, đau thương, thơ đô thị miền Nam vẫn giữ vững được tinh thần yêu nước và khát vọng hòa bình. Chính cái tôi trữ tình là cầu nối để các nhà thơ bộc lộ những tình cảm sâu lắng, mang đậm bản sắc văn hóa và lịch sử của dân tộc. Thơ là nơi gửi gắm khát khao, hi vọng, là chứng nhân của một giai đoạn lịch sử đầy thử thách nhưng cũng đầy tự hào về lòng yêu nước của con người Việt Nam trong những năm tháng đầy bất an của quê hương, đất nước – nơi các nhà thơ đã dự phần như những chứng nhân lịch sử dân tộc. Cái tôi trữ tình trong thơ miền Nam 1954-1975 là sự hòa quyện giữa con người công dân và con người thi sĩ, khi phận số của từng cá nhân luôn gắn với vận mệnh của dân tộc. Đây là căn tố tạo nên phẩm tính của tình yêu quê hương, đất nước trong thơ đô thị miền Nam nhìn từ cái tôi trữ tình.

 

 

 

Chú thích:
1 Trần Hoài Anh (2009), Lý luận – phê bình văn học đô thị miền Nam 1954-1975, NXB. Hội Nhà văn, tr. 179.
2 Võ Chân Cửu (2017), Vén mây, NXB. Hội Nhà văn, tr. 202.
3 Bùi Bích Hạnh (2015), Thơ trẻ Việt Nam 1965-1975, khuôn mặt cái tôi trữ tình (chuyên luận), NXB. Văn học, tr. 41.
4 Nhiều tác giả (1965), Thảo luận về văn nghệ tiền chiến… về thơ, Sáng tạo xuất bản, tr. 134.

Bình luận

    Chưa có bình luận