Hò khoan Lệ Thủy là một loại hình văn hóa truyền thống của người dân ở các làng ven sông, ven biển tại vùng đất Quảng Bình. Trong đó, âm nhạc đóng một vai trò vô cùng quan trọng, thường được thể hiện đậm nét nhất trong các bài hát về cuộc sống, lao động sản xuất, tình yêu, gia đình…
Trên dải đất hình chữ S thân thương này, Quảng Bình là miền đất gánh trọn hai đầu đất nước. Nằm ở phía Nam Quảng Bình, ôm trọn dòng Kiến Giang, trìu mến với những tinh hoa của ruộng đồng, làng quê Lệ Thủy là vùng đất có lịch sử hình thành lâu đời, nuôi dưỡng bao tâm hồn, với những con người đi vào lịch sử của dân tộc, chứa đựng nhiều giá trị văn hóa tinh thần độc đáo, trong đó có hò khoan Lệ Thủy. Huyện Lệ Thủy - đoạn thắt hẹp nhất, với bề ngang chỉ vào khoảng 40km, đồng thời cũng là huyện có diện tích nhỏ nhất trên cả nước. Từ phía Bắc tiếp giáp với huyện Quảng Ninh đến phía Nam tiếp giáp các huyện Bến Hải, Quảng Trị.
Cũng như các thể loại văn nghệ dân gian khác, hò khoan được sinh ra từ đời sống của người dân lao động. Chính môi trường này đã giúp con người ta tạo ra những làn điệu phản ánh mọi mặt trong đời sống của người Lệ Thủy từ lâu đời. Là một loại hình nghệ thuật dân gian, hò khoan góp phần làm đẹp thêm cho đời sống lao động sản xuất, cổ vũ, động viên tinh thần cho nhau cùng vượt qua những khó khăn để quên đi bao vất vả, mệt nhọc. Cuộc sống ấy được thấm đẫm vào mỗi con người và được thể hiện ra trong các làn điệu hò. Hệ thống hò khoan Lệ Thủy bao gồm có 9 mái (làn điệu) chính. Mái là cách gọi mang tính dân gian của người Lệ Thủy, mà miền Bắc hay gọi là làn điệu, bao gồm: hò lĩa trâu, hò mái ruỗi, hò mái nện, hò mái chè, hò mái xắp, hò mái ba, hò mái dài, hò khơi, hò nậu xăm.
Mỗi mái có cấu trúc, tiết tấu, giai điệu, ca từ âm nhạc riêng, cách ngắt câu, lớp xố khác nhau. Những tiết tấu và quy ước diễn xướng đó có căn nguyên từ trong nhịp điệu, tiết tấu của lao động. Lúc dồn dập, khi khoan thai, lúc nhẹ nhàng, khi nặng nhọc. Nhiều khi những tiết tấu đó nhằm huy động, tập trung sức lực của đám đông để thực hiện một công việc gì đó mà ở mỗi người đơn lẻ không thể làm được, như khi đẩy thuyền qua chỗ cạn, khi chống chèo ghe lớn qua chỗ nước xiết, gió ngược, khi nện đất cất nhà...
9 mái này được chia làm 3 vùng đặc trưng về địa lý:
- Vùng trên: hò lĩa trâu (có sự vang vọng của núi rừng).
- Vùng giữa: hò mái ruỗi, hò mái nện, hò mái chè, hò mái xắp, hò mái ba, hò mái dài (6 mái này thuộc vùng đồng bằng, chiêm trũng, trồng lúa, trồng hoa màu nên có sự sinh động, linh hoạt, đa dạng và phong phú).
- Vùng ngoài biển: hò khơi, hò nậu xăm (có sự dẻo dai, rộn ràng, kiên trì, vững vàng, phấn chấn). Các mái trong hò khoan Lệ Thủy được sử dụng như sau:
- Hò lĩa trâu (lĩa gỗ) dùng con trâu để kéo gỗ của thợ sơn tràng, thuộc vùng đồi, vùng rừng núi. Hoạt động lâm nghiệp, trồng rừng.
- Hò mái ruỗi thường dùng để hò một người với tốp hò xố, thuộc nhóm những mái hò sông nước, đầm phá, chậm rãi, khoan thai. Thường ca ngợi công ơn cha mẹ, thầy cô đã nuôi dưỡng, dạy dỗ con cái khôn lớn, trưởng thành. Người ta thưởng thức mái ruỗi với giai điệu trầm bổng, nhẹ nhàng, uyển chuyển và ý tứ sâu xa của lời hò. Lời hò không bị khuôn phép trong phạm vi của lục bát hoặc song thất lục bát mà có thể dài hay ngắn tùy ý, vô cùng…
- Hò mái nện thường được dùng trong lao động sản xuất, đám ma, cất nhà, khi cày ruộng, khi đưa linh… Bởi vậy giai điệu hò thường có tiết tấu chậm rãi, thong thả. Mái nện có sự biến tấu trong diễn xướng, lời hò thể song thất lục bát, chia làm hai câu không đều với hai lần xố.
- Hò mái chè được hò đối đáp đôi nam nữ, tâm tình, ý tứ. Thường là thể thơ lục bát. Cách hò mái chè đơn giản và ít khi phải thêm từ đệm lót. Tiết tấu của mái chè đều đặn, thong thả. Thường thì mái chè được sử dụng khi làm những công việc nhẹ nhàng, không gian lao động nhỏ hẹp. Người hò có thể vừa làm việc vừa hò mà không ảnh hưởng gì đến công việc. Vì vậy, hò mái chè thường được diễn xướng khi đập đất trồng hoa màu trên đồng, nện nền nhà, nện sân…
- Hò mái xắp là làn điệu thông dụng, phổ biến nhất cho tất cả các hoạt động, lĩnh vực ở trong lao động sản xuất, đám cưới, đám ma hay dùng đối đáp trong khi làm ruộng, khi giã gạo, hò trên sông, ở các lễ hội… nhất là các buổi gặp mặt đông người, là điệu hò dễ nhớ, dễ hò và dễ đối đáp nhất.
- Mái ba cũng là một làn điệu gắn với sông nước, là mái hò tiêu biểu về tính linh hoạt trong ứng tác. Cách bố cục, phân câu, ngắt nhịp rõ ràng. Hò mái ba chủ yếu là thể lục bát hoặc biến thể của lục bát. Lời hò, tình ý thắm thiết rõ ràng. Mặt khác, mái ba cũng thường được vận dụng trong hò đối đáp, giao duyên trong những cuộc gặp gỡ đông người nên có những giai điệu gần với hò mái xắp, vui tươi, rộn ràng.
- Mái dài cũng là làn điệu sông nước nhưng ít khi dùng vì khó hát, thường là độc diễn, không gian diễn xướng trên sông nước, thường tự sự một mình nói về tình yêu đôi lứa, về những tình cảm đơn phương hay trong tình cảm vợ chồng có những vấn đề mà họ không biết nói cùng ai, họ dùng mái này để ngân nga cùng mây trời, sông nước cho vơi bớt nỗi niềm trong lòng… nên điệu hò thường chậm rãi, buồn và da diết.
- Hò khơi và hò nậu xăm là những làn điệu gắn với hoạt động đánh bắt xa bờ của cư dân miền biển, mang âm hưởng rộn ràng, phấn chấn, thể hiện sự dẻo dai, kiên trì nhưng vững chãi.
Trong hò khoan Lệ Thủy, âm nhạc được coi là trái tim, là linh hồn của buổi biểu diễn, âm nhạc không chỉ đơn thuần là những bài hát và giai điệu, mà còn giúp người dân nơi đây có thể học hỏi về lịch sử, văn hóa và tâm linh của đất nước mình. Các bài hát thường được lựa chọn cẩn thận để phù hợp với từng dịp lễ, thể hiện tâm tư, tình cảm và tâm trạng của người dân trong các sự kiện quan trọng đó. Âm nhạc còn được sử dụng để kết nối cộng đồng, tạo ra sự đoàn kết và tình cảm giữa các thành viên. Ngoài ra, âm nhạc trong hò khoan Lệ Thủy với một vai trò vô cùng quan trọng trong việc gìn giữ và phát triển văn hóa dân gian. Một số bài hát truyền thống và nhạc cụ đặc trưng của hò khoan Lệ Thủy được truyền từ đời này sang đời khác, giúp bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của địa phương, đưa hò khoan ngày càng trở nên phong phú và đa dạng hơn.
- Giai điệu âm nhạc trong hò khoan Lệ Thủy: Quảng Bình với tính chất địa lý vô cùng khắc nghiệt, phải gánh chịu nhiều thiên tai, mưa bão, lũ lụt triền miên... Cuộc sống đầy gian truân, khúc khuỷu với nhiều mất mát về con người cũng như kinh tế, nhà cửa, mùa màng nên đã tạo ra nét đặc trưng cho người dân nơi đây tính can trường, dũng cảm, quen dần với việc chịu nhiều đắng cay, gian khổ, cam chịu, chấp nhận và khắc phục mọi khó khăn với ý chí kiên cường. Chính vì tính chất địa lý, thiên nhiên và con người như vậy nên giai điệu âm nhạc của hò khoan không mấy bình lặng, đi liền bậc mà sẽ phải nhảy quãng xa và thường mang nét đặc trưng văn hóa vùng miền, với những gì diễn ra trong đời sống hàng ngày của người dân lao động như làm ruộng, làm nương, đầm đất, cất nhà, ma chay, cưới hỏi… Tính chất âm nhạc của hò khoan cũng có nhiều sự gập ghềnh, khắc khoải, khi lên khi xuống, khi xa khi gần, khi ngóng khi mong, khi chờ khi đợi. Giai điệu có khi thì buồn bã, tâm trạng, chất chứa trong lòng nhiều tự sự, cô đơn, buồn chán không biết tỏ cùng ai nhưng cũng có khi lại vui tươi, lôi cuốn, sôi động, rộn ràng, phấn chấn nhằm khích lệ, an ủi, động viên tinh thần anh chị em cùng tích cực, lạc quan, yêu đời để vượt qua mọi khó khăn. Âm nhạc của hò khoan thường thể hiện sự đoàn kết, sự kính trọng và tình cảm yêu thương giữa con người với con người, con người với thiên nhiên. Những giai điệu này được truyền lại qua nhiều thế hệ, từ đời này qua đời khác, giúp duy trì và phát triển văn hóa dân tộc cùng với sự đoàn kết và tình yêu quê hương, đất nước, con người.
- Tiết tấu và nhịp điệu âm nhạc trong hò khoan khá đặc trưng và mang tính chất, âm hưởng riêng biệt của dân ca miền Trung. Thường thì tiết tấu sử dụng phần nhiều là nốt đơn, nốt đen, nốt trắng, nốt chấm dôi, có cả nốt móc giật, nốt kép và nốt móc kép… nhưng không quá khó, mà rất đơn giản và dễ nhớ. Nhịp điệu được chơi có thể nhanh hoặc có thể chậm tùy vào từng bài hát.
- Nhạc cụ sử dụng trong hò khoan Lệ Thuỷ: Trước kia khi cuộc sống lao động còn khó khăn, điều kiện kinh tế chưa cho phép để đầu tư những nhạc cụ dân tộc truyền thống Việt Nam một cách chuyên nghiệp và bài bản, mà nét đặc trưng văn hóa của nhạc cụ đệm cho hò khoan lúc bấy giờ chính là có gì dùng nấy, chủ yếu là những công cụ đơn giản, gắn với lao động như mõ tre, sanh, gậy, mâm đồng, không có gì thì vỗ tay bắt nhịp. Có một số vật dụng được người hò dùng đến một cách ngẫu hứng như cặp chén uống trà, với âm thanh gần gũi nhưng mang lại hiệu ứng rất riêng biệt, lanh canh, lách cách thật độc đáo và vui tai. Nhiều trường hợp còn sử dụng một số công cụ trong lao động như mặt cối, cái chày giã gạo, mỗi khi nhấc chày lên thì gõ nhẹ xuống mặt cối, lại tạo ra âm thanh nhịp nhàng, khoan thai, hành động tưởng như khô khan mà lại cho hiệu quả và sự hấp dẫn mạnh mẽ. Việc sử dụng chày giã gạo này thường là sự kết hợp của hai người hoặc bốn người. Trong hoạt động chài lưới, người chèo thuyền lấy bàn chân dẫm mạnh xuống thuyền tạo ra thứ âm thanh như tiếng trống đùng đục, dùng mái chèo vỗ xuống nước làm nhịp đệm. Đến cả khi chôn cất người đã khuất, đám âm công tay cầm dùi đầm đất, cất bước đi vòng quanh mộ, nhấc lên, nện xuống cũng tạo ra nhịp điệu, tiết tấu. Tất cả những công cụ lao động thường ngày nói trên đều đã trở thành những “nhạc cụ” tạo cho hò khoan một nét độc đáo riêng biệt. Đây là hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần gắn với đời sống người lao động nên mọi trình diễn nghệ thuật thường có nội dung ca ngợi sức mạnh tinh thần đoàn kết giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên, với đời sống, gia đình và cộng đồng, cũng như những giá trị văn hóa truyền thống của địa phương.
Ngày nay, trong công cuộc xây dựng quê hương đất nước, cùng với sự phát triển của xã hội, môi trường diễn xướng của hò khoan Lệ Thủy được sân khấu hóa, phục vụ công tác tuyên truyền trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội. Một số sân khấu lớn, nhỏ đã bắt đầu có nhạc cụ dân tộc đệm cho hò khoan như: đàn bầu, đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn nguyệt, đàn nhị, đàn tam thập lục, sáo trúc, trống, gõ, song loan… Cùng với đó, âm nhạc luôn đồng hành và có sự đóng góp lớn đối với hò khoan Lệ Thủy, nó không chỉ đem lại sự giải trí, mà còn giúp thể hiện tinh thần, tâm trạng và nét đặc trưng của người dân Quảng Bình. Với những giai điệu đơn giản, lời thơ và ca từ mộc mạc, hò khoan giờ đây như được khoác lên mình tấm áo mới, những nhạc cụ này cùng nhau tạo ra một không gian âm nhạc độc đáo, thể hiện được rõ ràng hơn, sâu sắc hơn, tinh tế hơn những tình cảm, sự mặn mòi của con người ở vùng đất đầy nắng và gió nhưng giàu lòng hiếu khách, trìu mến thơ mộng này, góp phần tạo nên sức hấp dẫn và lôi cuốn đưa hò khoan đến gần hơn với người thưởng thức âm nhạc.
Do môi trường địa lý khác nhau, nên âm nhạc vùng miền ít nhiều cũng ảnh hưởng. Có thể so sánh một vài điểm giữa hò khoan Lệ Thủy với hò Huế cùng là hai thể loại âm nhạc truyền thống của miền Trung Việt Nam, tuy nhiên chúng cũng có những đặc điểm khác nhau về tính chất âm nhạc, biểu hiện ở một số nét đặc trưng sau:
- Giai điệu: hò khoan Lệ Thủy có giai điệu bắt nguồn từ trong lao động, ngẫu hứng lên là hát, không cần bất kỳ sân khấu nào, khi thì làm cái (lĩnh xướng), khi thì làm con (xố), sôi động, hào hùng, thể hiện sự nỗ lực và bản lĩnh của con người trong cuộc sống, càng đông người thì hát càng vui, càng rôm rả; trong khi hò Huế lại có giai điệu trầm ấm, uyển chuyển, nhẹ nhàng, thể hiện sự tinh tế và lãng mạn của người dân xứ Huế.
+ Nhịp điệu: hò khoan Lệ Thủy có nhịp điệu khi chậm, khi nhanh, nhưng phần nhiều là nhanh và mạnh mẽ, phù hợp với những hoạt động lao động ngoài trời, vui vẻ, sôi nổi, đoàn kết, trải nghiệm cuộc sống; trong khi hò Huế có nhịp điệu chậm, êm dịu, phù hợp với không khí thanh bình, yên tĩnh của miền đất cố đô.
+ Tiết tấu: hò khoan Lệ Thủy có tiết tấu đơn giản, dễ nhớ; trong khi hò Huế có tiết tấu phức tạp và đa dạng hơn, thể hiện sự khéo léo của người chơi.
+ Ca từ: những bài hát hò khoan Lệ Thủy thường có ca từ mộc mạc, giản dị, hài hước, vui nhộn, thể hiện sự hồn nhiên, lạc quan, thông minh của con người; trong khi những bài hát hò Huế thường có ca từ sâu sắc, lãng mạn, thể hiện tình cảm nhân văn, tình yêu đất nước và con người.
+ Nhạc cụ: hò khoan Lệ Thủy thường sử dụng các nhạc cụ đơn giản là một số vật dụng, công cụ trong đời sống lao động hàng ngày như chày giã gạo, mõ tre, mái chèo… không có gì thì vỗ tay bắt nhịp. Có thể nói, những gì có thể tạo ra âm thanh đều trở thành “nhạc cụ “ cho hò khoan. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển xã hội, môi trường diễn xướng đã bắt đầu có sử dụng một số nhạc cụ dân tộc đệm cho hò khoan. Trong khi hò Huế ít sử dụng các công cụ lao động làm nhạc cụ, mà chủ yếu là các nhạc cụ truyền thống như: đàn bầu, đàn tranh, đàn nhị, đàn nguyệt, trống, chiêng, phách, song loan…
Mặc dù hò khoan Lệ Thủy và hò Huế có những điểm khác nhau về tính chất âm nhạc, nhưng cũng có tương đồng nhất định: cả hai đều sử dụng nhạc cụ dân tộc truyền thống của Việt Nam, được truyền lại qua nhiều thế hệ; thể hiện sự tinh tế, sáng tạo và khéo léo của người chơi nhạc; mang ý nghĩa văn hóa sâu sắc, đóng góp vào việc giữ gìn và phát triển văn hóa dân tộc; đồng thời có sức hút đối với đông đảo người yêu nhạc, đặc biệt là những người yêu thích và muốn tìm hiểu về âm nhạc truyền thống.
Tóm lại, mặc dù có những sự khác biệt về tính chất âm nhạc, nhưng hò khoan Lệ Thủy và hò Huế đều có những đặc điểm giống nhau là cùng đóng góp quan trọng vào sự phát triển và giữ gìn văn hóa bản sắc dân tộc Việt Nam.
Âm nhạc trong hò khoan Lệ Thủy còn được kết hợp với các tiết mục múa biểu diễn, tạo nên một sự kết hợp hoàn hảo giữa âm nhạc và diễn xuất. Các bài múa thường được biểu diễn bởi những người trẻ, năng động, di chuyển linh hoạt và có kỹ năng biểu diễn tốt. Tất cả các tiết mục này đều được thiết kế để tạo ra một không gian văn hóa đặc trưng của người dân Quảng Bình, giúp du khách có được những trải nghiệm thú vị và đầy ý nghĩa về văn hóa dân gian của địa phương này.
Ngoài những nỗ lực trong việc giữ gìn, bảo tồn và phát triển âm nhạc truyền thống Việt Nam nói chung và âm nhạc trong hò khoan Lệ Thủy nói riêng còn có ý nghĩa văn hóa đặc biệt, đang được quan tâm chú trọng trong bối cảnh hiện nay. Nhiều hoạt động văn hóa, âm nhạc được tổ chức để giữ gìn và phát triển các giá trị truyền thống của dân tộc. Các chương trình biểu diễn âm nhạc truyền thống cũng được tổ chức thường xuyên hơn, để giới thiệu và quảng bá đến gần hơn với công chúng. Âm nhạc không chỉ để thể hiện tình cảm, tình yêu đất nước, sự đoàn kết và những giá trị tinh thần của người dân, góp phần tạo nên sự đặc sắc độc đáo của truyền thống văn hóa này, mà còn mang lại niềm vui và hào hứng cho người xem. Bởi vậy, âm nhạc là sự kết nối, là sự hòa quyện giữa đàn và hát, là tính đoàn kết cao, cái hay và cái lạ của âm nhạc trong hò khoan là ở chỗ đó, phải đoàn kết thì sự kết hợp mới hiệu quả, mới thăng hoa, càng hò càng say, càng hấp dẫn mà quên đi cả thời gian, quên hết mệt mỏi, khó khăn trong cuộc sống thường nhật để vươn lên, hướng tới những điều tốt đẹp hơn. Ngược lại, nếu không đoàn kết thì chất lượng âm nhạc sẽ trở nên rời rạc, chất lượng hò khoan sẽ kém sang, kém hiệu quả của việc cố kết cộng đồng, huy động sức mạnh tập thể. Vì thế âm nhạc và hò khoan thường phải gắn liền với nhau, cùng nhau tạo nên sức mạnh tập thể.
Hò khoan ngày xưa là một phần máu thịt của mỗi người dân, có mặt trong mọi hoạt động như gặt hái, cất nhà, ra khơi... và cả giao duyên. Có thể nói, hò khoan là món quà tinh thần mà cuộc sống ban tặng, như một sự bù đắp cho sự khắc nghiệt của vùng quê đầy gió và nắng. Nơi đây, mùa mưa thì nước lũ mênh mông, mùa nắng thì nóng như thiêu như đốt nhưng những làn điệu hò khoan đã tưới mát tâm hồn, xây đắp cho tài năng và ý chí, để làm nên những con người kiên cường, mạnh mẽ mà vẫn rất ấm áp, chan hòa, lãng mạn, nhân hậu, thủy chung.
Theo thời gian, cuộc sống hiện đại với sự xuất hiện của nhiều dòng nhạc mới mẻ, trẻ trung, hiện đại… chiếm ưu thế trên các phương tiện truyền thông và internet, những làn điệu hò khoan đã dần vắng bóng trong những sinh hoạt văn hóa, trong lời ca điệu hát của quê nhà. Những thế hệ nghệ nhân xưa dần mất đi, cùng với đó là nỗi băn khoăn, nỗi lo về việc hò khoan đang có nguy cơ dần bị mai một. Khi không gian văn hóa dần biến mất, môi trường diễn xướng không còn, thì hò khoan đã thực sự phải đối mặt với nhiều nguy cơ và thách thức lớn.
Trong hoàn cảnh đó, được sự quan tâm của Thường vụ huyện ủy, Ủy ban nhân dân, sự phối hợp của các ban ngành, đoàn thể, Phòng Giáo dục và Đào tạo Lệ Thủy đã chỉ đạo đưa hò khoan vào trường học, góp phần vào sự nghiệp văn hóa chung của huyện nhà nói riêng và toàn tỉnh nói chung.
Trước những giá trị đặc sắc của hò khoan Lệ Thủy, nhiều tổ chức, cá nhân đã và đang tiếp tục nghiên cứu, sưu tầm, học tập các bài bản để trình diễn, cố gắng giữ gìn, bảo tồn và phát huy loại hình trình diễn dân gian này. Viện Âm nhạc thuộc Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, Sở Văn hóa và Thể thao Quảng Bình đã thực hiện một số đề tài nghiên cứu, điều tra, sưu tầm hò khoan Lệ Thủy, trong chương trình Mục tiêu quốc gia về bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể.
Cùng với sự ra đời và phát triển của hò khoan Lệ Thủy, âm nhạc giờ đây đã là một phần không thể thiếu trong loại hình văn hóa dân gian này. Âm nhạc đã làm toát lên những tâm tư, tình cảm của đời sống người dân, tạo cho người nghe nhiều cung bậc cảm khác nhau, giúp bảo tồn và lan rộng ra với mọi miền đất nước. Những năm gần đây, âm nhạc đóng góp rất lớn đối với hò khoan Lệ Thủy, không chỉ giúp thể hiện tinh thần và tâm trạng của người dân mà còn giúp bảo tồn, khôi phục và phát triển mạnh mẽ hơn nhờ vào sự quan tâm và hỗ trợ của các cơ quan chức năng và các nhà nghiên cứu văn hóa. Điều này đã giúp cho âm nhạc dân tộc được lưu truyền và phát triển phong phú, đa dạng trong thời đại hiện nay. Đây là một trong những nét văn hóa đặc trưng, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, là một phần không thể thiếu của văn hóa dân gian miền Trung Việt Nam, mà âm nhạc trong hò khoan Lệ Thủy cũng là một phần trong các bản sắc văn hóa đó, góp phần giữ gìn và phát triển văn hóa dân tộc của địa phương. Từ đó giúp du khách trong nước và quốc tế hiểu rõ hơn về âm nhạc trong hò khoan Lệ Thủy cũng như văn hóa và đời sống của người dân Quảng Bình.