GIÁ TRỊ CỦA ĐỒ VẢI TRUYỀN THỐNG TRONG ĐỜI SỐNG NGƯỜI GIA-RAI Ở KON TUM HIỆN NAY

Bài viết giới thiệu khái quát về nghề dệt vải và đồ vải truyền thống của người Gia-rai, nêu bật những giá trị của đồ vải truyền thống. Từ đó, gợi ý một số giải pháp phát huy những giá trị này trong đời sống của người Gia-rai ở Kon Tum hiện nay.

   Người Gia-rai ở Kon Tum có truyền thống văn hóa cổ truyền khá riêng biệt. Sinh sống trên mảnh đất được thiên nhiên ưu đãi, đến nay, người Gia-rai vẫn sống phụ thuộc một phần vào tự nhiên, vẫn bám núi, bám rừng để sinh sống và duy trì những gì mà cha ông đã truyền lại từ đời này sang đời khác.

   Người Gia-rai có nhiều nhóm: Giơ-rai, Chơ-rai, Tơ-buăn, Hơ-bau, Hđrung, Chor...1 Ở Kon Tum chỉ có nhóm Gia-rai Aráp sinh sống, cư trú trên địa bàn tương đối rộng, chiếm phần lớn diện tích của huyện Sa Thầy ngày nay và một phần phía Tây Nam của thành phố Kon Tum. Họ sống xen kẽ với người Ba-na và nhóm Hà Lăng của dân tộc Xơ-đăng ở xã Rờ Kơi, huyện Sa Thầy.

   Trong những tháng nông nhàn, để phục vụ nhu cầu cuộc sống, phụ nữ Gia-rai còn làm một số nghề phụ. Một trong số đó là nghề dệt vải, sản phẩm làm ra không chỉ dùng cho bản thân và gia đình mà còn để trao đổi với bên ngoài. Theo dòng chảy của lịch sử, đồ vải và những giá trị của nó luôn có vai trò quan trọng trong đời sống của người Gia-rai, vừa gắn liền với cuộc sống thường nhật vừa mang đậm dấu ấn của nghệ thuật tạo hình. Bởi vậy, trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và toàn cầu hóa hiện nay, việc nhận diện những giá trị của đồ vải trong đời sống tộc người, từ đó gìn giữ và phát huy những giá trị đó là việc làm cần thiết đối với người Gia-rai ở Kon Tum nói riêng và với các dân tộc thiểu số ở Việt Nam nói chung.

   1. Vài nét về nghề dệt vải và đồ vải của người Gia-rai ở Kon Tum

   1.1. Nghề dệt vải của người Gia-rai ở Kon Tum

   Hiện nay, nghề dệt vải vẫn được bảo lưu ở nhiều thôn bản của người Gia-rai. Tại huyện Sa Thầy, có thể quan sát nghề dệt vải của người Gia-rai tại xã Mo Rai (các làng Rẽ, Tang, Xôp, Kđin, Grập, Kênh); xã Sa Sơn (làng Bar Gốc); xã Sa Nhơn (làng Nhơn Bình); xã Sa Bình (các làng Lung Leng, Kà Bầy, Bình Loong); xã Hơ Moong (làng K’bày); xã Ia Tăng (các làng Lút, Lốc, Trập); xã Ia Ly (các làng Tum, Chờ, Chứ); xã Ia Xier (các làng O, Lung, Rắc, Trang); thị trấn Sa Thầy (các làng Chốt, Kà Đừ, Kleng). Ở thành phố Kon Tum, người Gia-rai ở các xã Ia Chim (các làng Klâu Ngol Ngó, Plei Weh, Plei Sar, Klâu Klah, Bur, Druân, Klâu Ngol Lố, Lâm Tùng, Plei Lay); xã Hòa Bình (các làng Kép Ram, Plei Dơng, Plei Chor); xã Kroong (Plei Kroong Ktu) cũng duy trì thực hành làm ra đồ vải truyền thống cho tộc người mình.

   Không ai trong cộng đồng người Gia-rai hiện còn nhớ nghề dệt có từ bao giờ và ai là người đầu tiên biết dệt. Chỉ biết rằng, nghề dệt thủ công truyền thống đã có từ thời ông bà tổ tiên, được truyền lại từ đời này sang đời khác và duy trì cho đến ngày nay. Phụ nữ Gia-rai vẫn kể cho những cô con gái của mình nghe câu chuyện xa xưa vốn vẫn được tin là nguồn gốc nghề dệt của dân tộc mình: “Từ thuở xa xưa, vị thần của người Gia-rai là Yang trời (Yang Adai). Ngày ấy Yang Adai Kơ-dei đã chọn bà Tung thay mình cai quản mặt đất và thế giới của các hồn người chết. Trong nhà bà Tung có một khung dệt. Suốt ngày, bà ngồi luồn từng sợi chỉ để dệt một tấm vải dài. Tấm vải đó chính là cuộc đời của tất cả những con người trên mặt đất. Mỗi sợi chỉ là số phận của từng người. Cho nên các sợi chỉ cũng có những màu sắc khác nhau”.

   Trước đây, người Gia-rai dùng bông tạo ra sợi chỉ phục vụ việc dệt vải. Cây bông được người Gia-rai gọi là pả. Để có bông, người ta chọn hạt bông chắc, mẩy từ vụ trước để làm giống cho vụ sau. Hạt giống được phơi khô, cho vào dậu, cất ở nơi khô ráo, tránh ẩm mốc. Vào khoảng tháng 3 đến tháng 4 dương lịch, khi cơn mưa đầu mùa bắt đầu thấm đất, phụ nữ Gia-rai bắt đầu trồng jkhạt bông trên đất rẫy cũ (thường là rẫy vụ thứ hai) để cây bông sinh trưởng và phát triển tốt, bông nở đều và không bị sâu bệnh. Đến khoảng tháng 11, tháng 12 dương lịch, họ bắt đầu thu hoạch bông. Để đảm bảo chất lượng, bông thường thu hoạch vào những ngày thời tiết nắng ráo, khi quả bông đã đạt độ chín, nở ra để lộ phần bông màu trắng. Quả bông được thu hoạch thành nhiều đợt. Sau khi thu hoạch, quả bông được phơi khô sao cho bông nở đều, rồi được loại bỏ vỏ và các tạp chất bẩn dính trên bông. Để tách bông ra khỏi hạt, phụ nữ Gia-rai sử dụng dụng cụ tách hạt (tă). Bông sau khi tách khỏi hạt tiếp tục được phơi khô để giữ được màu trắng vốn có. Phụ nữ Gia-rai sử dụng dụng cụ bật bông (mỡnh) để làm cho bông tơi xốp, mịn màng hơn và thuận lợi khi se thành sợi. Dụng cụ xa kéo sợi (roi) được dùng để se bông thành sợi và cuộn vào thoi sợi. Người ta nối sợi từ các thoi sợi thành những cuộn sợi tròn như quả bóng, sau đó dùng dụng cụ dàn sợi (tơi vơi) để quấn các sợi chỉ thành các cuộn sợi dài, chuẩn bị cho quá trình nhuộm màu cho sợi. Sau khi nhuộm sợi thành các màu mong muốn, người ta giăng sợi trên khung giăng sợi (hơ năr) theo số lượng sợi nhất định tương đương với khổ vải. Công đoạn này hoàn tất là lúc họ chuyển thảm sợi vừa giăng vào khung dệt (khung) để dệt vải thổ cẩm.

   Dụng cụ liên quan đến việc dệt vải thường do đàn ông chế tác; người nào không làm được dụng cụ hoặc dụng cụ không đủ, họ thường mượn của hàng xóm. Một dụng cụ dệt của người Gia-rai thường gồm 15 đến 20 món như: thanh tách hạt, bật bông, xa kéo sợi, bộ khung cửi, thanh tạo hoa văn… Tất cả các dụng cụ đều được chế tác một cách thô sơ bằng dao, rựa với nguyên liệu chủ yếu là tre, nứa, lồ ô, gỗ, lông nhím, sáp ong... Đặc biệt, các bộ phận trong bộ dụng cụ dệt đều tách rời và chỉ khi dệt chúng mới được người dệt liên kết lại thành một khối. Nói cách khác, người dệt cũng là một bộ phận, một phần không thể thiếu của khung dệt. Già làng A Tin (80 tuổi) ở làng Lay (xã Ia Chim, thành phố Kon Tum) cho biết: “Giờ tôi vẫn làm được khung cửi. Suốt những năm tháng kháng chiến, người Gia-rai ở làng Lay dời làng 3 lần. Mỗi lần dời làng, chúng tôi đều phải bỏ lại ruộng vườn, nhà cửa, chỉ duy có khung dệt và nghề dệt vẫn được gìn giữ từ thế hệ này sang thế hệ khác. Dẫu có đi đến vùng đất nào thì người đàn ông Gia-rai vẫn biết vào rừng, lấy gỗ làm khung cửi, người phụ nữ vẫn trồng bông, se sợi”.

   1.2. Đồ vải của người Gia-rai ở Kon Tum

   Các sản phẩm dệt truyền thống của người Gia-rai dùng để làm trang phục mặc hàng ngày và trong các ngày hội; dùng làm tấm đắp để giữ ấm cơ thể trong những mùa giá rét; là tấm địu để cha mẹ ru ngủ con trẻ trên lưng; hoặc cũng được dùng làm của hồi môn khi thiếu nữ Gia-rai đi lấy chồng.

   Khố của nam giới là một tấm vải với khổ hẹp và dài, dùng để quấn che kín hạ bộ và vòng quanh thắt lưng, có chiều dài khoảng 3m hoặc 5m. Khố gồm thân khố và chân khố. Phần thân khố dài khoảng 80cm; trên nền vải đen, người ta dệt những dải hoa văn viền hai bên thân khố, trong dải hoa văn đó là nối tiếp các hoa văn hoa đót (hla rong) với chỉ màu vàng, đỏ đan xen. Khố được chia thành hai loại: khố mặc thường ngày (toy) và khố mặc trong các ngày lễ của gia đình và cộng đồng (toy teh). Điểm khác biệt để phân biệt hai loại khố này là dựa trên các kiểu hoa văn được tạo hình trên khố. Khác hẳn với khố mặc thường ngày chỉ điểm xuyết rất ít hoa văn và hoa văn cũng đơn giản, loại khố mặc lễ được trang trí hoa văn cầu kỳ, sặc sỡ, tập trung nhiều nhất là ở phần chân khố và được dệt theo dải ngang. Hoa văn chủ đạo là motif hoa đót được dệt ở vị trí trung tâm và có các dải hoa văn nhỏ được dệt đối xứng qua hoa văn trung tâm. Ngoài ra, còn có các dải hoa văn phụ được dệt cách điệu hình mắt chim nhằm tách biệt các dải hoa văn với nhau, tạo cho phần chân khố thêm nổi bật. Để trang trí cho chiếc khố thêm đẹp, người ta còn gắn các hạt cườm và tua rua đỏ, đen... cho loại khố mặc lễ. Cách trang trí này yêu cầu người dệt phải có kỹ thuật điêu luyện, trước đây thông thường là vợ già làng và người dệt giỏi nhất làng.

   Váy (pen voi) được làm từ 1 hoặc 2 khổ vải (nếu khổ vải hẹp) đính liền lại tạo thành tấm vải dài khoảng 1,2-1,5m, rộng bằng chính chiều dài của váy. Chiều dài váy tùy vào hoàn cảnh mặc và chiều cao của người mặc. Khi mặc, một mép vải được quấn kín ở trong, mép còn lại sau khi quấn quanh thân thì được phô ra, phổ biến về phía bên phải, góc trên được giắt chặt vào đoạn cạp váy ở thắt lưng. Hiện nay, phụ nữ Gia-rai dùng loại váy ống, kiểu váy đời mới, phát triển từ loại váy quấn truyền thống. Hoa văn trên váy của người phụ nữ Gia-rai thường được bố trí quanh chân váy ở ba vị trí: cạp váy, chân váy và thân váy... Cạp váy là đoạn vải thô, thường là màu trắng, không có hoa văn, cao khoảng 20cm, được khâu/ may vào chân váy. Chân váy là phần thường có nhiều hoa văn trang trí nhất, với weơi là hoa văn chủ đạo, các đường trang trí jih hrếch và đường viền vải jih hrơtao. Trên thân váy, người ta thường dệt hoa văn thành từng cặp lặp đi lặp lại trong các ô hình chữ nhật và được bố trí thành dải ngang. Ngoài dải hoa văn chính, phụ nữ Gia-rai còn sáng tạo thêm nhiều hoa văn độc đáo như hoa văn con rắn (alohro), trái blong (bo blong), bàn chân chó (dja sâu), nhà sàn (sang ngă dih), nhà rông (sang rong). Hoa văn trên vải của người Gia-rai thường được lấy cảm hứng từ những gì họ bắt gặp trong cuộc sống. Hiện nay, đa số phụ nữ Gia-rai vẫn lưu giữ và yêu thích dệt những hình ảnh trong kháng chiến chống Mĩ như hình ảnh máy bay (se pơr), xe tăng (se pơr), thuyền (gian), đèn điện (bong đen), con sâu (a léch), dây chuyền (nhú gang)...

   Màu sắc trên chiếc váy của phụ nữ Gia-rai thực ra không phong phú, chỉ có bốn màu cơ bản: đỏ, đen, vàng, trắng. Song để tôn lên vẻ rực rỡ, bắt mắt cho chiếc váy, người ta đã biết cách kết hợp các màu sắc với nhau, dệt đan xen để trên màu nền chàm sẫm của váy, màu này tôn màu kia lên và các màu đứng cạnh nhau mà không tạo ra sự đối chọi. Về tổng thể, chiếc váy của phụ nữ Gia-rai thường nổi bật với màu đỏ trên nền chàm đen; màu đỏ cũng được xem là màu chủ đạo khi kết hợp với các màu còn lại.

   Đối với người Gia-rai, áo (ao dah moi) của cả nam và nữ đều rất đơn giản, thuộc loại khá cổ xưa, là loại áo chui đầu được tạo nên từ chỉ hai mảnh vải khâu chắp với nhau, cấu thành thân trước và thân sau, không có ve cổ, ống tay và thường ngắn đến thắt lưng người mặc. Với áo nữ, cổ áo vừa khít với chân cổ của người phụ nữ; trong khi áo nam giới xẻ ngực cổ áo khoét mở xuống ngực. Trang trí trên cả áo nam và nữ chủ yếu tập trung xung quanh gấu áo. Để tô điểm thêm cho chiếc áo, phần thân áo và cổ áo được trang trí bằng những băng chỉ màu có khổ nhỏ.

   2. Những giá trị của đồ vải trong đời sống của người Gia-rai

   2.1. Giá trị sử dụng

   Nghề dệt của người Gia-rai đã tạo cho tộc người này sự chủ động trong việc tạo ra những đồ dùng tiện ích cho cuộc sống, trước tiên là để bảo vệ cơ thể con người trong mọi điều kiện thời tiết. Họ có trang phục mặc trong sinh hoạt hàng ngày, đàn ông mặc khi đi nương làm rẫy hay vào rừng săn bắn, phụ nữ mặc lúc lên nương trồng trọt hay vào rừng hái lượm những sản vật từ tự nhiên. Đồng thời, họ cũng có những bộ đồ được sử dụng trong các nghi lễ, vào các dịp hội hè, lễ Tết. Ngoài đồ mặc, chăn đắp, địu trẻ em... là những vật dụng phục vụ trực tiếp cho các hoạt động của con người.

   2.2. Giá trị văn hóa

   Nhìn vào hoa văn trên đồ vải của các dân tộc, có thể hiểu về nhận thức chung của từng cộng đồng, đồng thời cũng thấy được đặc trưng văn hóa của mỗi tộc người. Nghề dệt thủ công của người Gia-rai ở Kon Tum đã tạo ra những sản phẩm mang nét văn hoá độc đáo riêng có của họ, thể hiện ở cách tạo ra hoa văn truyền thống, đó là những đồ án hoa văn tương đối phong phú, phổ biến là họa tiết hình học (các đường thẳng, đường gấp khúc, đường uốn lượn, là các chấm tròn, là hình tam giác, hình vuông, hình chữ nhật...), hoa văn về cuộc sống thường ngày như: con vật, đồ vật: cây rừng, con chim, bông lúa, mái nhà rông... Những họa tiết này được sử dụng một cách linh hoạt, kết gắn, lồng, xếp, chồng, móc nối, biến hóa muôn hình dạng, tạo nên nhiều đồ án khác nhau trong tổng thể hoa văn trang trí cho từng sản phẩm dệt của người Gia-rai. Bên cạnh những hoa văn truyền thống, người dệt còn sáng tạo ra những hoa văn mới mang theo những tâm tư, tình cảm riêng của bản thân gửi gắm vào tấm vải dệt...

   Những màu sắc, hoa văn trên vải cũng như hình dáng, đường nét của các bộ trang phục truyền thống tạo nên bản sắc riêng của người Gia-rai, khiến họ nổi bật lên giữa màu xanh của núi rừng, màu nâu vàng của rơm rạ, cỏ tranh lợp nhà, cột nhà, vách phên. Trong các nghi lễ lớn của cộng đồng như lễ mừng nhà rông mới, lễ đâm trâu, những bộ trang phục truyền thống góp phần tạo nên khung cảnh đậm chất Gia-rai, nơi con người sống hài hòa với thiên nhiên, biết tận dụng nguyên liệu của thiên nhiên để tạo nên vật liệu và màu sắc cho nghề dệt vải. Việc mặc các loại trang phục phù hợp với những mục đích sử dụng khác nhau (trong lao động sản xuất hay trong lễ hội...) cũng là chỉ dẫn văn hóa giúp mọi người nhận biết trên địa bàn sinh sống đang diễn ra những hoạt động gì, có nghi lễ cộng đồng hay không. Trang phục mặc trong lễ hội của người Gia-rai luôn sặc sỡ nhiều màu sắc hơn trang phục thường ngày, chứa đựng những yếu tố tâm linh thể hiện sự tôn trọng đối với các thần linh...

   2.3. Giá trị kinh tế

   Không chỉ tham gia vào đời sống văn hóa của cộng đồng, sản phẩm của nghề dệt đã tạo điều kiện cho phụ nữ Gia-rai phát triển kinh tế thông qua trao đổi hàng hóa giữa dân tộc Gia-rai với nhau và các tộc người lân cận. Trước đây, khi chưa có vải công nghiệp, đồ vải làm ra trước tiên phục vụ nhu cầu của gia đình. Ngoài ra, họ có thể trao đổi “vật lấy vật” (đổi gà, heo, thóc... lấy váy, áo...) với những ai không tự làm được đồ vải hoặc cần có để làm của hồi môn cho con gái về nhà chồng. Nhờ đó, trong thời gian nông nhàn hoặc những ngày thời tiết không thuận tiện để đi rừng, làm nương rẫy, họ vẫn tạo ra sản phẩm có giá trị trao đổi ngang giá, mang lại thêm những vật phẩm thiết yếu cho gia đình.

   Hiện nay, trong cộng đồng người Gia-rai ở Kon Tum vẫn lưu giữ những chiếc khung dệt còn sử dụng được vào công việc dệt vải; những người phụ nữ Gia-rai vẫn tranh thủ lúc nhàn rỗi hay những tháng nông nhàn, khi mùa màng đã xong, ngồi bên khung dệt để dệt những tấm vải phục vụ cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Bên cạnh việc duy trì nghề dệt, ở một số địa phương, phụ nữ Gia-rai tập hợp trong các câu lạc bộ dệt hoặc hình thành nên các đội dệt chuyên nghiệp trong những mùa nông nhàn để làm ra những sản phẩm gắn với thực tế của đời sống đương đại như: khăn, túi, ví, chăn đắp, khăn trải bàn và nhiều vật dụng có ích khác. Những sản phẩm này đang từng bước trở thành những sản phẩm du lịch đặc trưng của địa phương, tăng thêm thu nhập cho người phụ nữ. Tại làng văn hóa du lịch cộng đồng của người Gia-rai, khách du lịch được tận mắt chứng kiến những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi dệt vải, mua các sản phẩm dệt thủ công yêu thích để làm quà lưu niệm.

   2.4. Giá trị xã hội

   Trong văn hóa mặc của người Gia-rai, trang phục cũng có ý nghĩa trong việc phân cấp địa vị xã hội trong cộng đồng. Người giàu có, quyền thế thường mặc những trang phục có nhiều màu đỏ; tầng lớp bình dân thường mặc những trang phục pha trộn giữa màu đỏ, đen, vàng; người nghèo chủ yếu mặc trang phục nhiều màu đen. Bởi vậy, trước kia, nhìn vào trang phục của người mặc, người ta có thể nhận biết những người có vai vế trong xã hội. Ngày nay, về cơ bản đời sống đã được cải thiện nên người dân cũng lựa chọn cho mình những trang phục đẹp mắt với nhiều gam màu tươi sáng, đặc biệt là những bộ trang phục mặc trong các lễ hội.

   Đồ vải truyền thống của người Gia-rai còn là một trong những chuẩn mực về cái đẹp, dựa vào đó, người Gia-rai trước đây đánh giá giá trị của người phụ nữ thông qua những sản phẩm dệt mà họ làm ra. Trước khi lấy chồng, các cô gái Gia-rai được cho là chăm chỉ, đảm đang nếu họ làm ra được nhiều đồ vải để mặc cho bản thân và sử dụng trong gia đình. Họ cũng tự tay làm đồ vải để mang về nhà chồng. Những sản phẩm họ làm ra được cộng đồng đánh giá dựa trên sự hài hòa trong lựa chọn màu sắc, tinh tế trong bố trí hoa văn và đó là một trong những điểm nhấn để các chàng trai Gia-rai lựa chọn người con gái làm bạn đời.

   Để duy trì nghề dệt truyền thống qua nhiều thế hệ, không thể không nhắc đến quá trình truyền dạy kỹ năng, kỹ thuật dệt từ những người bà, người mẹ cho các bé gái Gia-rai. Ở độ tuổi 14-16 tuổi, các bé đã có thể tự làm ra đồ vải cho mình dưới sự chỉ dạy tận tình của những thế hệ đi trước. Có thể thấy, trong quá khứ, nghề dệt trở thành một trong những yếu tố định hướng phân công lao động theo giới; đồng thời giúp duy trì kết nối giữa các thế hệ, bồi dưỡng tình cảm gắn bó giữa mẹ với con, giữa bà với cháu. Không chỉ thế, những dụng cụ dùng cho nghề dệt (từ khung dệt đến dụng cụ cán bông, guồng quay sợi...) lại do người đàn ông chế tác. Do vậy, thông qua nghề dệt, mối quan hệ gắn bó giữa người vợ và người chồng, giữa cha với con gái cũng được củng cố. Khi người con gái lớn lên, nghề dệt cũng là một trong những yếu tố để người con trai để mắt đến người con gái, từ đó tiến đến hôn nhân. Rõ ràng, sự tồn tại của nghề dệt truyền thống trong xã hội Gia-rai hiện nay đã góp phần tạo ra sự gắn kết giữa con người với con người trong cộng đồng Gia-rai trước đây cũng như ngay cả bây giờ.

   2.5. Giá trị thẩm mĩ

   Sản phẩm dệt nói chung, hoa văn trang trí trên đồ dệt nói riêng, vừa là vật chất được tạo ra từ quá trình lao động thủ công, đồng thời cũng là một biểu hiện sinh động của kỹ thuật thủ công gắn liền với khả năng thẩm mĩ. Chẳng hạn, trong bảng màu xưa của người Gia-rai gần như chỉ có 4 màu cơ bản: trắng, đen (chàm), đỏ, vàng. Màu đen (chàm) là màu cơ bản và đặc trưng nhất, là màu người Gia-rai sử dụng để làm nền cho những bộ trang phục của cả nam và nữ. Màu đen của người Gia-rai được nhuộm từ lá Mo (lá chàm), khi mới nhuộm thì giống màu đen, nhưng khi vải đã phai màu thì màu chàm hiện ra rõ rệt nhất. Người Gia-rai quan niệm nền đen là “không màu”, làm nổi bật những màu sắc khác nếu đặt cạnh nó. Ví dụ như màu đỏ với các dây sợi màu đỏ tạo hoa văn chạy dọc thân váy, gấu váy, khi kết hợp với nền đen không làm cho người nhìn rối mắt vì sự sặc sỡ của màu đỏ, không những thế còn góp phần tôn lên những đường cong của người phụ nữ.

   Giá trị thẩm mĩ trên đồ vải của người Gia-rai còn nằm ở cá tính độc đáo của bản thân mỗi người nghệ nhân thể hiện qua những sáng tạo trên sản phẩm của họ. Ở mỗi tộc người, phom dáng trang phục, kết cấu hoa văn thường luôn có những quy định chung, song bên trong những quy định đó, không gian sáng tạo cho từng nghệ nhân là không giới hạn. Điều này khiến cho mỗi đồ vải làm ra không phải là sự rập khuôn khô cứng, mà thực sự là những tác phẩm nghệ thuật của đường nét, của màu sắc và của tình cảm chính người nghệ nhân làm ra nó. Sự sáng tạo về kiểu dáng và màu sắc, thậm chí sau này là chất liệu, chính là cơ sở để nghề dệt tồn tại đến nay và không ngừng có những sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu không chỉ của cộng đồng mà còn của du khách gần xa khi đến với người Gia-rai ở Kon Tum.

   3. Một số giải pháp phát huy những giá trị của đồ vải truyền thống trong đời sống của người Gia-rai hiện nay

   Để gìn giữ và phát huy vốn văn hóa truyền thống quý báu của nghề dệt thủ công truyền thống, cấp uỷ, chính quyền và các cơ quan chức năng ở Kon Tum đã có nhiều chủ trương, chính sách cụ thể như đầu tư kinh phí, triển khai nhiều dự án nhằm bảo tồn nghề dệt thủ công truyền thống: mở các lớp truyền dạy lại nghề dệt truyền thống cho phụ nữ dân tộc Gia-rai nhằm duy trì và phát huy nghề dệt truyền thống; động viên, khuyến khích các nghệ nhân truyền dạy lại nghề cho thế hệ trẻ; tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức về giá trị văn hóa truyền thống quý báu của nghề dệt thủ công truyền thống cho thế hệ trẻ. Nhiều địa phương đã xây dựng những phòng trưng bày sản phẩm dệt của dân tộc Gia-rai để tăng cường tuyên truyền, giới thiệu sản phẩm đặc trưng của dân tộc mình khi có du khách đến tham quan.

   Để công tác bảo tồn và phát huy giá trị của đồ vải truyền thống trong đời sống của người Gia-rai, trong thời gian tới, vẫn cần tiếp tục thực hiện những biện pháp thiết thực, cụ thể như:

   - Nhà nước tiếp tục có những chính sách, chương trình đầu tư đồng bộ, phù hợp tạo điều kiện để đồ vải truyền thống của người Gia-rai nói riêng, của các dân tộc ở Việt Nam nói chung, có cơ hội phát huy giá trị, mang lại lợi ích cho người dân, vừa góp phần phát triển kinh tế vừa gìn giữ bản sắc văn hóa.

   - Các địa phương tiếp tục triển khai chương trình, dự án nhằm bảo tồn nghề dệt như: mở lớp dạy nghề dệt thủ công tại địa phương; dự án bảo tồn làng văn hóa truyền thống, trong đó có nhà trưng bày sản phẩm văn hóa dân tộc của địa phương, giới thiệu, quảng bá sản phẩm dệt gắn với phát triển du lịch tại địa phương...

   - Khuyến khích người dân trồng bông, sử dụng nguồn nguyên liệu truyền thống; có chính sách hỗ trợ để cải tiến khung dệt, giúp người sản xuất tiếp cận kỹ thuật mới để nâng cao năng suất và chất lượng của sản phẩm dệt, đáp ứng nhu cầu của người sử dụng.

   - Tổ chức các nghi lễ truyền thống, thành lập các đội văn nghệ trong đó sử dụng trang phục dân tộc khi biểu diễn tiết mục văn hóa, văn nghệ; xây dựng kế hoạch, tổ chức các cuộc thi về nghề dệt, tôn vinh sản phẩm dệt sáng tạo tại địa phương, qua đó, khích lệ người dân thêm yêu quý và gìn giữ vốn văn hóa của dân tộc mình.

   - Ngành văn hóa phối hợp với ngành giáo dục tổ chức hoạt động ngoại khóa với các chủ đề giới thiệu về thổ cẩm cho học sinh các cấp; tổ chức cho học sinh trường dân tộc nội trú mặc trang phục truyền thống vào một số ngày trong tuần theo quy định.

   - Giáo dục cho thế hệ trẻ dân tộc Gia-rai hiểu và yêu quý giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình; khuyến khích việc theo học nghề dệt, phát huy năng lực sáng tạo của thế hệ trẻ nhằm tạo ra các sản phẩm dệt vừa mang tính truyền thống vừa mang tính hiện đại phù hợp với thị hiếu của người dùng.

   - Tăng cường công tác quảng bá, giới thiệu các sản phẩm dệt gắn với cơ chế, chính sách phát triển du lịch của địa phương thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các cuộc trưng bày triển lãm...; thực hiện các hoạt động số hóa những mẫu mã hoa văn của nghề dệt, in hoa văn của nghề dệt trên những sản phẩm khác nhau nhằm phát triển và duy trì nghề dệt.

   - Các cơ quan chức năng rà soát lập danh sách nghệ nhân tại địa phương; thường xuyên quan tâm, động viên, khuyến khích các nghệ nhân trong việc truyền dạy lại kỹ thuật nghề cho thế hệ trẻ; xây dựng cơ chế, chính sách và tôn vinh, khen thưởng các nghệ nhân, nhất là nghệ nhân đã cao tuổi; lấy bảo tàng tỉnh làm trung tâm để sưu tầm, lưu giữ các hiện vật liên quan đến nghề dệt thủ công truyền thống.

    4. Kết luận

   Nghề dệt thủ công của người Gia-rai ở Kon Tum đã tạo ra những sản phẩm mang nét văn hoá độc đáo riêng có của họ. Những sản phẩm đồ vải đó đã gắn bó với người Gia-rai trong suốt quá trình tộc người và còn được bảo lưu đến nay là bởi chúng chứa đựng trong đó nhiều giá trị quý: giá trị sử dụng, giá trị văn hóa, giá trị kinh tế, giá trị xã hội, giá trị thẩm mĩ... Do vậy, bảo tồn và phát huy giá trị của đồ vải truyền thống trong đời sống góp phần gìn giữ những biểu tượng văn hóa cổ truyền của người Gia-rai, khẳng định bản sắc Gia-rai trong cộng đồng 54 dân tộc ở Việt Nam. Trong bối cảnh hiện nay, việc phát huy những giá trị của đồ vải truyền thống trong hoạt động du lịch còn là cách củng cố thêm kinh tế của người dân, mang lại đời sống có chất lượng cao hơn, do đó, là việc làm rất cần có sự quan tâm của Nhà nước cũng như quyết tâm chung tay của chính những chủ thể văn hóa – người Gia-rai ở Kon Tum với di sản đồ vải truyền thống đáng tự hào.

 

 

 

Chú thích:
1 “Danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam”, Tạp chí Dân tộc học, số 1/1979, tr. 60.

Bình luận

    Chưa có bình luận