LÝ LUẬN, PHÊ BÌNH VĂN HỌC MIỀN NAM 1954-1975 SAU 50 NĂM NHÌN LẠI VÀ SUY NGẪM

Bài viết nhìn lại tiến trình lý luận, phê bình văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975, nhấn mạnh vai trò của việc tiếp thu và ứng dụng lý thuyết văn học phương Tây vào hoạt động phê bình. Qua đó, khẳng định các nhà phê bình miền Nam đã tạo ra một đời sống phê bình sôi động, đa dạng, góp phần hiện đại hóa lý luận văn học dân tộc.

   G  Giai đoạn 1954-1975, do hoàn cảnh đặc biệt của lịch sử, đất nước bị chia cắt thành hai miền. Điều này đã tạo nên sự khác biệt trong tiến trình vận động và phát triển của văn học dân tộc. Nếu ở miền Bắc, văn học phát triển thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng thì ở miền Nam, văn học phát triển vô cùng phức tạp với nhiều bộ phận, khuynh hướng khác nhau. Vì vậy, khi luận bàn về đời sống văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975, bên cạnh lĩnh vực sáng tác vô cùng phong phú, đa dạng về cá tính sáng tạo của các thế hệ nhà văn nối tiếp với nhiều phong cách khác nhau mà tác phẩm của họ đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong sự tiếp nhận của người đọc như: Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Bùi Giáng, Võ Hồng, Võ Phiến, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Duyên Anh, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Mộng Giác, Du Tử Lê, Nguyên Sa, Tô Thùy Yên, Trần Hoài Thư…, đặc biệt là các nữ văn sĩ như: Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Trùng Dương, Nhã Ca, Trần Thị NgH, Lệ Hằng, Dung Sài Gòn…, chúng ta còn thấy sự hiện hữu của nền lý luận, phê bình văn học đã góp phần tạo nên sinh khí cho đời sống văn học miền Nam. Vì thế, bức tranh văn học miền Nam không thể thiếu vắng lý luận, phê bình văn học. Nền lý luận, phê bình ấy cũng đan xen những quan điểm, khuynh hướng khác nhau, phản ánh trung thực tình hình văn học miền Nam. Bởi lẽ, lý luận, phê bình văn học ở miền Nam giai đoạn 1954-1975, với sự tiếp biến nhiều giá trị lý luận, phê bình văn học của dân tộc và thế giới, trong đó nổi bật là lý luận, phê bình văn học phương Tây hiện đại, bên cạnh mặt hạn chế còn có một số thành tựu nhất định. Do vậy, nó phải có vị trí tương xứng trong nền lý luận, phê bình văn học dân tộc. Vì ở miền Nam, giai đoạn 1954-1975, dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa, “các nhà trí thức yêu nước có khuynh hướng dân tộc dân chủ cũng có đóng góp cho nền lý luận văn học nước nhà. Có thể kể tên các tác giả như: Nguyễn Hiến Lê, Thanh Lãng, Phạm Thế Ngũ, Đặng Tiến, Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Đăng Thục, Lữ Phương, Vũ Hạnh, Lý Chánh Trung, Nguyễn Sĩ Tế... Các học giả miền Nam một mặt giới thiệu tiếp thu các học thuyết lý luận phương Tây, góp phần hiện đại hóa lý luận và phê bình, mặt khác xây dựng một số bộ văn học sử Việt Nam, chú trọng phương diện văn hóa dân tộc của văn học”1. Với tinh thần đổi mới tư duy lý luận, phê bình văn học, “đã đến lúc phải thừa nhận nhiều nguồn lý luận văn học có giá trị khoa học, tránh thái độ kỳ thị trước các lý luận gọi là phi Marxist”2.

   Có thể nói, xã hội miền Nam giai đoạn 1954-1975 là một xã hội tích hợp nhiều nền văn hóa, trong đó có văn hóa phương Tây và văn hóa Mĩ. Với chủ trương mở cửa du nhập văn hóa nước ngoài một cách tự do, nhiều trường phái triết học, mĩ học, lý luận, phê bình văn học phương Tây đã tràn vào miền Nam và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống lý luận, phê bình văn học. Chính vì vậy, bức tranh lý luận, phê bình văn học ở miền Nam đã xuất hiện nhiều trường phái lý luận, phê bình phương Tây như: phân tâm học, chủ nghĩa hiện sinh, mĩ học tiếp nhận, cấu trúc luận, hiện tượng luận... cũng là điều tất yếu. Trong những năm 1930-1945, khi trào lưu lãng mạn chủ nghĩa của phương Tây tràn vào văn học chúng ta qua phong trào Thơ mới và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn thì theo Lý Hoàng Phong, ở miền Nam, “nếu trào lưu hiện sinh, trào lưu siêu thực có tác động trong văn thơ chúng ta cũng là thường”3. Tình hình này cho thấy sự đa phức trong đời sống lý luận, phê bình văn học ở miền Nam với việc khám phá các hiện tượng văn học từ những điểm nhìn khác nhau giữa các khuynh hướng lý luận, phê bình trên con đường tìm đến chân giá trị của văn chương.

   Tuy nhiên, ở một phương diện nào đó, sự tiếp biến các khuynh hướng lý luận, phê bình phương Tây không chỉ tạo nên sự đa dạng của lý luận, phê bình văn học ở miền Nam mà còn góp phần làm phong phú và hiện đại hóa lý luận, phê bình văn học dân tộc vốn còn nghèo nàn và lạc hậu so với lý luận, phê bình văn học hiện đại của thế giới. Nói như Nguyên Sa – Trần Bích Lan: “Nhìn tổng quát cả một thế kỷ văn chương ta thấy sự giao tiếp với văn học nghệ thuật Tây phương thúc đẩy ta tiếp nhận mau lẹ để tiếp nhận cái khác. Ta như bị thúc đẩy với một tiếng nói không âm thanh: phải đổi thay thật nhanh, phải biến dịch thật mau, cho nên, người này vừa làm xong cổ điển, không đợi những thế kỷ XVIII và XIX trôi qua, người kia tiến ngay đến siêu thực, cùng một tác giả có thể nhảy từ tả chân sang siêu thực rồi đến hiện sinh. Và cái sự thay đổi mau lẹ đó, nhìn ở mặt trái, nó đáng buồn vì chưa thật là ta, vì còn mang nặng dấu vết này, dấu vết nọ, nhưng nhìn ở mặt phải, nó nói lên sự khao khát đổi thay. Và khi họ đổi thay để bắt kịp những đổi thay của văn học nghệ thuật thế giới, sự khao khát đó sẽ đóng vai động lực của những sáng tạo lớn”4.

   Việc tiếp nhận văn hóa phương Tây, trong đó có các trường phái lý luận, phê bình văn học, đã tạo điều kiện cho sự phát triển của lý luận, phê bình văn học ở miền Nam với những khát vọng đổi thay trên tinh thần sáng tạo. Đây chính là động lực, là tiền đề quan trọng tạo những bước nhảy vọt trong tiến trình vận động và phát triển của tư duy lý luận, phê bình văn học ở miền Nam.

   Khi tìm hiểu một nền lý luận, phê bình văn học, không thể không nói đến đội ngũ những người làm lý luận, phê bình. Đây là nhân tố quan trọng nếu không muốn nói là quyết định đến sự hình thành và phát triển của mọi nền lý luận, phê bình văn học. Lý luận, phê bình văn học ở miền Nam 1954-1975 cũng được tạo nên bởi những nhà lý luận, phê bình nhưng là những nhà phê bình không chuyên. Nghĩa là họ đến với công việc lý luận, phê bình từ nhiều ngả đường, nhiều thành phần xã hội khác nhau nhưng rẽ ngang vào lãnh địa lý luận, phê bình. Họ nghiên cứu, biên soạn, giới thiệu các trường phái lý luận, phê bình của nhiều nước trên thế giới, đồng thời ứng dụng lý thuyết của các trường phái này vào phê bình văn học. Đó là những nhà giáo, nhà văn, nhà thơ, nhà báo như: Nguyễn Văn Trung, Thanh Lãng, Lê Tuyên, Đỗ Long Vân, Đặng Phùng Quân, Lữ Phương, Trần Bích Lan – Nguyên Sa, Võ Phiến, Doãn Quốc Sĩ, Nguyễn Hiến Lê, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Vũ Hạnh, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Lê Huy Oanh, Nguyễn Tấn Long, Trần Tuấn Kiệt, Cao Thế Dung, Đặng Tiến, Tam Ích, Thế Phong, Nguyễn Xuân Hoàng, Tạ Tỵ, Nguyễn Sỹ Tế, Huỳnh Phan Anh, Phạm Thế Ngũ, Nguyễn Trọng Văn, Nguyễn Đình Tuyến, Uyên Thao, Minh Huy, Cao Huy Khanh... Trong số này có những người từng du học ở nước ngoài, chủ yếu là ở Pháp. Chính họ là bộ phận nòng cốt của đội ngũ lý luận, phê bình văn học miền Nam, là những người có công giới thiệu các trường phái lý luận, phê bình văn học phương Tây vào miền Nam như Nguyễn Văn Trung, Thanh Lãng, Trần Thái Đỉnh, Lê Tuyên, Đỗ Long Vân, Trần Thiện Đạo, Trần Bích Lan – Nguyên Sa... Vì vậy, nhận định về đội ngũ lý luận, phê bình văn học ở miền Nam, Võ Phiến cho rằng “thời kỳ 1954-1975 gặp cái rủi ro hiếm thấy là trong suốt hai mươi năm trời không có được lấy một nhà phê bình chuyên nghiệp. Trên báo chí vẫn có những bài điểm sách, giới thiệu, phê bình; nhưng hầu hết là bài của giới sáng tác nhận xét lẫn nhau”5. Còn Lữ Phương khi nói về thực trạng lý luận, phê bình văn học ở miền Nam cũng nhận xét “chúng ta không có những nhà phê bình chuyên nghiệp đáng tin cậy và điều kiện sinh hoạt văn học hiện tại của ta đã không đủ yếu tố để tạo nên những người như vậy”6.

   Có thể ở miền Nam trong thời kỳ này không có những nhà lý luận, phê bình chuyên nghiệp, nghĩa là họ không thuần túy làm công việc lý luận, phê bình. Nhưng không vì thế những công trình lý luận, phê bình của họ lại thiếu tính chuyên nghiệp. Ngược lại, với những gì họ viết ra trong các công trình nghiên cứu của mình thật sự là những tác phẩm lý luận, phê bình đúng nghĩa, có tính khoa học, có giá trị cả về lý luận lẫn thực tiễn ứng dụng, bởi những tác phẩm này được xây dựng trên một cơ sở lý thuyết rõ ràng, không phải là những suy luận chủ quan, cảm tính theo kiểu phê bình nghiệp dư. Đó là các công trình của một số gương mặt lý luận, phê bình tiêu biểu mà tác phẩm của họ thật sự giá trị, có ảnh hưởng đến đời sống lý luận, phê bình văn học miền Nam như: Nguyễn Văn Trung với Lược khảo văn học (3 tập), Nhận định (6 tập), Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết, Ngôn ngữ và thân xác, Ca tụng thân xác; Thanh Lãng với Bảng lược đồ văn học Việt Nam, Phê bình văn học thế hệ 1932, Văn học Việt Nam hai thế hệ dấn thân yêu đời; Lê Tuyên với Chinh phụ ngâm và tâm thức lãng mạn của kẻ lưu đày, Thời gian hiện sinh trong Đoạn trường tân thanh; Đỗ Long Vân với Nguồn nước ẩn của Hồ Xuân Hương, Vô Kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung; Đặng Phùng Quân với Triết học và văn chương; Đặng Tiến với Vũ trụ thơ; Trần Bích Lan – Nguyên Sa với Một bông hồng cho văn nghệ, Quan điểm văn học và triết học; Huỳnh Phan Anh với Văn chương và kinh nghiệm hư vô, Đi tìm tác phẩm văn chương; Võ Phiến với Tiểu thuyết hiện đại; Phạm Công Thiện với Ý thức mới trong văn nghệ và triết học, Hố thẳm tư tưởng; Tam Ích với Ý văn, Văn nghệ và phê bình; Bùi Giáng với Thi ca tư tưởng, Tư tưởng hiện đại; Doãn Quốc Sỹ với Văn học và tiểu thuyết; Nguyễn Đăng Thục với Thế giới thi ca Nguyễn Du; Lữ Phương với Mấy vấn đề văn nghệ; Vũ Hạnh với Tìm hiểu văn nghệ, Đọc lại Truyện Kiều; Nguyễn Trọng Văn với Phạm Duy đã chết như thế nào?; Uyên Thao với Các nhà văn nữ Việt Nam 1900-1970, Thơ Việt Nam hiện đại; Tạ Tỵ với Mười khuôn mặt văn nghệ, Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay; Trần Nhựt Tân với Dư vang nghệ thuật... Trong đội ngũ những nhà lý luận, phê bình văn học ở miền Nam, có thể nói Nguyễn Văn Trung là một trong những nhà lý luận, phê bình văn học “có tầm ảnh hưởng lớn”7. Bởi theo Nguyễn Trọng Văn, Nguyễn Văn Trung là người “có công trong việc giới thiệu những trào lưu tư tưởng mới của phương Tây với độc giả Việt Nam. Những triết gia, những tư tưởng gia, những văn nghệ sĩ cùng những chuyển biến văn học, triết học quan trọng ở ngoại quốc thường được ông trình bày, giới thiệu một cách gọn gàng, mạch lạc”8. Vì thế, theo chúng tôi, dù nền lý luận, phê bình văn học miền Nam 1954-1975 không có những nhà lý luận, phê bình chuyên nghiệp đúng nghĩa như Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan trong giai đoạn văn học 1930-1945 nhưng vẫn là một nền lý luận, phê bình mang tính chuyên nghiệp cả trong nội dung khoa học và hình thức hoạt động.

   Chính vì vậy, chỉ trong hai mươi năm, lý luận, phê bình văn học miền Nam từ những bước đi ban đầu mang tính khai phá ở giai đoạn 1954-1963 với những bài điểm sách, điểm tình hình thời sự văn học và những cuộc trao đổi, thảo luận về một số vấn đề lý luận, phê bình như: “Nhân vật trong tiểu thuyết”, “Nói chuyện về thơ bây giờ”, “Nhìn lại văn nghệ tiền chiến ở Việt Nam” trên Tạp chí Sáng tạo (1960); phỏng vấn các nhà văn quan niệm “về truyện ngắn”, “về sáng tác” trên Tạp chí Bách khoa (1961) của Nguiễn Ngu Í... cũng như việc giới thiệu một số trào lưu tư tưởng phương Tây mà chủ yếu là chủ nghĩa hiện sinh trên các tạp chí như: “Vấn đề giải thoát con người trong Phật giáo và tư tưởng J. P. Sartre” của Nguyễn Văn Trung (Đại học, số 2/1958); “Phật giáo và chủ nghĩa hiện sinh J. P. Sartre” của Quang Ninh (Văn hóa Á Châu, số 9/1958); “Khái niệm về chủ nghĩa hiện sinh” của Quang Ninh (Sáng tạo, số 28/1959); “Vị trí trào lưu hiện sinh trong lịch sử triết lý” của Trần Văn Toàn (Đại học, số 12/1960); “Phác họa hiện tượng luận về thẩm mỹ học của tiểu thuyết”của Nguyễn Văn Trung (Đại học, số 2/1961); “Trình bày và phê bình hai quan niệm nổi loạn của Albert Camus” của Thạch Chương (Sáng tạo, số 9/1960); “Nietzsche (1844-1900) - Con người siêu việt” của Nguyễn Anh Linh (Bách khoa, số 92/1960); “Bộ mặt của triết học hiện sinh” của Trần Hương Tử (Bách khoa, số 114/1961); “Lược khảo phong trào thi ca siêu thực Pháp” của Lê Huy Oanh (Văn nghệ, số 4, 5, 6/1961)...

   Nhưng đến sau 1963, khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ kéo theo sự tan rã của chủ nghĩa “cần lao nhân vị” thì chủ nghĩa hiện sinh đã trở thành một trong những hệ tư tưởng chi phối đời sống chính trị xã hội ở đô thị miền Nam. Từ đó lý luận, phê bình văn học miền Nam đã bước sang một trang sử mới. Nhiều trường phái triết học, mĩ học, lý luận, phê bình văn học khác của phương Tây cũng được giới thiệu khá rầm rộ như: hiện tượng học, cấu trúc luận, mĩ học tiếp nhận, phê bình mới... Từ đây lý luận, phê bình văn học ở miền Nam đã phát triển với nhịp độ khá nhanh trên cả bình diện phẩm và lượng. Hàng loạt các bài viết trên các tạp chí về những trào lưu tư tưởng phương Tây được tập trung giới thiệu như: “Quan niệm cơ cấu trong các khoa học nhân văn” (Bách khoa, từ 126-271/1968); “Thuyết cơ cấu và phê bình văn học” (Bách khoa, số 289-294/1969) của Trần Thái Đỉnh; “Tìm hiểu cơ cấu luận như một phương pháp, một tiểu thuyết và đặt vấn đề tiếp thu” (Bách khoa, số 293-294/1969) của Nguyễn Văn Trung; “Lịch sử của cảm giác buồn nôn trong văn chương Tây phương hiện đại” của Hoàng Văn Đức (Văn, số 2/1964); “J. P. Sartre thân thế và sự nghiệp” của Trần Thiện Đạo (Văn, số 31/1965); “Phấn đấu cho một nền tiểu thuyết mới” của Alain Robbe - Grillet, do Trần Thiện Đạo dịch và giới thiệu (Văn, số 33/1965); “Những vấn đề của văn nghệ phương Tây hiện đại” của Triều Sơn (Văn, số 34/1965); “Văn chương là gì?” của J. P. Sartre, do Nguyễn Minh Hoàng dịch và giới thiệu (Văn, số 56-65/1966); “Tìm hiểu thuyết cơ cấu” của Trần Thiện Đạo (Văn học, số 2/1967); “Phân tâm học và thiền” của Chơn Hạnh (Tư tưởng, số 1/1967); “Thời gian qua Kant, Hegel và Husserl” (Tư tưởng, số 4, 5/1968); “Triết học hiện sinh và chính trị” của Trần Thái Đỉnh (Bách khoa, số 264/1968); “Sartre trong đời sống” của Nguyễn Văn Trung (Bách khoa, số 267-268/1968); “Samuel Beckett và thẩm quyền của ngôn ngữ” của Huỳnh Phan Anh (Khởi hành, số 29/1969); “Nietzsche và Mật Tông” của Ngô Trọng Anh (Tư tưởng, số 5/1970); “Phê bình mới, phê bình cũ” của Nguyễn Văn Trung (Bách khoa, số 381/1972)... Và rất nhiều công trình lý luận, phê bình văn học có giá trị như Nguồn nước ẩn của Hồ Xuân Hương (1966), Vô Kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung (1967) của Đỗ Long Vân; Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết (1965), Ngôn ngữ thân xác (1967), Lược khảo văn học 2 (1966), Lược khảo văn học 3 (1968) của Nguyễn Văn Trung; Một bông hồng cho văn nghệ (1967) của Nguyên Sa; Mấy vấn đề văn nghệ (1967) của Lữ Phương; Ý Văn 1 (1967), Văn nghệ và phê bình (1969) của Tam Ích; Tạp bút-tiểu luận (1969) của Võ Phiến; Đọc lại Truyện Kiều (1966), Tìm hiểu văn nghệ (1970) của Vũ Hạnh; Vũ trụ thơ (1972) của Đặng Tiến; Văn chương và kinh nghiệm hư vô (1968), Đi tìm tác phẩm văn chương (1972), Duyên Anh tuổi trẻ mộng và thực (1972) của Huỳnh Phan Anh; Ý thức mới trong văn nghệ và triết học (1970) của Phạm Công Thiện; Dư vang nghệ thuật (1971) của Trần Nhựt Tân; Thơ Việt Nam hiện đại (1969), Các nhà văn nữ Việt Nam 1900-1970 (1973) của Uyên Thao; Mười khuôn mặt văn nghệ (1970), Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay (1972) của Tạ Tỵ; Văn học và tiểu thuyết (1973) của Doãn Quốc Sỹ; Thẩm mỹ học thông khảo (1974) của Nguyễn Văn Xung; Văn học và ngữ học (1974) của Bùi Đức Tịnh; Triết học và văn chương (1974) của Đặng Phùng Quân...

   Không chỉ dừng lại ở việc giới thiệu các học thuyết, trào lưu tư tưởng nước ngoài, các nhà lý luận, phê bình còn ứng dụng các lý thuyết đó vào việc tìm hiểu giá trị của các hiện tượng văn học và đã có một số tác phẩm khá thành công như: Lược khảo văn học (3 tập) của Nguyễn Văn Trung; Chinh phụ ngâm và tâm thức lãng mạn của kẻ lưu đày của Lê Tuyên; Nguồn nước ẩn của Hồ Xuân Hương, Vô kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung của Đỗ Long Vân; Vũ trụ thơ của Đặng Tiến; Văn chương và kinh nghiệm hư vô, Đi tìm tác phẩm văn chương của Huỳnh Phan Anh... Hay một số bài đăng trên các báo như: “Nhân vị trong Hồn bướm mơ tiên”của Đỗ Minh Vọng (Đại học, số 4, 5/1958); “Thời gian hiện sinh trong Đoạn trường tân thanh” (Đại học, số 9/1959), “Biện chứng phản diện trong Cung oán ngâm khúc” (Đại học, số 3/1958) của Lê Tuyên; “Gặp gỡ giữa Ôn Như Hầu và Albert Camus” (Văn, số 2/1964) của Đặng Tiến; “Nỗi khắc khoải siêu hình trong thơ Hàn Mặc Tử” (Văn, số 73-74/1967) của Nguyễn Xuân Hoàng; “Thử phác họa một bản đồ địa ngục theo Chế Lan Viên” (Văn học giai phẩm, 1974) của Đỗ Long Vân...

   Với việc ứng dụng lý thuyết của các trường phái lý luận, phê bình văn học phương Tây hiện đại như: phân tâm học, chủ nghĩa hiện sinh, cấu trúc luận, hiện tượng luận, mĩ học tiếp nhận... vào việc tìm hiểu nhiều hiện tượng văn học, các nhà lý luận, phê bình văn học miền Nam đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí góp phần tạo ra những giá trị mới cho nhiều tác phẩm văn học của dân tộc vốn chỉ được nhìn nhận qua hệ quy chiếu của triết học và mĩ học phương Đông. Có thể nói việc dịch và giới thiệu văn học nước ngoài, trong đó có các công trình lý luận, phê bình, đã trở thành một trào lưu khá thịnh hành và phát triển ở miền Nam từ giữa thập niên sáu mươi nên có những nhà xuất bản từ khi mới ra đời đã chủ trương chỉ in sách dịch như Nhà xuất bản Giao Điểm. Hoặc như tờ báo Văn “trong hơn 11 năm đã dành ra hơn 90 số đặc biệt cho văn học ngoại quốc. Tức là xấp xỉ 1/3 tổng số báo xuất bản”9. Đây cũng là một trong những nhân tố góp phần tạo nên sự phát triển nhanh chóng của văn học miền Nam trong đó có lý luận, phê bình. Tuy nhiên, trong việc ứng dụng các hệ lý thuyết vào phê bình văn học, các nhà lý luận, phê bình văn học ở miền Nam không vận dụng cứng nhắc một lý thuyết nào mà luôn kết hợp nhiều lý thuyết khi đánh giá các hiện tượng văn học. Bởi, theo Tam Ích, nếu “nhắm mắt lại mà áp dụng các giáo điều thì đều mắc phải bệnh ấu trĩ cho nhà sáng tác. Rồi đến ấu trĩ cho nhà phê bình cũng theo những nguyên tắc có sẵn mà nói, và ấu trĩ luôn cho độc giả”10. Có lẽ đây cũng là một trong những vấn đề cần được nhận thức lại trong việc đổi mới tư duy lý luận, phê bình văn học của chúng ta hôm nay.

   Như vậy, với việc đa dạng hóa các hình thức sinh hoạt lý luận, phê bình, việc mở rộng giới thiệu nhiều trường phái triết học, mĩ học, lý luận, phê bình văn học phương Tây, sự phát triển của đội ngũ các nhà lý luận, phê bình, đời sống lý luận, phê bình văn học miền Nam 1954-1975 đã có những bước phát triển nhanh chóng. Đó là bức tranh lập thể nhiều sắc màu, là dàn đồng ca nhiều giọng điệu, là bầu trời nhiều vì sao tuy sinh động nhưng phức tạp và cũng có những giới hạn nhất định. Không những thế, do chịu sự tác động sâu sắc bởi các biến động của đời sống chính trị xã hội và văn hóa, đặc biệt là ảnh hưởng của lý luận, phê bình văn học phương Tây và cuộc đấu tranh bảo vệ văn hóa dân tộc, lý luận, phê bình văn học miền Nam 1954-1975 đã phân hóa thành nhiều khuynh hướng khác nhau. Đó là các khuynh hướng chủ yếu như: khuynh hướng lý luận, phê bình chịu ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng phương Tây; khuynh hướng lý luận, phê bình chịu ảnh hưởng quan điểm Marxist và khuynh hướng lý luận, phê bình chịu ảnh hưởng tư tưởng các tôn giáo. Sự phân hóa này phản ánh khá trung thực đời sống lý luận, phê bình văn học miền Nam.

   Có thể nói việc mạnh dạn mở cửa để tiếp nhận và ứng dụng các trào lưu văn hóa của thế giới, trong đó có các trường phái lý thuyết văn học hiện đại của phương Tây, đã đem đến cho đời sống văn học miền Nam một nguồn năng lượng tích cực, tạo điều kiện cho sự phát triển của lý luận, phê bình văn học với khát vọng đổi thay mang tính sáng tạo trên nền tảng của một nền văn học thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân bản và khai phóng. Đây chính là động lực, là tiền đề quan trọng tạo bước “nhảy vọt” trong tiến trình vận động và phát triển của tư duy lý luận, phê bình, tạo nên một dàn đồng ca đầy sức sống cho sinh hoạt lý luận, phê bình văn học miền Nam 1954-1975 trên bình diện lý thuyết và ứng dụng.

   Với độ lùi thời gian đã năm mươi năm, từ ngày đất nước thống nhất, đặc biệt từ khi nước nhà tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó có việc đổi mới tư duy sáng tác và lý luận, phê bình văn học, xuất phát từ yêu cầu đổi mới lý luận, phê bình văn học và thực tiễn của việc nghiên cứu văn học, trên cơ sở khảo sát những tác phẩm lý luận, phê bình văn học miền Nam, thiết nghĩ đã đến lúc cần phải nghiên cứu một cách thấu đáo, khách quan, khoa học tình hình lý luận, phê bình văn học miền Nam trong tiến trình vận động, phát triển lý luận, phê bình văn học dân tộc, để khẳng định vai trò của văn học miền Nam, trong đó có bộ phận lý luận, phê bình văn học nước nhà. Như thế, nền văn học nước nhà nói chung và lý luận, phê bình văn học dân tộc nói riêng sẽ trở nên đa thanh, đa diện, cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu được mở rộng hơn, đáp ứng nhu cầu đổi mới tư duy lý luận, phê bình văn học dân tộc trong thời kỳ hội nhập và phát triển. Theo Nguyễn Khoa Điềm, “dù đất nước đã mở cửa nhưng việc khai thác thành quả của lý luận hiện đại thế giới cũng như truyền thống lý luận của dân tộc lại chưa được nghiên cứu đầy đủ, có hệ thống”11. Không những thế, theo Lộc Phương Thủy, “việc giới thiệu, dịch thuật các tác phẩm học thuật nước ngoài ở Việt Nam còn chưa được bao nhiêu. Cần phải mở nhiều ô cửa ra thế giới tham khảo kinh nghiệm”12.

   Mở cửa ra nước ngoài là cần thiết. Nhưng mở cánh cửa quá khứ của nền lý luận, phê bình văn học dân tộc, trong đó có bộ phận lý luận, phê bình văn học ở miền Nam vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của lý luận, phê bình văn học phương Tây cũng là việc làm có ý nghĩa để đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá nền lý luận, phê bình văn học dân tộc trong thời kỳ hội nhập và phát triển theo tinh thần Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị, khoá X Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới, đó là: “Tổ chức nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc thành quả lý luận văn học, nghệ thuật của ông cha và của thế giới, vận dụng sáng tạo, làm phong phú lý luận văn học Việt Nam hiện đại”13. Không những thế, Đề án số 15-ĐA/BTGTW ngày 14/7/2023 của Ban Tuyên giáo Trung ương đã xem văn học, nghệ thuật miền Nam là di sản của văn học, nghệ thuật dân tộc cần được nghiên cứu để có những công trình đánh giá khách quan trên tinh thần khoa học để bảo tồn.

   Như vậy, Đảng đã trao cho chúng ta chiếc chìa khóa và nhiệm vụ của các nhà lý luận, phê bình là phải mạnh dạn mở các cánh cửa này để “khai quật” những di sản văn chương của dân tộc, trong đó có di sản lý luận, phê bình văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975, để làm phong phú và giàu có cho nền văn học nước nhà, trong đó có bộ phận lý luận, phê bình văn học ở thời kỳ hội nhập và phát triển của xu hướng toàn cầu hóa.

 

 

 

Chú thích:
1 Phan Cự Đệ (Chủ biên, 2000), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB. Giáo dục, tr. 753.
2 Trần Đình Sử (16/4/2005): “Lý luận văn học Mác-xít trong bối cảnh toàn cầu hóa tri thức”, Văn nghệ, số 16, tr. 3.
3 Lý Hoàng Phong (1962): “Có chăng một sự kỳ lạ trong văn nghệ mới”, Văn nghệ, số 12, tr. 13.
4 Nguyên Sa (1967), Một bông hồng cho văn nghệ, NXB. Trình Bày, tr. 93-94.
5, 7, 9 Võ Phiến (1987), Hai mươi năm văn học miền Nam (1954-1975), NXB. Văn nghệ, tr. 17, 193, 240.
6 Lữ Phương (1967), Mấy vấn đề văn nghệ, NXB. Trình Bày, tr. 99.
8 Nguyễn Trọng Văn (1968): “Những người con hoang của Nguyễn Văn Trung”, Bách Khoa, số 264, tr. 51.
10 Tam Ích (1967), Ý Văn 1, NXB. Lá Bối, tr. 29.
11 Nguyễn Khoa Điềm (2006): “Phát biểu kết luận hội nghị lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật toàn quốc”, Tạp chí Nhà văn, số 4, tr. 62.
12 Lộc Phương Thuỷ (2005): “Tác động của lý luận văn học nước ngoài đối với lý luận văn học Việt Nam”, Nghiên cứu Văn học, số 1, tr. 17.
13 Trích Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị, khoá X, NXB. Chính trị quốc gia, 2008, tr. 23.

Bình luận

    Chưa có bình luận