VĂN HỌC VIỆT NAM NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI TỪ GÓC NHÌN ĐỘI NGŨ SÁNG TÁC

Bài viết nhìn lại tiến trình phát triển văn học Việt Nam hiện đại qua các thế hệ sáng tác từ sau 1945, nhấn mạnh vai trò chủ lực của lực lượng viết trẻ trong từng giai đoạn lịch sử. Từ đó, tác giả khẳng định: để bước vào một cuộc cách tân mang tầm vóc thế kỷ XXI, văn học cần được trao gửi cho thế hệ mới – những người vừa tiếp cận sâu sắc thời đại vừa mang bản lĩnh cá nhân gắn bó với cộng đồng dân tộc.

   Nếu khoảng cách là một thập niên hoặc một giáp (12 năm) làm nên một thế hệ viết thì theo cách tính của tôi, văn học Việt Nam sau 1945 cho đến nay đã chứng kiến sự xuất hiện và tiếp nối của hơn 5 thế hệ viết. Đó là các thế hệ: tiền chiến, chống Pháp, chống Mĩ, gắn với Đổi mới, rồi chuyển qua hội nhập với mốc lớn là năm 1995 hoặc năm 2000.

   Dưới đây là ba nhận xét sơ bộ:

   Thứ nhất, kể từ sau năm 1930 (năm chính thức mở đầu thời hiện đại của lịch sử văn chương Việt Nam), lực lượng trẻ (lứa tuổi từ ngoài 20 đến trên dưới 30) đóng vai trò chủ lực làm nên gương mặt chung của đời sống văn học qua từng thập niên. Hiện tượng đó gần như là một quy luật.

   Giai đoạn 1930-1945 gồm hầu hết các tên tuổi tiêu biểu của ba dòng văn học lớn: hiện thực, lãng mạn và cách mạng, kết thúc bằng bốn tác giả cùng sinh năm 1920 là Tố Hữu, Tô Hoài, Chế Lan Viên, Nguyễn Xuân Sanh. Những tập thơ làm nên vinh quang bậc nhất của các tác giả như Thơ thơ của Xuân Diệu, Lửa thiêng của Huy Cận, Nước giếng thơi của Nguyễn Bính, Điêu tàn của Chế Lan Viên, Từ ấy của Tố Hữu… đều được tác giả thực hiện ở tuổi 20. Cũng ở tuổi 20, Nguyên Hồng cho in tiểu thuyết Bỉ vỏ. Ở tuổi 25, Vũ Trọng Phụng cho ra mắt cùng lúc những tiểu thuyết tràn ngập sự đời và có giá trị để đời như Giông tố Số đỏ. Còn tuổi trên dưới 30 của Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao là tuổi làm nên những tên sách sáng danh văn học hiện đại: Vang bóng một thời, Vũ Như Tô, Chí Phèo, Sống mòn. Ấy là nói văn học trong xã hội bán phong kiến - thuộc địa trước 1945.

   Văn học sau 1945, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, xuất hiện từ trước sau thập niên 1950, cùng với Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài thuộc thế hệ tiền chiến là các tác giả: Trần Đăng, Quang Dũng, Hoàng Cầm, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, Chính Hữu, Trần Dần, Hồ Phương, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc...

   Văn học chống Mĩ, với thế hệ xuất hiện từ sau 1960 ở tuổi ngoài 20 và trên dưới 30 như: Đỗ Chu, Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân, Hữu Thỉnh, Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Phan Thị Thanh Nhàn, Vũ Quần Phương, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo… Những tên tuổi ấy đã góp phần tạo nên những tác phẩm xuất sắc nhất trong và sau hai cuộc kháng chiến. Ấy là nói văn học trong chiến tranh – một giai đoạn kéo dài hơn 30 năm hoặc đúng ra là gần 40 năm, bởi ngoài chống Pháp và chống Mĩ còn là chiến tranh ở hai đầu biên giới cũng khốc liệt và đầy hi sinh, diễn ra suốt từ 1979 đến hết thập niên 1980. Do tình thế lịch sử – cuộc chiến giữa hai phe, khiến cho cả một thời gian dài ta không (hoặc không được phép) nói đến.

   Từ một lược kể như trên để nói đến một cuộc đồng hành rất ngoạn mục gồm hơn ba thế hệ viết: thế hệ tiền chiến, thế hệ chống Pháp và thế hệ chống Mĩ, gối sang thời Đổi mới – một cuộc đồng hành đã để lại cho văn học hiện đại từ sau 1945 đến nửa đầu thập niên 1990 những câu thơ, những áng văn hay nhất về lòng yêu nước và yêu dân, về chủ nghĩa anh hùng và sự hài hòa gắn kết giữa cái chung và cái riêng của con người và Tổ quốc Việt Nam trước những chuyển động dữ dội và thử thách khốc liệt nhất của lịch sử. Một cuộc đồng hành có điểm tựa vững chắc nhất từ trong lịch sử – “Đội ngũ ta dài suốt bốn nghìn năm”, và từ đời sống:

   “Lớp cha trước, lớp con sau

   Đã thành đồng chí chung câu quân hành”.

   Thứ hai, văn học thời Đổi mới, sau một đội ngũ đóng vai trò chuyển tiếp nhạy cảm, dũng cảm và kịp thời, với những đóng góp đã được khẳng định của các tác giả như: Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc, Nguyễn Trọng Oánh, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Quang Thân, Chu Lai, Thái Bá Lợi, Nguyễn Trọng Tạo, Lê Minh Khuê, Nguyễn Trí Huân, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Dạ Ngân… đã được tiếp nối bởi thế hệ mới, chủ yếu sinh từ thập niên 1960. Thuộc thế hệ 6X, đây là lực lượng đông đảo nhất, theo tôi, hiện vẫn còn đang đóng vai trò quan trọng của đời sống văn học hôm nay. Họ dồi dào năng lượng, có năng lực viết về mọi đề tài, đặc biệt có điều kiện để gắn bó mật thiết với sự sống hội nhập ngày nay (từ 1995), rồi toàn cầu hóa và cách mạng 4.0 (sau 2000) cùng gối vào nhau, gắn kết với nhau, mà những người như tôi – thế hệ cuối 3X – dẫu có gắng gỏi đến mấy cũng chỉ có thể là người đồng hành, ngắm nhìn và suy tư trong tư thế không thể hoặc khó được xem là người đại diện hoặc trong cuộc!

   Thế kỷ XX là thế kỷ diễn ra nhiều chấn động, chuyển động dữ dội, qua các mốc lịch sử: 1930 và 1945, 1945 và 1975, 1986 và 1990, 1995 và 2000. Có nghĩa là càng về sau càng ngắn, càng gấp gáp. Chưa bao giờ trong lịch sử và lịch sử văn học dân tộc lại diễn ra nhiều sự kiện lớn, vừa dồn dập vừa gối vào nhau theo một gia tốc nhanh gấp như thế.

   Từ năm 2000 trở đi thì đó là một chuyển động gần như ngoài sức tưởng tượng và bao trùm tất cả, đưa dân tộc thoát ra khỏi mọi phong bế (của xã hội thuộc địa - phong kiến trước 1945, của chiến tranh 40 năm, của tình thế hai phe 40 năm) để chính thức bước vào tiến trình hội nhập với nhân loại trong bối cảnh toàn cầu hóa, kỷ nguyên thông tin cùng cách mạng 4.0 và trí tuệ nhân tạo (AI). Tình thế mới này của lịch sử càng đòi hỏi văn học phải chuyển đổi bằng sức vóc của các thế hệ trẻ. Chỉ lớp người ấy mới có được những tiềm năng mới, những dũng cảm mới, những trực giác mới để bám sát và theo kịp thời cuộc, đưa dân tộc vào cuộc hành trình lớn với nhân loại.

   Thứ ba, một đặc điểm khá nổi trội ở đội ngũ nhà văn, trong suốt một thời dài, từ sau 1945 cho đến cuối thập niên 1990, đó là sự đồng hành của nhiều thế hệ, từ 3X đến 7X. Không kể Tô Hoài, mất ở tuổi 95 và chỉ ngừng viết từ 2014, thì đó là thế hệ 3X, gồm: Hồ Phương, Xuân Khánh, Ma Văn Kháng, Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Khắc Phê…; thế hệ 4X tiếp nối với những gương mặt như: Đỗ Chu, Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Vương Trọng, Thái Bá Lợi, Tô Nhuận Vỹ, Chu Lai, Nguyễn Trí Huân, Trần Nhuận Minh, Lê Minh Khuê, Dương Hướng, Trung Trung Đỉnh, Nguyễn Văn Thọ… Từ thế hệ 5X trở đi, đội ngũ viết vẫn giữ vai trò là đội quân chủ lực, với những tên tuổi như: Khuất Quang Thụy, Đỗ Phấn, Bảo Ninh, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Quang Thiều, Trần Đăng Khoa…, rồi đến Hồ Anh Thái, Thùy Dương, Tạ Duy Anh, Y Ban, Thu Huệ, Nguyễn Bình Phương, Phan Thị Vàng Anh… Và thế hệ 7X như: Nguyễn Ngọc Thuần, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy, Phong Điệp, Bích Lan, Nguyễn Đình Tú, Nguyễn Xuân Thủy, Phan Thúy Hà… Sự đông đảo và kết nối, ít có khoảng trống hoặc đứt quãng giữa các thế hệ, đó là điều mừng nhưng cũng phải xác định thế hệ nào là chủ công trong quan hệ với thực tại - tức là cuộc sống đương đại, mà việc xác định đội ngũ này lại rất cần trở lại nội dung tôi đã nêu trên. Có nghĩa là phải tập trung mối quan tâm cho các thế hệ từ sau 8X trở đi, nếu nhìn vào các mùa màng như đã diễn ra trong thế kỷ XX. Nếu chọn Vi Thùy Linh (sinh năm 1980) làm mốc thì đội ngũ này rất đông đảo, có tuổi nghề đã trên dưới 30 năm và không ít tên tuổi đã khẳng định được vị trí.

   Lực lượng trẻ, ở tuổi từ 20 đến trên dưới 30, dẫu thực tiễn thời cuộc có muốn hoặc không muốn thì tự họ vẫn đủ sức cáng đáng sứ mệnh nghề nghiệp, như kinh nghiệm lịch sử đã cho thấy và như tâm thức dân gian đã tổng kết: “Tre già măng mọc”; “Trẻ cậy cha, già cậy con”; “Con hơn cha là nhà có phúc”. Nếu vẫn cần có một (hoặc nhiều) hội nghề nghiệp, có chức năng như Hội Nhà văn, trong tương lai thì hội cần đầu tư nhiều công sức cho họ, trên tất cả các phương diện của bản lĩnh và bản sắc cá nhân. Bản lĩnh – đó là lý tưởng sống và hoài bão nghề nghiệp tạo nên sức mạnh tổng hợp cho cả một thế hệ. Còn bản sắc – đó là cái riêng của từng người. Cả hai cần bổ sung cho nhau chứ không bài trừ nhau. Cần tạo mọi điều kiện cho các thế hệ trẻ đi tìm và khẳng định cho được cái riêng và cái khác (bởi văn học cần sự đa dạng và tôn trọng cả tính sáng tạo); nhưng đó là cái riêng không quay lưng hoặc xa lạ với cái chung; là cái khác nhưng không biệt lập hoặc đối trọng với cái giống, tức cái chung, cái cộng đồng – nó là khát vọng chung của nhân dân, của dân tộc. Còn nhân dân là ai, dân tộc là ai thì tôi tin câu trả lời của bất cứ người viết chân chính, đích thực sẽ không khác nhau là mấy!

   Cũng như bất cứ lĩnh vực nào khác của đời sống tinh thần, nói sự phát triển của văn học là nói đến một quá trình với sự tiếp tục của nhiều thế hệ. Thời nào trong lịch sử cũng thế. Nhưng có điều cần lưu ý, thế kỷ XX khác với bất cứ thế kỷ nào trước đó, là một thế kỷ đặc biệt với những biến động mang tính nhảy vọt. Nếu ở đầu thế kỷ là cuộc chuyển giao từ mô hình trung đại sang mô hình hiện đại, trong bước ngoặt từ xã hội phong kiến sang xã hội thuộc địa, thì giữa thế kỷ là một cuộc cách mạng và gần 40 năm chiến tranh nhằm giành trọn vẹn độc lập, tự do cho dân tộc. Cuối thế kỷ, khát vọng đổi mới đã đưa đất nước vào một cuộc hội nhập lớn với nhân loại. Trước những biến động lớn như thế, văn học không thể đáp ứng bằng một sự phát triển tiệm tiến, bình thường mà phải bằng những nỗ lực lớn mang tính chuyển đổi cách mạng. Để có đủ tiềm lực và hành trang cho một chuyển đổi mang tính cách mạng như thế, văn học cũng như bất cứ lĩnh vực nào khác, kể cả kinh tế, chính trị, cần đến những lực lượng trẻ, mà “trẻ” ở đây là nói đến thế hệ trên dưới tuổi 30, thậm chí là 20. Đó là tuổi 20, 30 của Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Bích Khê, Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Bính, Huy Cận, Chế Lan Viên, Tố Hữu, Tô Hoài, Anh Thơ, Tế Hanh... – những người làm nên bước nhảy vọt của văn học giai đoạn 1930-1945. Đó cũng là tuổi 20 của Phạm Tiến Duật, Đỗ Chu, Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Lưu Quang Vũ...; của Triệu Bôn, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Vương Anh, Y Phương, Ý Nhi, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ...; của Nguyễn Khoa Điềm, Lê Anh Xuân, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Duy...; của Nguyễn Đức Mậu, Vương Trọng, Anh Ngọc, Thanh Tùng, Thi Hoàng, Trần Nhuận Minh... những người tạo nên thành tựu văn học thời kỳ 1960-1975. Chuyển sang thời Đổi mới, một thế hệ trẻ như thế chưa thể xuất hiện ngay mà phải được chuẩn bị, trong sự tiếp nối của hơn một thế hệ chuyển tiếp, kể từ Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Lê Lựu...; qua Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Mạnh Tuấn, Nhật Tuấn, Chu Lai, Lê Minh Khuê, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Trí Huân, Khuất Quang Thụy, Nguyễn Bảo, Trung Trung Đỉnh, Nguyễn Trọng Tạo, Dạ Ngân, Bảo Ninh... Rồi Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Quang Thiều, Trần Đăng Khoa, Inrasara, Dương Thuấn, Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương, Thùy Dương, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh... Một thế hệ 7X và 8X liệu có thể làm nên hoặc làm chủ gương mặt văn học sau 1995, rồi sau 2000, đó là điều chưa dễ xác định, dù trong số họ đã xuất hiện nhiều gương mặt gây ấn tượng: Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Ngọc Thuần, Đỗ Thị Bích Thuý, Phan Triều Hải, Phan Hồn Nhiên, Phan Việt, Nguyễn Đình Tú, Văn Cầm Hải, Vũ Đình Giang, Nguyễn Xuân Thủy, Nguyễn Thế Hoàng Linh, Lưu Sơn Minh, Phan Huyền Thư, Vi Thuỳ Linh, Nguyễn Trương Quý, Meggie Phạm... Thế nhưng, nhìn trên tổng thể thì dường như sự tiếp tục này, trong tư thế một đội ngũ, là chưa thật rõ lắm. Họ có thể rất đông đúc và gây nhiều ồn ào, có thể xuất hiện hằng ngày trên báo, đài trong chủ ý tuyên truyền, quảng bá của hệ thống thông tin đại chúng; có thể gợi lạ hoặc gây “sốc” cho người đọc để làm cồn lên dòng chảy đã có; nhưng để làm nên một dòng chảy mới như các thời kỳ trước thì chưa hẳn đã có. Theo tôi, đó là điều làm cho gương mặt văn học từ Đổi mới sang hội nhập, trong nửa sau của nó, kể từ mở đầu thế kỷ XXI đến nay, với độ dài chẵn 25 năm còn chưa gây được một ấn tượng mạnh mẽ, vượt trội và thật là ngoạn mục, trong so sánh với các mùa gặt lớn của lịch sử và trong tương quan với thời cuộc.

   Từ tình hình trên, tôi nghĩ đến một thế hệ viết mới là đại diện đích thực cho văn học tương lai – vừa là sản phẩm vừa là chủ thể của chính hoàn cảnh hôm nay, một thế hệ mới trong tư cách một đội ngũ vừa làm chủ được các phương tiện thông tin vừa tiếp cận và tiếp nhận được tinh thần và dấu ấn thời đại. Một thế hệ không chỉ ở lứa tuổi 7X và 8X đang là chủ lực hôm nay mà phải là 9X, thậm chí nửa sau 9X. Chỉ riêng lớp nửa sau 8X và nửa đầu 9X, nếu theo dõi thị trường sách thì đó là cả một biển sách, mà sức tôi không thể nào bám xuể, dẫu biết chắc trong đó có rất nhiều cái hay, cái mới, cái lạ.

   Chính một thế hệ như thế, với bản lĩnh cá nhân và sức mạnh của đội ngũ, mới có thể đưa đời sống văn học vào một bước ngoặt mang tính cách mạng như đã từng diễn ra vào nửa đầu thế kỷ XX; và đang tiếp tục được đón đợi, với quy mô và tầm vóc lớn hơn trong nửa đầu thế kỷ XXI. Với họ, mọi đường biên hoặc đường viền của văn học dường như đang được nới rộng ra và được đẩy xa hơn về phía trước, khiến cho viễn cảnh của nó bỗng trở nên mơ hồ, khó hình dung, nhưng do thế mà càng hấp dẫn.

 *
*   *

   Trở về với thời điểm hôm nay, khi mà trách nhiệm lịch sử đang được chuyển sang thế hệ 8X và 9X – một thế hệ mà phần lớn chưa mang trong mình tấm thẻ hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Họ lớn lên trong bối cảnh mà chiến tranh, chủ nghĩa xã hội và cả thời hậu chiến chỉ còn là một hồi quang qua ký ức của người thân và sách vở. Nói cách khác, họ được hưởng một bầu khí quyển khác để có thể tuyệt đối yên tâm trong cốt cách của mình, trong mục tiêu đi tìm cái riêng, cái cá nhân, cái khác biệt. Họ không còn bị ràng buộc bởi cái “ta” hoặc cái “chúng ta” như bao thế hệ cha ông suốt hàng chục năm, do áp lực của các loại cộng đồng lớn nhỏ khiến cho cái tôi riêng không chỉ là nhỏ bé mà còn trở nên cô đơn, lạc loài… Bây giờ thì bất cứ ai cũng đều có quyền thỏa sức đi tìm cái riêng, cái khác, cái để được là mình. Vấn đề là cái riêng ấy có va chạm, xung khắc hoặc đối nghịch gì với cộng đồng, những cộng đồng khó tránh như Tổ quốc, như Nhân dân, mà những người mang danh hoặc nhân danh là nhà văn, vẫn cần và càng cần sự gắn bó.

   Tổng thể văn đàn thế kỷ XX – gồm cả trước và sau mốc 1975 cho đến nay – là sự tiếp nối và đồng hành của dăm bảy thế hệ viết: kể từ “bút lông” sang “bút sắt” (hoặc “bút bi”); bây giờ là thời kỳ thống trị tuyệt đối của bàn phím. Trong một thế giới đang được kết nối, với vai trò con người cá nhân nổi lên bên cạnh vai trò của các quốc gia, các cộng đồng dân cư, mỗi cá nhân có thể vươn ra toàn cầu theo cách riêng của mình để sáng tạo, thông qua hàng loạt phương tiện mới của “thế giới phẳng” như công cụ tìm kiếm, phần mềm xử lý công việc, khả năng tải lên mạng, từ điển Wikipedia. Với những khả năng như thế cho bất cứ ai làm chủ được phương tiện thông tin thì mọi yêu cầu gọi bằng “cởi trói” cho tự do sáng tạo, cho khát vọng của cá nhân sẽ trở thành câu chuyện thừa. Trong một thế giới như thế, văn học cũng như mọi lĩnh vực hoạt động tinh thần khác cũng phải biến đổi; và sứ mệnh đó đang được giao cho một thế hệ mới, thế hệ tuổi từ 20 đến trên dưới 30 như trên đã nói, được xem là thế hệ @ trên khắp các lĩnh vực khoa học và nghệ thuật. Là người chứng kiến và có tham gia ít nhiều vào hành trình văn học của thế kỷ XX đã qua, tôi rất khao khát được thấy sự xuất hiện của họ trong tư cách một đội ngũ vừa tinh anh vừa hùng hậu, rất khác nhau trong phong cách mà vẫn không nhòa mờ một khát vọng chung của nhân dân, của dân tộc; và một gương mặt chung in đậm tinh thần và dấu ấn thời đại.

Bình luận

    Chưa có bình luận