ĐỀ TÀI LỊCH SỬ TRONG VĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM

Bài viết phân tích đề tài lịch sử trong văn học thiếu nhi từ những tác giả 'khơi nguồn' như Nguyễn Huy Tưởng và Hà Ân đến các thế hệ nối tiếp sau này bứt phá với những hướng đi mới: Tô Hoài, Sơn Tùng, Hoài Anh, Nghiêm Đa Văn, Lê Phương Liên… Qua đó khẳng định với chặng đường hơn 60 năm, truyện lịch sử là một mạch xuyên suốt trong văn học thiếu nhi Việt Nam và cần thiết có các giải pháp để duy trì, thúc đẩy sự phát triển của mảng văn học đặc biệt này.

   1. Từ những khơi nguồn

   Vào những năm 60 của thế kỷ XX, đề tài lịch sử trong văn học thiếu nhi bắt đầu được nhắc tới trong sáng tác của một số tác giả như Nguyễn Huy Tưởng với Lá cờ thêu sáu chữ vàng Kể chuyện Quang Trung; An Cương với Sóng gió Bạch Đằng Bố cái Đại Vương; Yến Hồng, Hoài Ban với Nhuỵ Kiều tướng quân; Quách Thọ với Chọn soái; Hà Ân với Tướng quân Nguyễn Chích, Quận He khởi nghĩa và bộ ba truyện lịch sử viết về đời Trần Bên bờ Thiên Mạc, Trên sông truyền hịchTrăng nước Chương Dương... Trong đó, thành công nhất là hai tác giả Nguyễn Huy Tưởng và Hà Ân.

   Nguyễn Huy Tưởng là một trong những người đầu tiên khơi nguồn lịch sử để sáng tác cho các em. Ông là người có khát vọng và sở trường viết truyện lịch sử. Từ những trang viết đầu tiên của ông còn lưu giữ được đã bộc lộ một tâm hồn nhạy cảm với những nghĩ suy về đất nước, về dân tộc. Ông viết văn để ký thác tấm lòng đối với đất nước. Ông đã đóng góp cho văn học Việt Nam những tác phẩm về đề tài lịch sử thật xuất sắc như Đêm hội Long Trì (1942), Vũ Như Tô (1943), Cột đồng Mã Viện (1944), An Tư công chúa (1944), Bắc Sơn (1946), Những người ở lại (1948), Ký sự Cao Lạng (1950, Giải thưởng Văn nghệ 1951-1952), Bốn năm sau (1959), Luỹ hoa (1959), Sống mãi với Thủ đô (1961, xuất bản sau khi nhà văn qua đời) và tập ký - di cảo Tâm sự đêm trăng...

   Truyện lịch sử viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng tuy không nhiều nhưng tất cả những gì ông viết cho các em đều được chắt lọc và có giá trị. Ước muốn của ông là: “Làm sao cho hết thảy con em, cả một thế hệ bước sau chúng ta, khi các em vừa đến tuổi làm quen với sách vở đã biết thưởng thức và say mê những câu chuyện do tưởng tượng mới thấy, thì trước hết, các em phải được thấy một cách xúc động và thiêng liêng sức sống vĩ đại của dân tộc và con người Việt Nam”. Ông thèm có tài năng nào “đem được cả nghìn năm lịch sử dựng nước biến thành một bộ truyện chói lòa, hàng trăm, hàng trăm nhân vật anh hùng”1.

   Với cảm hứng ngợi ca truyền thống yêu nước, dũng cảm của cha ông, Nguyễn Huy Tưởng đã dựng nên một cách chân thực mà huy hoàng những tấm gương sáng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.

   Kể chuyện Quang Trung là một bức tranh lịch sử rộng lớn về cuộc tiến công ra Bắc của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, với điểm chốt vinh quang cuối cùng là trận Đống Đa lịch sử. Hình ảnh người anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ có tài xét đoán, có tầm nhìn xa trông rộng, có cách xử trí linh hoạt đã được Nguyễn Huy Tưởng khắc hoạ thật cụ thể và chân thực. Nguyễn Huệ không chỉ được ca ngợi ở sự vĩ đại trước quân thù mà còn được ca ngợi về tài trị nước. Khi Thăng Long đã về tay Tây Sơn, Quang Trung không chủ quan mà vẫn giữ hòa hiếu với các nước láng giềng để tránh hậu hoạ về sau. Không chỉ thế, Quang Trung còn có chủ trương chiêu hiền đãi sĩ, trọng dụng người tài để củng cố nền hoà bình đất nước, bản thân ông cũng nêu cao một tấm gương khiêm tốn học hỏi. Chính vì vậy Quang Trung đã nhanh chóng xóa được những định kiến, nghi ngờ của các trí thức triều đại cũ. Với cách kể chuyện dung dị, khách quan mà vẫn thể hiện được tâm ý của mình, Nguyễn Huy Tưởng đã chạm tới niềm tin yêu, tự hào và sự ngưỡng mộ của bạn đọc về bậc anh hùng dân tộc.

   Tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng có thể coi là đã đạt tới kết tinh nghệ thuật. Với phong cách hoành tráng sử thi, Nguyễn Huy Tưởng đã làm sống dậy hào khí hừng hực của một giai đoạn lịch sử đời Trần, những ngày mà cả dân tộc cùng chung một lời thề “Sát thát”. Trong không khí oanh liệt, hào hùng đó, Nguyễn Huy Tưởng đã làm nổi bật hình ảnh người anh hùng Trần Quốc Toản tuổi nhỏ mà chí cao. Tuy chưa được tham gia họp bàn việc nước nhưng trước sự lâm nguy bởi họa ngoại xâm, Trần Quốc Toản đã chiêu mộ sáu trăm thanh niên lập thành một đội quân tinh nhuệ đi tìm giặc đánh. Được sự hỗ trợ đắc lực của người tướng già trung thành và anh em nhà Thế Lộc, đội quân của Quốc Toản đã lập nhiều chiến công, gây thanh thế khắp vùng Lạng Giang - Lạng Sơn. Đặc biệt, sau lần giải vây cho Chiêu Thành Vương (cũng là chú ruột) gặp nạn trên đường truy đuổi Trần Ích Tắc, đội quân của Quốc Toản đã thực sự chiếm được lòng tin của triều đình. Chiến công rực rỡ nhất mà người anh hùng nhỏ tuổi đạt được là trận Hàm Tử quyết chiến với Ô Mã Nhi. Lá cờ thêu sáu chữ vàng chính là biểu tượng của ý chí quyết chiến, quyết thắng của cả một thế hệ thiếu niên đất Việt giàu lòng yêu nước; là biểu tượng của niềm tin và sự quyết thắng. Lá cờ đỏ “đi qua rừng, qua núi, qua đèo, qua sông”, là biểu tượng của Tổ quốc thân yêu. Kết thúc tác phẩm là hình ảnh “Lá cờ đỏ thêu sáu chữ vàng căng phồng lên trong nắng hè lồng lộng”. Đó chính là biểu tượng thiêng liêng của cái đẹp, cái hào hùng làm cho thiên truyện mang đậm màu sắc anh hùng ca. Có thể nói, tác phẩm bộc lộ thiên hướng viết truyện lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng qua khả năng bao quát không gian, thời gian; sự am tường lịch sử; bút pháp tài hoa trong xây dựng nhân vật và miêu tả thiên nhiên. Chính vì vậy, đã hơn 60 năm trôi qua, Lá cờ thêu sáu chữ vàng vẫn là người bạn thân thiết của các thế hệ trẻ thơ Việt Nam. Tác phẩm có nhiều đoạn trích được đưa vào sách giáo khoa tiểu học. Đó vẫn là những bài học vô cùng sống động về tình yêu quê hương đất nước, về ý thức khi Tổ quốc lâm nguy cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.

   Nhìn chung, truyện lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng mang đậm chất anh hùng ca. Ông tôn trọng các sự kiện lịch sử nhưng không bị ràng buộc, gò bó. Tác phẩm của ông vừa hoành tráng vừa giản dị, vừa chân thực vừa bay bổng, lãng mạn. Ông đã đem đến cho trẻ thơ những bài học quý về lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc.

   Cùng với Nguyễn Huy Tưởng, Hà Ân là người đã cống hiến cho văn học thiếu nhi nước nhà những truyện lịch sử thật bề thế, tài hoa và đậm chất nhân văn. Ông viết nhiều, khai thác lịch sử từ nhiều phương diện khác nhau, như: một chú bé học giỏi đời Trần, một bà Ỷ Lan biết trông coi việc nước đời Lý, một ông vua anh minh, một nhà bác học lỗi lạc, một ông tổ nghề dệt lượt, một thầy thuốc có lương tâm... nhưng phần lớn truyện của ông xoay quanh các chiến công của cha ông chống giặc ngoại xâm. Có thể nói, cảm hứng yêu nước anh hùng là cảm hứng chủ đạo, bao trùm trong các truyện lịch sử của Hà Ân. Là một giáo viên dạy sử lâu năm, dường như ông muốn đi tìm bản chất vẻ đẹp của con người Việt Nam trong tư thế “đối diện trường kỳ với lịch sử”. Những nhân vật lịch sử oai phong lẫm liệt vốn quen thuộc mà trẻ em hay gặp trong sách giáo khoa lịch sử như Trần Quốc Tuấn, Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản, Yết Kiêu, Dã Tượng..., qua ngòi bút của Hà Ân (trong Trăng nước Chương Dương, Trên sông truyền hịch, Bên bờ Thiên Mạc...) bỗng như lạ hơn nhưng lại cũng “đời” hơn với những tâm tư thầm kín cùng những sinh hoạt bình dị hàng ngày.

   Truyện lịch sử viết cho thiếu nhi giai đoạn này đã làm sống lại những trang sử hào hùng của dân tộc với những nhân vật lịch sử mang tầm vóc thời đại. Truyện lịch sử hướng tới cái cao cả, làm rung động lòng người. Đây là mảng đề tài quan trọng, có ý nghĩa lớn trong việc giáo dục thiếu nhi về lịch sử đất nước. Không giống như những bài học lịch sử trong nhà trường, văn học với đặc trưng của loại nghệ thuật ngôn từ có thể diễn giải những điều trừu tượng, khô khan nhất bằng sự hấp dẫn, lôi cuốn nhất.

   2. Đến sự bứt phá những hướng đi mới

   Nếu như đề tài lịch sử được khơi nguồn và rất phát triển từ những năm 60 của thế kỷ XX thì sau năm 1975 hầu như chững lại và phải mất một thời gian dài, mảng đề tài này mới tiếp tục được khởi sắc.

   Trong giai đoạn trước, các tác giả thường khai thác lịch sử gắn với các nhân vật anh hùng và truyền thống anh dũng chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Giai đoạn khi đất nước thống nhất, đặc biệt là khi xã hội Việt Nam chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường, văn học cũng đổi mới theo tinh thần “khai phóng” hơn về tư tưởng thì hướng tiếp cận lịch sử kiểu này không còn phù hợp. Trong bối cảnh đó, Tô Hoài đã mở ra một hướng khai thác mới - khai thác lịch sử gắn với huyền thoại, phong tục và văn hoá. Ở hướng đi này, ông đã rất thành công với Đảo hoang, Chuyện nỏ thần, Nhà Chử... Đây là những tác phẩm được viết lại từ những truyện cổ dân gian, kiểu tiểu thuyết hoá truyền thuyết. Có thể nói, đây là một hướng đi cần thiết, bổ ích đối với bạn đọc, nhất là bạn đọc lứa tuổi thiếu niên, đang khao khát muốn vén tấm màn huyền thoại để biết sự thật cuộc sống và con người thuở xa xưa. Tô Hoài đã đem đến cho bạn đọc nhỏ tuổi một cảm quan về lịch sử dân tộc qua nét vẽ tài hoa, tinh tế bức tranh phong cảnh, phong tục. Tác giả tìm hiểu quá khứ trên những tài liệu thư tịch và khảo cổ học, nhưng ông cũng phát huy cao độ khả năng tưởng tượng và hư cấu của người viết tiểu thuyết để làm sống động không khí xa xưa, cho chúng ta được sống lại, được hoà nhập tâm linh vào hào khí của dân tộc, được chiêm nghiệm những cảnh sắc, phong tục và những hoạt động của người Việt cổ. Tô Hoài khai thác lịch sử gắn với cái thực trong màu sắc kỳ ảo có tính chất huyền thoại.

   Đảo hoang là cuốn tiểu thuyết phiêu lưu viết dựa trên cốt truyện Sự tích dưa hấu. Trong lời tựa, Tô Hoài viết: “Thuở bé, tôi đọc Quả dưa đỏ của Đỗ Nam Tử, giấc mơ kỳ ảo còn phấp phới đến bây giờ. Từ lâu tôi đã có cái thích và làm được bài thơ về cái đảo hoang ấy một lần nữa”. Truyện Đảo hoang gắn với thời đại Hùng Vương dựng nước. Người Việt cổ trong Đảo hoang còn bộn bề những lo âu, phải làm kiệt sức để kiếm sống, gồng mình trước những bão tố và sự đe doạ của thiên nhiên, nhưng họ đã có ý thức rào phên giậu để che chắn, mở mang đất nước, dành nhiều tâm sức cho việc làm đẹp cuộc đời. Khi những lễ hội mùa xuân náo nức, rộn ràng đến, người khắp các cõi của Lạc Việt kéo về đất Phong Châu dưới ánh đuốc sáng rực trời đêm. Trong âm vang hào hùng của trống đồng, của cồng chiêng, các tập tục bói chân gà, đốt trầm hương, đình liệu được diễn ra cùng với các cuộc bơi chải, đấu vật, thổi cơm thi... tạo một cảm giác nên thơ trong không khí thiêng liêng của hồn dân tộc. Tô Hoài đã sử dụng một cách tài hoa các tài liệu lịch sử, các truyền thuyết, dã sử thời dựng nước của các vua Hùng, phá vỡ sự gò bó, công thức trong các chứng tích lịch sử còn quá mỏng manh để xây dựng, cấu trúc, tái hiện những không gian bao la, rộng lớn, đậm đà văn hoá dân tộc thời đại Hùng Vương. Ngoài những yếu tố kỳ ảo của một truyền thuyết dân gian, Đảo hoang còn mang dáng dấp của một tiểu thuyết phiêu lưu, một bản anh hùng ca về truyền thống lao động, chiến đấu chinh phục thiên nhiên, giành quyền sống và quyền phát triển của dân tộc. An Tiêm bị vua cha đày ra đảo hoang nhưng ông đã biến cuộc đi đày thành một chuyến phiêu lưu thật ý nghĩa; biến đảo hoang thành vùng đất phì nhiêu, làm “phên giậu” phía Nam cho Tổ quốc. Ý chí, nghị lực và trí thông minh tuyệt vời của An Tiêm đã truyền sang bé Mon, giúp em có đủ trí khôn và sức mạnh để tự lo cái ăn, chỗ ở khi bị lạc gia đình. Ở Mon và An Tiêm toát lên một sức sống mãnh liệt đầy lạc quan, tin tưởng. Đó chính là hình ảnh của người Việt Nam đã sống và chiến đấu từ bao đời nay để dựng nước và giữ nước.

   Chuyện nỏ thần chứa đầy những phong cảnh, tập tục và cách làm ăn, sinh sống của người Âu Lạc. Từ cảnh làng mạc, bờ bãi, sông nước... đến cảnh núi rừng hoang sơ; từ những buổi săn voi, tập võ, đến những ngày hội hè đình đám; từ không khí tấp nập lao động xây thành, đào hào đến không khí trang nghiêm, cẩn mật khi rót đồng vào khuôn, khi đốt trầm rửa nỏ... đều chứng tỏ khả năng quan sát, miêu tả, đặc biệt là vốn hiểu biết phong tục, tập quán cổ truyền của tác giả. Tô Hoài đã dồn bút lực miêu tả hai nhân vật điển hình Cao Lỗ và Thục Phán. So với truyền thuyết An Dương Vương, kết thúc của Chuyện nỏ thần có phần bi thảm hơn, nhưng lại gần gũi hơn với sự thực cay nghiệt của lịch sử. (Trong truyền thuyết, người anh hùng không bao giờ chết. Chính vì thế, nhân dân đã để cho “An Dương Vương cầm sừng tê bảy sắc, rẽ nước xuống Thuỷ cung”).

   Truyện Nhà Chử được viết dựa theo truyền thuyết Chử Đồng Tử. Lồng trong câu chuyện tình lãng mạn giữa nàng Dong và chàng Chử, bạn đọc cũng được trở về cái nôi văn hoá đất Việt thuở khai sơn lập địa, được mở rộng sự hiểu biết về thiên nhiên đồng bãi từ cái thuở mà con người có thể ăn hoa quả thay cơm; thuồng luồng và cá sấu bị vỡ tổ trên đầu nguồn, trôi về dày đặc cả con sông Cái; có người mải lật tảng đá tìm con cua hương, nhìn lên đã thấy con hổ đương ngồi xem mình bắt cua.

   Nhìn chung, cả ba tiểu thuyết Đảo hoang, Chuyện nỏ thần, Nhà Chử đều có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố hiện thực với cổ tích và truyền thuyết lịch sử. Cả ba tác phẩm đều được viết với một giọng văn hóm hỉnh, thông minh, sắc sảo và bút pháp tài hoa, lãng mạn. Tô Hoài đã dựng nên bức tranh cuộc sống thời đại Hùng Vương, Âu Lạc nhưng vẫn không làm mất đi màu sắc cổ tích. Đó là tính chất huyền thoại, hư ảo với những hình ảnh kỳ vĩ gây sức hút cho bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ thơ. Ngoài ba tập truyện trên, Tô Hoài còn có Truyện Trạng Chuối, Cái kiện của lão Trê, Gấu ăn trăng... cũng khai thác mảng đề tài dân gian. Đây không phải là chuyện “bình cũ rượu mới” mà thực sự là những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Tô Hoài. Mượn tích cũ, nhà văn đã đưa vào tác phẩm những ý tưởng của mình mà vẫn không biến đổi cái gốc cũ. Tác giả đã khơi dậy cho trẻ trí tưởng tượng phong phú, lòng khát khao hiểu biết... dưới ánh sáng của nhận thức, tình cảm mới và hơn cả thế, ông còn đem đến cho các em những cách nhìn nhận, lý giải mới về một vấn đề đã quen thuộc, góp phần bồi đắp thêm tư tưởng tình cảm, làm giàu có thêm tâm hồn và trí tuệ cho các em.

   Sơn Tùng là nhà văn đã định hình được một phong cách viết thật đặc sắc về Bác Hồ. Ông đã dành trọn cả cuộc đời mình để sưu tầm tư liệu và viết về Bác với tất cả tài năng, tâm huyết và tình cảm yêu thương, kính trọng. Ông viết tới 12 cuốn, trong đó tiêu biểu là Búp sen xanh (1982), Bông sen vàng (1990), Bác về (2000), Thầy giáo Nguyễn Tất Thành ở trường Dục Thanh (2016)…

   Búp sen xanh là tiểu thuyết lịch sử đầu tiên viết một cách trọn vẹn về Bác Hồ từ thời niên thiếu cho tới khi ra đi tìm đường cứu nước. Để viết tác phẩm này, Sơn Tùng đã mất tới 30 năm (từ khi mới tầm 20 tuổi) sưu tầm, ghi chép một cách tỉ mỉ qua những câu chuyện mà cụ Nguyễn Sinh Khiêm và cụ Nguyễn Thị Thanh (anh và chị ruột của Bác Hồ) kể lại. Sơn Tùng may mắn đã được đến làng Chùa và làng Sen (nơi gắn bó suốt thời thơ ấu của Bác) trong thời gian công tác ở Tỉnh đoàn Thanh niên cứu quốc tỉnh Nghệ An (1948-1950). Lúc làm phóng viên, mỗi khi có cơ hội gặp Bác, Sơn Tùng đều ghi chép tỉ mỉ những lời nói của Bác, tranh thủ phỏng vấn Bác và không ngừng tìm tòi, tích lũy tư liệu về Bác. Năm 1982, tác phẩm ra đời được bạn đọc đón nhận nồng nhiệt, với 300.000 bản in, Búp sen xanh trở thành “một hiện tượng” trong ngành xuất bản lúc bấy giờ. Tác phẩm được viết với những trang văn vô cùng sống động về thời thơ ấu của Bác cũng như bối cảnh làng quê xứ Nghệ giàu truyền thống yêu nước đã nuôi dưỡng ý chí của một nhân cách lớn. Năm 2020, tác phẩm được tái bản tới lần thứ 30 với hàng triệu bản in chính thức và được dịch ra nhiều ngôn ngữ trên thế giới. Tác giả Sơn Tùng cũng chuyển thể tiểu thuyết sang kịch bản phim Cuộc chia ly trên bến Nhà Rồng, sau xuất bản phim đổi thành Hẹn gặp lại Sài Gòn. Có thể nói, Búp sen xanh không chỉ là cuốn tiểu thuyết lịch sử tiêu biểu của văn học thiếu nhi mà còn là “di sản vô giá đối với nền văn học nghệ thuật nước nhà”2.

   Nhà văn Hoài Anh có những đóng góp đáng kể với hàng loạt tác phẩm như: Mê Linh tụ nghĩa, Tấm long bào, Như Nguyệt, Đuốc lá dừa, Rồng đá chuyển mình, Ngựa ông đã về, Chim gọi nắng, Bùi Hữu Nghĩa - mối duyên vàng đá, Chiến lũy Tháp Mười, Vua Minh MạngChim gọi nắng là tập truyện trong đó có nhiều truyện ngắn viết về cuộc đời của cặp vợ chồng anh hùng Nguyễn Thị Minh Khai và Lê Hồng Phong. Ngoài hai nhân vật chính này, tác phẩm còn nhắc tới những chiến sĩ cách mạng khác như Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần, Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Thị Quang Thái… và phong trào đấu tranh chống Pháp rất khốc liệt những năm 30 của thế kỷ XX. Tương tự như Chim gọi nắng, cuốn Ngựa ông đã về cũng gồm nhiều mẩu chuyện khá độc lập về người anh hùng Lê Lợi từ khởi nghĩa Lam Sơn tới khi đem quân ra Bắc, đánh thành Đông Quan. Tác phẩm Vua Minh Mạng là một cái nhìn mới mẻ của Hoài Anh về vấn đề lịch sử. Với một nhân vật lịch sử còn tồn tại những ý kiến đánh giá khác nhau, Hoài Anh đã mạnh dạn phân tích trên cơ sở những cứ liệu lịch sử để dựng nên chân dung một vị vua có tư chất thông minh, hiếu học, ham hiểu biết và đặc biệt là rất quan tâm tới việc học hành, thi cử, tuyển dụng người tài. Tiểu thuyết Đuốc lá dừa (1981) là một đóng góp lớn của Hoài Anh cho mảng truyện lịch sử. Ông đã nghiền ngẫm, tìm hiểu cặn kẽ về nhân vật và giai đoạn lịch sử từ khi Pháp nổ súng chiếm đóng thành Gia Định cho tới khi nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu qua đời. Nhân vật Nguyễn Đình Chiểu được ông xây dựng trong mối quan hệ với nghĩa quân, các cuộc khởi nghĩa, vua quan triều Nguyễn và giặc Pháp. Bên cạnh nhân vật Nguyễn Đình Chiểu được ông khắc họa với tất cả sự trân trọng, khâm phục, ngưỡng mộ và tự hào, tác phẩm còn xây dựng cả một hệ thống nhân vật đông đảo và đa dạng về tầng lớp. Đó là Tổng thống quân vụ Nguyễn Tri Phương, Kinh lược sử Phan Thanh Giản, võ quan Võ Duy Ninh; các lãnh tụ khởi nghĩa như Trương Định, Thủ khoa Huân, Phan Tôn, Phan Liêm, Tán Kế, Quán Hớn; những người dân bình thường, yêu nước như Nguyễn Đình Huân – em trai của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, ông già mù hát rong ở chợ Trường Bình…; đám tướng tá xâm lược như Rigô, Gacnhe, Boona, Đờ Sămpô, Misen Pôngsông… Tác giả Nguyễn Chí Bền nhận xét, Hoài Anh đã “đặt nhân vật vào bối cảnh lịch sử để làm nổi bật chân dung của “ngôi sao càng nhìn càng thấy sáng”, đây là nhân vật chính “xâu chuỗi mọi nhân vật, mọi sự kiện trong tác phẩm””.

   Nghiêm Đa Văn là người thổi hồn cho sử Việt qua những tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng như Sừng rượu thề, Nguyễn Đức Cảnh, Huyền thoại về đứa con của cá Ông Voi… Ông khắc họa chân dung lịch sử bằng tâm hồn giàu cảm xúc và ngòi bút tài hoa. Nhà văn Ngô Vĩnh Bình đánh giá Nghiêm Đa Văn là “một cây bút có sở trường về đề tài lịch sử”. Tác phẩm Sừng rượu thề (NXB. Kim Đồng, 1987) dựng lại một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc khi triều đình nhà Lý bắt đầu dựng nghiệp, xây dựng nước Đại Việt thống nhất, cường thịnh sau hàng nghìn năm Bắc thuộc. Tác phẩm đã để lại dấu ấn đậm nét với việc khắc họa chân dung người anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt vừa anh dũng vừa bi tráng.

   Tác phẩm Nguyễn Đức Cảnh (NXB. Kim Đồng, 2023) viết về cuộc đời, sự nghiệp cách mạng hào hùng và sự hi sinh anh dũng của người chiến sĩ cách mạng tài năng, giàu lòng yêu nước. Tác phẩm đã dựng lại bức chân dung đẹp đẽ, sống động về người chiến sĩ cộng sản kiên trung, từ thuở ấu thơ cho tới lúc giác ngộ cách mạng, hoạt động bí mật rồi hi sinh. Những trang văn đầy cảm xúc khi tác giả miêu tả thiên nhiên, cảnh sống lầm than của những người lao động nghèo khổ; những trang miêu tả nội tâm nhân vật trong những đối thoại, độc thoại nội tâm khi chứng kiến những cảnh chướng tai gai mắt, sự bất công trong xã hội đã góp phần tạo nên hình ảnh Nguyễn Đức Cảnh tuổi trẻ chí lớn vừa giản dị, gần gũi vừa kỳ vĩ, lung linh.

   Từ quãng năm 2010, nhà văn Lê Phương Liên viết phần lời cho một loạt tranh truyện lịch sử cho thiếu nhi (bộ Tranh truyện lịch sử Việt Nam, NXB. Kim Đồng) như: Quang Trung, Ngô Sĩ Liên, Trần Nhân Tông, Bùi Thị Xuân, Đinh Bộ Lĩnh, Lý Công Uẩn… Năm 2021, sau hơn nửa thế kỷ cầm bút viết cho thiếu nhi, Lê Phương Liên đã cho ra mắt cuốn tiểu thuyết Nữ sĩ thời gió bụi viết về Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Tác giả khẳng định: “Trước hết tôi nghĩ rằng chúng ta không nên tách rời tiểu thuyết lịch sử ra khỏi văn học thiếu nhi”. Lê Phương Liên tâm sự, đây là công việc khó khăn nhất trong đời viết văn của bà. Đoàn Thị Điểm là nhân vật có thật, tư liệu về nhân vật này lại quá phong phú, đầy đủ, nếu không tìm ra một hướng sáng tạo mới thì tiểu thuyết rất khó thành công. Với cách “tiếp cận dân dã”, cuốn tiểu thuyết là sản phẩm tưởng tượng của tác giả, từ cốt truyện đến hệ thống nhân vật, từ nhân vật có tên tuổi trong lịch sử đến nhân vật vô danh, tất cả đều đạt tới chiều sâu văn hóa, bay bổng và mộng mơ. Lê Phương Liên khẳng định, nếu không phải là người chuyên viết cho thiếu nhi, bà khó có thể viết được cuốn tiểu thuyết này. Trong tác phẩm có những trang hoàn toàn văn học thiếu nhi, ví dụ đoạn tả cậu bé Lê Hữu Trác chơi đùa cùng hai cháu Lệnh Khương, Doãn Y (con của Doãn Luân), các bạn đọc nhỏ tuổi sẽ thấy rất thú vị…

   Nhìn chung, viết về đề tài lịch sử có cái khó của nó, bởi quá khứ đã diễn ra xong rồi, không chuyển động như cuộc sống hiện tại nữa. Nhà văn là “người thư ký trung thành của thời đại” nhưng cũng không chỉ là sao chép lại lịch sử. Phải làm thế nào vừa giữ được tính chất chân thực của lịch sử vừa phải thể hiện được mục đích sáng tác của mình, thể hiện được cá tính sáng tạo của một tác phẩm nghệ thuật. Nhà văn phải thực sự làm chủ được lịch sử bằng ngòi bút tưởng tượng phong phú của mình, không bị lịch sử “cưỡng chế”. Nhìn lại chặng đường hơn 60 năm, có thể khẳng định, truyện lịch sử là một mạch xuyên suốt trong văn học thiếu nhi Việt Nam. Tuy có lúc thăng, lúc trầm và ở mỗi giai đoạn, mỗi tác giả có cách tiếp cận lịch sử khác nhau để sáng tác nhưng tất cả đều có chung một điểm là niềm đam mê mong muốn đưa lịch sử đến với các em; muốn các em hiểu và yêu hơn, tự hào hơn với lịch sử dân tộc, với những gì cha ông đã hi sinh để dựng xây và gìn giữ. Tuy nhiên, nhìn rộng ra vẫn thấy đội ngũ viết truyện lịch sử cho các em hiện nay vẫn còn quá mỏng, đặc biệt là thiếu nhà văn chuyên nghiệp, thiếu đội ngũ kế thừa. Thiết nghĩ, Hội Nhà văn và các nhà xuất bản sớm có sự hợp tác và có các giải pháp để duy trì và thúc đẩy sự phát triển của mảng văn học đặc biệt này.

 

 

 

Chú thích:
1 Tô Hoài (1987), Lời tựa cuốn Tìm mẹ, NXB. Kim Đồng.
2 Hạnh Lê: “Búp sen xanh - Tác phẩm tâm huyết nhất kính dâng lên Bác của nhà văn Sơn Tùng”, nguồn: https://vov.vn/van-hoa/van-hoc/bup-senxanh-tac-pham-tam-huyet-nhat-kinh-dang-lenbac-cua-nha-van-son-tung-post876342.vov.

Bình luận

    Chưa có bình luận