NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NHIẾP ẢNH 50 NĂM SAU NGÀY ĐẤT NƯỚC THỐNG NHẤT

Bài viết chỉ ra và phân tích những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển nhiếp ảnh Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước thống nhất, đặc biệt là trong bối cảnh xã hội mới với sự tác động của khoa học kỹ thuật. Trên cơ sở đó, đề xuất một số định hướng phát triển nhiếp ảnh hiện nay.

    Nhiếp ảnh, một loại hình nghệ thuật mang tính đặc trưng cao độ, đó là ghi nhận hình ảnh chân thực, mang tính lịch sử cao và nghệ thuật nhất. Trước ngày đất nước thống nhất, nhiếp ảnh tập trung vào phản ánh các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc và đã góp phần xứng đáng trong việc ghi chép lại bằng hình ảnh lịch sử đất nước. Sau ngày đất nước thống nhất, đội ngũ những người cầm máy đã bền bỉ, kiên trì sáng tạo ghi lại hình ảnh đất nước từ đống tro tàn chiến tranh để lại, từng bước chuyển mình vượt qua những khó khăn tưởng chừng như không thể, đổi mới, xây dựng để đất nước có được ngày hôm nay.

   Trải qua 50 năm sau ngày đất nước thống nhất, nhiếp ảnh Việt Nam đã thực hiện thành công nhiều công việc to lớn, đặc biệt là: cải tạo, xây mới nền nhiếp ảnh Miền Nam sau giải phóng; góp phần thống nhất đội ngũ nhiếp ảnh cả nước sáng tác phục vụ sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước; vươn lên làm chủ công nghệ kỹ thuật số trong nhiếp ảnh; hưởng ứng mạnh mẽ và hiệu quả chủ trương của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa nhiếp ảnh. Hiện tại, nhiếp ảnh đang biến chuyển mạnh mẽ, xây dựng đội ngũ có đủ năng lực làm chủ khoa học kỹ thuật, vươn lên thực hiện công nghiệp văn hóa.

   Là loại hình nghệ thuật dựa trên nền tảng văn hóa, xã hội, nghệ thuật và khoa học kỹ thuật, trong thời gian tiếp theo sau 50 năm đất nước thống nhất, nhiếp ảnh đang và sẽ chịu những tác động, thách thức mạnh mẽ nhưng cũng tạo ra những cơ hội phát triển vô cùng to lớn. Nhận diện được những vấn đề đặt ra để giải quyết là tiền đề cho công tác định hướng phát triển nhiếp ảnh trong tương lai.

   1. Những vấn đề đặt ra

   Nửa thế kỷ sau ngày đất nước thống nhất, tình hình trong nước và thế giới có nhiều biến đổi sâu sắc và rộng khắp. Có thể thấy một số điểm chính là: Thứ nhất, ở trong nước, thời gian đầu của 50 năm, khoảng gần 15 năm (1975-1990) đất nước chưa thực sự bình yên, đặc biệt ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Điều này nhắc nhở đội ngũ những người cầm máy dù thời bình cũng cần giữ vững, phát huy tinh thần anh dũng kiên cường của thế hệ cầm máy cha anh, bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, biên giới hải đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Thứ hai, nhiếp ảnh phải biến chuyển, thích nghi, làm chủ những tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là kỹ thuật số. Điều này đòi hỏi nhiếp ảnh nói chung và cụ thể là từng người cầm máy cần phát triển toàn diện, có nền tảng kỹ thuật thật vững chắc, cả về phần cứng trang thiết bị và phần mềm. Thứ ba, nhiếp ảnh phải được xã hội hóa toàn diện, đáp ứng nhiệm vụ đa lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và văn học, nghệ thuật, vươn tầm tới quy mô nền công nghiệp văn hóa của đất nước.

   Đối chiếu với những điểm chính, nổi bật nêu trên, trong tương lai, có thể thấy 6 vấn đề cần đặt ra sau đây đối với nhiếp ảnh, bao gồm:

   * Vấn đề thứ nhất: nhiếp ảnh luôn phải là một loại hình nghệ thuật mang tính chính trị, xã hội và nghề nghiệp; luôn là một trong những công cụ văn hóa tin cậy của Đảng và Nhà nước trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh. Nhiếp ảnh phải phản ánh được hiện thực những biến chuyển tích cực của đất nước, xã hội và con người cũng như phê phán những mặt trái, tiêu cực nảy sinh trong quá trình phát triển để khắc phục. Sản phẩm hình ảnh phải xuất phát từ cuộc sống thật, mang tính hiện thực cao cũng như hướng tới tính lịch sử lâu dài cho xã hội, đất nước. Nhiếp ảnh cần tránh làm sai lệch, tô hồng hay diễn tả cuộc sống theo góc độ chủ quan của người cầm máy. Mặt khác, với góc độ là một loại hình nghệ thuật, nhiếp ảnh cần mang đến cho xã hội những hình ảnh có giá trị nghệ thuật cao, góp phần nâng cao giá trị thẩm mĩ hình ảnh về đất nước, con người Việt Nam trước bè bạn quốc tế năm châu.

   * Vấn đề thứ hai: cần duy trì, bảo tồn và phát huy các đặc tính mang bản chất cốt lõi của nhiếp ảnh. Trong văn học, nghệ thuật, tác phẩm của nhiều loại hình như: văn học, âm nhạc, mĩ thuật… là sản phẩm của trí tuệ do con người thông qua trí tưởng tượng và sáng tạo. Một khi là sản phẩm nghệ thuật, được trí “tưởng tượng” tạo ra thì hàm lượng trí tuệ sáng tạo của con người trong tác phẩm chiếm tỉ trọng rất cao, nhiều trường hợp hầu như tuyệt đối; phần còn lại của tác phẩm là “thực tế thật” xuất phát từ thiên nhiên, cuộc sống, đời sống xã hội hay con người. Tùy theo loại hình nghệ thuật, tùy theo tác giả sinh tạo ra tác phẩm, hàm lượng “thực tế thật” trong các tác phẩm nghệ thuật là rất khác nhau. Nhưng trong nhiếp ảnh lại khác, tác phẩm ảnh được ghi nhận từ thực tế. Hình ảnh được người cầm máy cảm nhận, chọn lọc, ghi nhận bằng công cụ máy ảnh một cách chân thực những gì đang diễn ra trước ống kính người cầm máy, trong đó hàm lượng “thực tế thật” lại gần như tuyệt đối và giá trị cao nhất của nhiếp ảnh chính là tính chân thực. Theo thời gian, khoảnh khắc không lặp lại và giá trị của hình ảnh về sự kiện, con người, hình ảnh mang cả tính lịch sử. Tuy nhiên, nếu chỉ có tính chân thực và lịch sử, hình ảnh cũng chưa đủ sức thuyết phục người xem và lan tỏa. Để người xem có thể ghi nhớ và lan tỏa trong cộng đồng, trên các phương tiện truyền thông, hình ảnh phải đẹp, hấp dẫn, hay nói một cách khác, hình ảnh phải mang tính nghệ thuật cao. Như vậy, nhiếp ảnh phải mang tính chân thực, tính lịch sử một cách nghệ thuật nhất. Đó là bản chất truyền thống của nhiếp ảnh. Tuy nhiên đến nay, dưới tác động của cách mạng khoa học công nghệ kỹ thuật số, quan niệm về hình ảnh được mở rộng, không chỉ là một loại hình nghệ thuật mà hình ảnh còn mang thêm tính thông tin. Với quan niệm quan trọng này, hình ảnh hiện đang sánh ngang với những hình thái thông tin cơ bản truyền thống như chữ viết, số, âm thanh và ngày càng nổi trội do được khai thác sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực khác ngoài văn học, nghệ thuật. Với quan niệm là một loại hình thông tin, hiện nay hình ảnh được khai thác, sử dụng hết sức rộng rãi trong mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh - quốc phòng và đời sống con người. Như vậy hình ảnh – sản phẩm của nhiếp ảnh đến nay có 4 đặc tính mang bản chất cốt lõi, đó là: chân thực, lịch sử, nghệ thuật và thông tin. Xin đi sâu phân tích từng đặc tính đó như sau:

   - Giữ gìn tính chân thực - bản chất cốt lõi hàng đầu của nhiếp ảnh: Trong sáng tác ảnh, người cầm máy cần giữ đạo đức nghề nghiệp, không vi phạm bản quyền (không lấy hay sử dụng toàn bộ hoặc một phần tác phẩm của người khác), cụ thể: không sử dụng phần mềm xử lý hình ảnh hay trí tuệ nhân tạo (AI) hoặc lấy của người khác để tạo dựng hình ảnh mới cũng như không cắt ghép ảnh của chính mình để chỉnh sửa. Trong những năm đầu khi photoshop mới ra đời, hiện tượng xâm phạm bản quyền khá phổ biến, có người do vi phạm đạo đức nghề nghiệp, vi phạm bản quyền đã bị khai trừ khỏi đội ngũ hội viên Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam. Qua một thời gian, đến nay, với trình độ và nhận thức của đội ngũ cầm máy đã được nâng cao hơn nhiều so với trước nên khi AI ra đời, mặt trái của AI đã sớm được nhận diện và cảnh báo trong hoạt động nhiếp ảnh. Một trong những điều rõ nét và phổ biến nhất là AI vi phạm bản quyền thông qua việc sử dụng hình ảnh trích từ kho dữ liệu để chắp ghép tạo nên sản phẩm dạng ảnh mới mà không xin phép. Một quan niệm đã được nhanh chóng thống nhất là: sản phẩm của trí tuệ nhân tạo không phải là hình ảnh, không phải là sản phẩm của nhiếp ảnh. Trong các cuộc thi ảnh hiện nay đã quy định rõ ràng cấm các sản phẩm dạng ảnh được tạo dựng bởi AI. Điều này cần được duy trì chặt chẽ trong tương lai để bảo vệ bản quyền, bảo đảm tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật và đạo đức xã hội nghề nghiệp cũng như bảo vệ bản chất cốt lõi của nhiếp ảnh. Cần quan niệm rằng sản phẩm AI không phải là ảnh chụp từ thực tế mà chỉ là sản phẩm dạng ảnh chắp ghép và tất nhiên không có tính chân thực.

   - Duy trì và bảo tồn tính lịch sử của hình ảnh: Trong thực tế, cho đến nay hầu như chưa có định nghĩa và sự phân định rõ ràng thế nào là ảnh lịch sử. Ví dụ: ảnh có giá trị đến mức nào hay đã chụp được bao lâu thì được mang tính lịch sử? Tuy nhiên, có thể tạm hiểu tính lịch sử của hình ảnh do giá trị của hình ảnh và thời gian kể từ khi ảnh được chụp cấu thành, ảnh được chụp càng lâu thì tính lịch sử của hình ảnh càng cao. Trong đó, giá trị của hình ảnh do nhiều yếu tố tạo dựng, ví dụ như: tính độc nhất của hình ảnh, độ khó để có thể ghi được hình ảnh, tính chất quan trọng của sự kiện hay nhân vật được phản ánh trong hình ảnh. Dù chưa rõ ràng nhưng việc phân định hạng mục hình ảnh mang tính lịch sử vẫn có thể giúp chúng ta bảo tồn được những hình ảnh quý hiếm cho đất nước và nhân loại.

   - Không ngừng nâng cao tính nghệ thuật trong nhiếp ảnh: Theo quan điểm của người viết, nghệ thuật không phải là đặc tính hàng đầu nhưng phải luôn luôn được chú trọng đề cao song song với tính chân thực trong nhiếp ảnh. Hình ảnh thiếu đi tính nghệ thuật sẽ không được người xem chú ý, không được báo chí, truyền thông khai thác sử dụng và có thể nhanh chóng bị xã hội lãng quên. Từ trước đến nay, liên quan đến nghệ thuật trong nhiếp ảnh có các quan niệm song song tồn tại cần xem xét: Một là, quan niệm nhiếp ảnh đơn thuần là một loại hình nghệ thuật “bình dân” trong cuộc sống. Khi đối tượng của nhiếp ảnh chủ yếu là đời sống xã hội, là con người bình thường, nhiếp ảnh dành cho tất cả mà không dành cho một tầng lớp nào đó trong xã hội, từ đó không đánh giá cao nhiếp ảnh. Hai là, quan niệm coi nhiếp ảnh là một phương tiện nặng về phục vụ thông tin báo chí, tuyên truyền. Với góc nhìn này, hình ảnh chủ yếu là loại ảnh minh họa trong báo chí. Xu hướng này nảy sinh một phần do phong trào nhiếp ảnh quần chúng hiện nay quá rầm rộ, tạo tâm lý nhàm chán khi nhìn ảnh. Khách quan mà nói, thời gian gần đây, ai cũng có thể chụp ảnh, nhất là bằng điện thoại di động. Do vậy nhiếp ảnh trở nên quá phổ cập, nhà nhà có máy ảnh, người người cầm máy. Xu hướng này, ngược lại, cũng có mặt tốt, đòi hỏi đội ngũ những người cầm máy phải nỗ lực chụp được những tác phẩm ảnh chất lượng cao, nghệ thuật hơn và nổi trội hơn nữa. Ba là, phong trào nhiếp ảnh hiện tại thông qua các cuộc thi tập trung vào các đề tài chính trị, xã hội. Rất hiếm cuộc thi khuyến khích nâng cao nghệ thuật chuyên ngành nhiếp ảnh như chân dung, đen trắng, tĩnh vật, ý tưởng... Điều này khiến nghệ thuật nhiếp ảnh có phần bị lãng quên hay phần nào bị coi nhẹ. Nói không quá, nhiếp ảnh hiện nay có hướng “nặng” về phong trào, phục vụ các đề tài chính trị - xã hội. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, những năm gần đây, mỗi năm có khoảng 40-50 cuộc triển lãm nhưng số các cuộc triển lãm có ảnh thật sự chất lượng và độc đáo về nghệ thuật chuyên ngành nhiếp ảnh rất ít. Trong các cuộc thi ảnh trong cả nước, số lượng người tham gia gửi ảnh rất đông nhưng chủ yếu để giành đoạt giải, qua đó “giành” tước hiệu của Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam. Số nghệ sĩ thực thụ sáng tác với niềm đam mê sáng tạo nghệ thuật có xu hướng ít hơn so với trước.

   Tình hình trên dẫn đến hiện tượng một số không nhỏ nghệ sĩ thành danh hay đã tạo dựng được trường phái nghệ thuật riêng không còn “mặn mà” với phong trào chung hay cũng không được quan tâm vận động tham gia vào phong trào sáng tác chung. Họ lui về phía sau, đứng sang một bên, ở ẩn hay không tham gia phong trào nhiếp ảnh nữa. Đây là điều thật sự đáng tiếc cho hoạt động nhiếp ảnh nói chung. Trong khi đó, ở chiều ngược lại, một số nghệ sĩ đoạt được rất nhiều huy chương, cả trong nước lẫn ngoài nước, được đề cao nhưng không nhận được sự công nhận và không được giới chuyên môn, đồng nghiệp nể phục. Những người này mang một số ít hình ảnh đã đoạt giải đi dự nhiều cuộc thi khác nhau cả trong nước lẫn nước ngoài. Từ đó số giải, huy chương tăng lên nhiều lần nhưng số ảnh thực sự có giá trị rất hạn chế.

   Chính vì vậy, có thể nói chất lượng chuyên môn nghệ thuật trong nhiếp ảnh thời gian qua hầu như tập trung vào loại hình ảnh tuyên truyền, mạnh về phong trào. Những loại ảnh nghệ thuật chuyên ngành như chân dung, đen trắng, phong cảnh, tĩnh vật, ý tưởng có tính sáng tạo cao hay ảnh ứng dụng kỹ thuật hầu như rất ít thấy xuất hiện trong các cuộc thi và triển lãm. Do vậy “tuổi thọ” của những ảnh đoạt giải thường ngắn ngủi, triển lãm qua đi, ảnh đoạt giải được xếp vào góc, mấy ai nhắc đến, mấy ai nhớ đến.

   - Khai thác sử dụng tối đa tính thông tin của hình ảnh: Ứng dụng kỹ thuật số, dưới góc độ khoa học kỹ thuật, hình ảnh mang rất nhiều thông tin và nay được coi là một loại hình thông tin rất quan trọng. Nhờ công nghệ kỹ thuật số, ngày nay con người có thể khai thác rất nhiều lợi ích từ hình ảnh. Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết, người viết chỉ tập trung vào khai thác tính thông tin trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật mà không xem xét trong các lĩnh vực khác. Khi được số hóa, hình ảnh có thể được phân tích, mã hóa, xử lý, sắp xếp, lưu trữ, truyền phát và cả được cắt, chắp ghép, tạo dựng hình ảnh mới thông qua sử dụng AI. Những hình ảnh được tạo dựng khi được phép và nếu không vi phạm bản quyền có thể được sử dụng trong các lĩnh vực ảnh ý tưởng, ảnh quảng cáo hay phim hoạt hình.

   Việc khai thác sử dụng tính thông tin của hình ảnh sẽ mở ra một khả năng vô cùng to lớn trong việc xử lý hình ảnh, truyền phát hình ảnh tốc độ cao qua mạng internet, lưu trữ trong các trung tâm dữ liệu (Big Data), tạo môi trường kỹ thuật số cho hình ảnh, lập thị trường hình ảnh phục vụ kinh tế nhiếp ảnh, hướng tới xây dựng công nghiệp nhiếp ảnh.

   * Vấn đề thứ ba: nâng tầm vị thế kinh tế, văn hóa, xã hội của hình ảnh. Dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, mà trực tiếp là công nghệ kỹ thuật số, nhiếp ảnh đang có những bước tiến vượt bậc, phát triển nâng cao vị thế của mình trong nền kinh tế xã hội, văn học, nghệ thuật. Song song với nhiệm vụ chính trị - xã hội ngày càng lớn, điều có thể thấy rõ là hình ảnh được khai thác sử dụng ngày càng rộng rãi trong rất nhiều lĩnh vực, giá trị kinh tế của nhiếp ngày càng được nâng cao. Thực tế cho thấy, hiện nay không nhiều loại hình văn học, nghệ thuật được “trọng dụng” như nhiếp ảnh. Các đặc tính của nhiếp ảnh đã phát huy cao độ ưu thế trong đời sống kinh tế, mà cụ thể là trong kinh doanh thương mại, sản xuất sản phẩm công nghiệp tiêu dùng. Trong những năm gần đây, các doanh nghiệp du lịch nghỉ dưỡng, các resort, bất động sản kinh doanh nhà đất, sản xuất công nghiệp… đã liên tục phối hợp với hội nhiếp ảnh các cấp mở các cuộc thi ảnh để có được những hình ảnh đẹp về sản phẩm nhằm quảng cáo, giới thiệu với thị trường. Nhu cầu về hình ảnh tăng cao đẩy giá trị của hình ảnh lên cao đáng kể. Nếu như trước đây khoảng 5-7 năm, phần thưởng kèm theo giải nhất các cuộc thi ảnh chỉ khoảng chục triệu thì theo xu hướng xã hội hóa nhiếp ảnh, kể từ khi các doanh nghiệp bảo trợ các cuộc thi như trong cuộc thi ảnh Vinhomes Grand Park 2022 đã trao giải đặc biệt là chiếc xe Vinfast VF e34 có trị giá 690 triệu cho một nhiếp ảnh gia nữ, một giải giá trị 15.000 USD cũng được trao cho một nhiếp ảnh gia nữ khác trong cuộc thi ảnh quốc tế Video SkyPixel 2023. Với giá trị giải thưởng được nâng ngày càng cao, xã hội nhìn nhận về nhiếp ảnh cũng thay đổi. Theo đó, nhiếp ảnh được nâng tầm vị thế, đội ngũ cầm máy trở nên “có giá” hơn so với trước đây.

   * Vấn đề thứ tư: thúc đẩy từng bước xã hội hóa toàn diện nhiếp ảnh. Chủ trương xã hội hóa được triển khai trong hoạt động nhiếp ảnh khoảng gần 10 năm nay và đang phát huy tác dụng rõ rệt. Trong thực tế, có thể nói nhiếp ảnh là một trong những loại hình nghệ thuật được xã hội hóa triệt để nhất. Đặc biệt khi bản thân người cầm máy phải tự bỏ tiền đầu tư mua sắm trang bị máy móc để hành nghề với số tiền đầu tư có giá trị từ vài chục đến hàng trăm triệu đồng. Ngoài ra, chi phí dành cho hoạt động tác nghiệp như đi lại, sinh hoạt cũng rất lớn. Chính vì vậy, với những người hoạt động nhiếp ảnh, yêu cầu xã hội hóa không phải là điều mới mẻ mà đó là yêu cầu tất yếu có tính nghề nghiệp của loại hình nghệ thuật này. Tuy nhiên, với năng lực tài chính cá nhân có hạn, người cầm máy chỉ có thể thực hiện những dự án cá nhân, những dự án nhỏ chứ không thể tiếp cận những đề tài lớn. Trong thực tế, quan trọng hơn tài chính lại là đề tài sáng tác. Khi thực hiện những đề tài lớn cấp ngành, các công trình quốc gia hoặc những đề tài khó tiếp cận như quân đội, biển đảo, biên giới, doanh nghiệp, người cầm máy rất cần sự hỗ trợ, cho phép của các cấp có thẩm quyền. Chính vì vậy, chỉ khi được tham gia những đề tài được xã hội hóa với quy mô lớn, đội ngũ cầm máy mới có thể phát huy được tối đa năng lực bản thân để sáng tạo ra những tác phẩm có giá trị. Với tài năng cá nhân cộng với sự tạo điều kiện, hỗ trợ, cho phép của tổ chức, doanh nghiệp, sản phẩm hình ảnh sẽ có giá trị và ở tầm cao hơn. Về phía người cầm máy, xã hội hóa sẽ góp phần quan trọng nâng tầm cho họ. Về phía các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, nhiếp ảnh sẽ giúp các đơn vị có những bộ hình ảnh có giá trị nghệ thuật, mang lại giá trị kinh tế cao. Theo thời gian, hình ảnh sẽ mang thêm tính lịch sử trong quá trình hoạt động của đơn vị.

   Xã hội hóa giúp giảm bớt ngân sách nhà nước chi cho hoạt động văn hóa, văn nghệ. Hơn thế nữa, nó tạo thêm nguồn thu từ văn hóa, văn nghệ, trong đó có nhiếp ảnh, đóng góp cho nhà nước. Xã hội hóa hướng nhiếp ảnh phục vụ nền kinh tế xã hội có “địa chỉ” cụ thể hơn và nhiếp ảnh được “nuôi” bằng nguồn tiền tự đầu tư lớn của doanh nghiệp. Qua đó, gắn kết chặt chẽ hơn quan hệ giữa nhiếp ảnh với kinh tế, an ninh - quốc phòng, đồng thời tạo thêm cơ hội cho đội ngũ người cầm máy phát triển cả về con người và nghề nghiệp.

   * Vấn đề thứ năm: xây dựng và thúc đẩy công nghiệp nhiếp ảnh – một phần của công nghiệp văn hóa. Kể từ khi ra đời, nhiếp ảnh vốn là một loại hình nghệ thuật hoàn toàn mang tính cá nhân, nôm na có thể ví hoạt động nhiếp ảnh như người nông dân canh tác cấy cày, trồng trọt trên mảnh đất của riêng gia đình mình, trong khi đó xu hướng xã hội hướng tới làm ăn tập thể, tiến lên công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Trong hoàn cảnh đó, cách mạng công nghiệp lần thứ tư mà trực tiếp là công nghệ kỹ thuật số đang tạo điều kiện cho nhiếp ảnh từng bước hiện đại hóa, xã hội hóa. Đội ngũ người cầm máy trên nền tảng công nghệ kỹ thuật số được xã hội hóa hỗ trợ sẽ thúc đẩy môi trường phát triển nhiếp ảnh và hình thành thị trường nhiếp ảnh, xây dựng nên nền công nghiệp nhiếp ảnh. Vấn đề ở đây là cần tập hợp, kết nối các yếu tố, tạo nên sức mạnh cho một nền công nghiệp.

   * Vấn đề thứ sáu: thay đổi tư duy quản lý và cần tái cấu trúc các tổ chức nhiếp ảnh. Trong mấy chục năm qua, dưới tác động to lớn của khoa học kỹ thuật, với chủ trương của Đảng và Nhà nước hướng văn học, nghệ thuật tới công nghiệp văn hóa, nhiếp ảnh phải chăng được xem xét điều chỉnh bộ máy quản lý và tổ chức theo hướng sau:

   - Bổ sung chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý, tổ chức nhiếp ảnh. Nếu như trước đây nhiếp ảnh được coi là một loại hình hoạt động nghệ thuật đơn thuần thì nay, ngoài nghệ thuật, nhiếp ảnh còn có thêm chức năng là một ngành kinh tế văn hóa. Nhiếp ảnh sẽ từng bước hạn chế sử dụng ngân sách, tiến tới đóng góp cho nền kinh tế đất nước. Chính vì vậy, trong tư duy lãnh đạo, quản lý của các tổ chức nhiếp ảnh cần quan tâm đến nhiệm vụ làm kinh tế. Việc đóng góp cho ngân sách có thể được lấy từ hoạt động xã hội hóa, từ các loại hình thuế doanh nghiệp, thuế cá nhân, từ hoạt động kinh doanh ngành ảnh thực hiện tại các trung tâm dữ liệu hình ảnh, trong đó chủ yếu là mua bán, sử dụng hình ảnh, trong các hoạt động báo chí, truyền thông, tạo dựng các sản phẩm phim ảnh hay trong đời sống cộng đồng trong xã hội.

   - Tái cấu trúc tổ chức nhiếp ảnh các cấp. Thêm chức năng nhiệm vụ, các tổ chức nhiếp ảnh cần được tái cấu trúc, tăng cường bổ sung nhân sự có trình độ kỹ thuật công nghệ và khả năng làm kinh tế. Trong đó, hoạt động nghiên cứu phát triển (R&D) cần được ưu tiên tăng cường. Cho đến nay, các tổ chức nhiếp ảnh của ta không có hoạt động R&D. Hoạt động nhiếp ảnh từ trước đến nay chỉ sử dụng công nghệ kỹ thuật được nước ngoài cung cấp và thực hiện khai thác sử dụng không có sáng tạo công nghệ kỹ thuật nào đáng kể, chưa nói đến sản xuất ra các sản phẩm công nghiệp hay phần mềm ứng dụng. Không có hoạt động R&D thì không thể tiến tới một nền công nghiệp. Ngoài ra, các hội nhiếp ảnh dù ở trung ương hay địa phương đều chưa có chức năng và chưa có bộ máy làm kinh tế. Thiếu hoạt động kinh tế chuyên nghiệp, nhiếp ảnh không thể vươn tới một nền công nghiệp. Như vậy, cấu trúc bộ máy của các tổ chức nhiếp ảnh, loại hình hội chuyên ngành như hiện tại có thể nói không còn phù hợp mà cần được thay đổi, bổ sung cả chức năng, nhiệm vụ và tổ chức nhân sự. Song song với đó, cần thay đổi cơ chế hoạt động thông qua xã hội hóa toàn diện hoạt động nhiếp ảnh bằng cách các tổ chức từng bước tự nuôi sống bộ máy của mình.

   - Tinh gọn tổ chức, tránh trùng lặp giữa hội trung ương và địa phương. Hiện nay, tổ chức nhiếp ảnh cấp trung ương là Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam và các tỉnh/ thành phố lớn có Hội Nhiếp ảnh trực thuộc tỉnh/ thành phố. Trong thực tế, các hội viên Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam nhìn chung có trình độ chuyên môn, đạt nhiều thành tích sáng tác và tuổi đời hoạt động nghề nghiệp cao hơn so với hội viên các hội địa phương. Hiện nay theo quy chế chung, tất cả hội viên hội trung ương đồng thời phải là hội viên của hội địa phương. Trong khi đó, điều lệ hoạt động cũng như tính chất sinh hoạt của hai hội tương tự nhau, chỉ khác nhau chủ yếu ở trình độ và thành tích sáng tác của hội viên. Do vậy, có một vấn đề nảy sinh, đó là trong quá trình sáng tác của một nghệ sĩ đồng thời là hội viên cấp trung ương và địa phương thì không thể phân định tác phẩm nào sẽ “tính” cho hội nào. Từ đó thành tích sáng tác, một tác phẩm thông thường được báo cáo ở cả hai cấp trung ương và địa phương, dẫn đến thành tích của một cá nhân được tính cho cả hai hội. Cách tính như vậy không chính xác vì thành tích sẽ được nhân đôi, nhiều thành tích sẽ là “ảo”. Vấn đề đặt ra là nếu đã có chi hội nhiếp ảnh trung ương tại tỉnh/ thành phố thì có nhất thiết phải có thêm hội nhiếp ảnh thuộc tỉnh/ thành phố? Hay các tỉnh/ thành phố chỉ cần có chi hội nhiếp ảnh trung ương tại địa phương là đủ khi người cầm máy dù thuộc trung ương hay địa phương cũng chỉ là một. Các công việc như tổ chức sáng tác, đào tạo, phát triển đội ngũ nhiếp ảnh, chi hội trung ương thường làm tốt hơn so với hội địa phương cấp tỉnh/ thành phố. Còn việc phối hợp giữa chi hội nhiếp ảnh trung ương với chính quyền tỉnh/ thành phố thì không có trở ngại gì. Phải chăng vai trò của các hội nhiếp ảnh địa phương cấp tỉnh/ thành phố cần và nên được xem xét?

   2. Định hướng phát triển nhiếp ảnh

   Dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư mà trực tiếp là công nghệ kỹ thuật số và yêu cầu phát triển công nghiệp văn hóa, trên cơ sở những vấn đề đặt ra nêu trên, xin được đề xuất một số định hướng phát triển nhiếp ảnh như sau:

   * Phát huy thành quả 50 năm, nhiếp ảnh cần chuẩn bị bước sang giai đoạn phát triển mang tính “cách mạng” về tầm, quy mô và giá trị. Trước hết, những thành quả và giá trị của nhiếp ảnh đạt được sau 50 năm là thực sự to lớn, cần phát huy. Chưa bao giờ nhiếp ảnh có quy mô phát triển rộng khắp như hiện nay và đội ngũ những người hoạt động nhiếp ảnh đang hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Với đội ngũ sáng tác đông đảo, có ý thức chính trị, xã hội, khả năng sáng tạo nghệ thuật cao cùng trình độ kỹ thuật nhạy bén, nhiếp ảnh đang trong tâm thế sẵn sàng tiếp thu nền tảng công nghệ được nhà nước đầu tư hướng về công nghiệp nhiếp ảnh. Dưới tác động của khoa học kỹ thuật cùng với yêu cầu của đất nước đòi hỏi nhiếp ảnh phải lớn mạnh về mọi mặt, đặc biệt về tầm, quy mô và giá trị kinh tế trong cuộc cách mạng văn hóa.

   * Tổ chức, vận hành hoạt động nhiếp ảnh với yêu cầu tinh gọn, quản lý, điều hành hiệu quả về kinh tế, nâng cao về công nghệ kỹ thuật, sáng tạo về nghệ thuật. Về tổ chức bộ máy điều hành tại trung ương, phải chăng cần xem xét việc chuyển hình thái quản lý hành chính sự nghiệp như hiện nay sang mô hình tổ chức doanh nghiệp - sự nghiệp, đó là dạng một công ty kinh tế văn hóa nhiếp ảnh Việt Nam hoặc nếu giữ nguyên các hội chuyên ngành như hiện nay thì cần bổ sung nhiệm vụ dạng hội kinh tế nghệ thuật nhiếp ảnh Việt Nam, trong hội có thể có công ty trực thuộc. Mục tiêu chính của việc chuyển đổi này là hướng tới công nghiệp văn hóa, mà cụ thể là quản lý công nghiệp nhiếp ảnh. Tại địa phương cấp tỉnh/ thành phố có thể thành lập chi nhánh công ty hay vẫn giữ chi hội như cũ.

   * Chú trọng bảo tồn những đặc tính bản chất cốt lõi của nhiếp ảnh. Trong giai đoạn tới, dưới tác động của cách mạng công nghiệp và những xu hướng xã hội, những đặc tính bản chất cốt lõi của nhiếp ảnh rất dễ bị biến dạng, đặc biệt là tính chân thực của nhiếp ảnh. Một trong những lý do dẫn đến hiện tượng này là do không ít người hiểu sai hay đề cao quá mức nghệ thuật thông qua việc lạm dụng các phần mềm xử lý, dẫn đến làm sai lệch tính chân thực của nhiếp ảnh. Do vậy, trong định hướng phát triển nhiếp ảnh, cần chú trọng bảo tồn tính chân thực, tính lịch sử của hình ảnh.

   * Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa nhiếp ảnh. Đây là chủ trương lớn của nhà nước nhưng cũng là biện pháp quan trọng từng bước xây dựng và mở rộng môi trường nhiếp ảnh. Nhiếp ảnh muốn “đứng vững” trong nền công nghiệp, phải có môi trường và cả thị trường để kinh doanh tiêu thụ sản phẩm ảnh. Một tác dụng khác, khi được xã hội hóa rộng khắp, vai trò của nhiếp ảnh sẽ được đề cao và thu hút thêm nhiều người tham gia hoạt động nhiếp ảnh. Đội ngũ người cầm máy nhờ đó càng thêm đông đảo, trình độ ngày càng được nâng cao. Đó là quan hệ tương hỗ giữa chủ trương chính sách và cộng đồng nghề nghiệp.

   * Xây dựng và từng bước triển khai thực hiện đề án công nghiệp nhiếp ảnh. Năm 1953, doanh nghiệp quốc doanh chiếu bóng và chụp ảnh được thành lập. Vậy nhưng từ đó đến nay, nhiếp ảnh chưa từng có quy mô tập thể đủ lớn mang tính công nghiệp đúng nghĩa. Tuy nhiên, hiện nay khi hạ tầng nền tảng kỹ thuật công nghệ trong cả nước đã cho phép, theo chủ trương của nhà nước, nhiếp ảnh phải vươn tầm đạt tới quy mô công nghiệp, kể cả trong tương lai phải ngang tầm quốc tế.

   Đây là vấn đề mới đối với nhiếp ảnh khi phải tập hợp, kết nối đội ngũ những người cầm máy xưa nay vốn hoạt động hoàn toàn cá nhân vào trong một hoạt động mang tính công nghiệp thực thụ. Do vậy, cơ quan quản lý ngành nhiếp ảnh cần xây dựng đề án công nghiệp nhiếp ảnh. Theo người viết, đề án phải dựa vào nền tảng công nghệ kỹ thuật đã được nhà nước đầu tư và xây dựng theo nguyên tắc: xử lý công nghiệp sản phẩm ảnh được lưu giữ tại các trung tâm dữ liệu mà không tập trung cơ học đội ngũ những người cầm máy, công tác sáng tác nghệ thuật vẫn là hoạt động sáng tạo cá nhân. Điều quan trọng nhất cần đạt tới ở đây là song song với nền công nghiệp, phải tạo dựng được thị trường hình ảnh. Trong thực tế, thị trường hình ảnh sẽ hình thành tại các trung tâm dữ liệu, kết nối thông qua mạng internet.

   Trong quá trình thực hiện đề án công nghiệp nhiếp ảnh, cần chú ý thu hút đầu tư nước ngoài trong sản xuất phát triển cả phần cứng lẫn phần mềm cũng như công nghệ khai thác ứng dụng, đặc biệt là AI trong nhiếp ảnh. Khi làm chủ được công nghệ chế tạo cả phần cứng và phần mềm thì dù chỉ với tỉ lệ chưa cao nhưng cũng sẽ làm cho nhiếp ảnh Việt Nam có được chỗ đứng trong bản đồ công nghiệp nhiếp ảnh thế giới.

   Để xây dựng đề án công nghiệp nhiếp ảnh, ta cần nghiên cứu tham khảo kinh nghiệm xây dựng mô hình của các nước có nền công nghiệp văn hóa phát triển, trong đó có nhiếp ảnh. Một trong những khó khăn lớn nhất trong việc tạo dựng nền công nghiệp là thiết lập kho dữ liệu “nguyên liệu” dồi dào đầu vào cho dây chuyền công nghiệp xử lý hình ảnh. Đó là hình ảnh dữ liệu từ các nguồn lưu trữ quốc gia, kho ảnh lưu trữ cá nhân, ảnh sáng tác của những người cầm máy được cập nhật hiện nay. Riêng các thuật toán xử lý hình ảnh với mục đích kinh doanh đã được xây dựng, vận hành trên thế giới từ lâu và không đáng ngại.

   * Tạo dựng môi trường sinh thái và thị trường nhiếp ảnh. Hiện nay, nhà nước đang xây dựng hạ tầng kỹ thuật số cho nền kinh tế xã hội cả nước. Đó là hệ thống internet băng thông rộng tốc độ cao, Trung tâm Dữ liệu (Big Data) quốc gia dự kiến tháng 8/2025 sẽ đi vào hoạt động, AI… Đó là nền tảng công nghệ kỹ thuật số quan trọng của của hệ sinh thái chung cả nước mà nhiếp ảnh sẽ được khai thác, sử dụng. Ngoài nền tảng công nghệ kỹ thuật số kể trên, môi trường và thị trường văn hóa chung còn bao gồm các tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp trong cả nước và khách hàng nước ngoài khắp toàn cầu. Với nền tảng hạ tầng kỹ thuật hiện đại ngang tầm thế giới đang dần được hoàn thiện, vấn đề quan trọng nhất là cần phát triển đội ngũ cầm máy sáng tạo và bộ máy khai thác hiệu quả dữ liệu ảnh. Xây dựng môi trường sinh thái nhiếp ảnh là việc cần đầu tư lớn cả về trang bị kỹ thuật và con người nhưng việc xây dựng thị trường mang lại lợi ích an ninh và kinh tế cao còn khó hơn. Trong thực tế, môi trường và thị trường nhiếp ảnh gắn bó mật thiết, tác dụng tương hỗ với nhau, dựa vào nhau và thúc đẩy lẫn nhau. Trong đó, thị trường mang tính quyết định thúc đẩy môi trường phát triển nhưng ở chiều ngược lại, môi trường phát triển sẽ tạo điều kiện cho thị trường lớn mạnh và hoạt động hiệu quả hơn.

   * Cần có chiến lược mở rộng quy mô và nâng ảnh hưởng nhiếp ảnh Việt Nam ở tầm quốc tế. Khi phát triển nhiếp ảnh theo hướng công nghiệp, một trong những vấn đề mấu chốt là nhiếp ảnh Việt Nam phải mở rộng và mang tầm quốc tế. Trong thời đại mạng internet toàn cầu, việc trao đổi thông tin, kinh doanh hình ảnh trên toàn cầu là việc tất nhiên cần làm thông qua việc mở rộng môi trường và thị trường hình ảnh. Tất cả những hoạt động này đòi hỏi một bộ máy điều hành và vận hành thực sự chuyên nghiệp. Trong đó, thị trường nước ngoài là đặc biệt quan trọng và cần đầu tư những hình ảnh mang tính độc đáo, khác lạ, đặc biệt với người nước ngoài. Để xây dựng môi trường sinh thái và thị trường ảnh trên thị trường quốc tế, nhiếp ảnh Việt Nam cần phát triển công nghệ, đặc biệt quan tâm tới hoạt động chống nạn xâm phạm bản quyền. Không xa nữa, chỉ khoảng 3-5 năm tới, hạ tầng công nghệ kỹ thuật của Việt Nam sẽ rất hoàn thiện và hiện đại. Vấn đề là các ngành kinh tế, văn hóa, trong đó có nhiếp ảnh cần khai thác hiệu quả hạ tầng công nghệ kỹ thuật nhà nước đầu tư. Cùng với đó, những biện pháp chống nạn xâm phạm bản quyền cần thực thi toàn diện, đặc biệt khi AI sẽ được sử dụng rộng rãi với kỹ thuật rất cao. Công nghiệp nhiếp ảnh có tồn tại và phát triển hay không là nhờ những biện pháp này.

   * Tăng cường tiếp thu, vận dụng và tận dụng tối đa tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ trong hoạt động nhiếp ảnh. Nhiếp ảnh là sự kết hợp hài hòa giữa kỹ thuật công nghệ và sáng tạo nghệ thuật. Ai làm chủ được khoa học kỹ thuật công nghệ sẽ làm chủ được một nửa (tạm tính) quá trình tạo ra sản phẩm ảnh. Không chỉ có vậy, tiến hành xây dựng môi trường, tạo lập thị trường và thực hiện công nghiệp nhiếp ảnh đòi hỏi đội ngũ cán bộ kỹ thuật có trình độ cao. Ngay trong đời sống hằng ngày của nhiếp ảnh, số lượng hình ảnh hằng ngày ra đời rất lớn. Mỗi cuộc thi ảnh nghệ thuật có hàng ngàn, hàng chục ngàn ảnh tham gia. Việc chọn lọc, phân loại hình ảnh với số lượng cực lớn như vậy đòi hỏi phải sử dụng công nghệ kỹ thuật cao và có thể là AI.

   Nhiếp ảnh là một loại hình nghệ thuật nhưng đồng thời mang tính thông tin rất cao, ngày càng được chú trọng khai thác sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế xã hội thời đại kỹ thuật số. Do vậy, ngoài chức năng báo chí tuyên truyền, nhiếp ảnh hiện nay cần có cách nhìn mới và khác, khoa học hơn, kinh tế hơn và cũng cần nghệ thuật hơn. Sự phát triển của nhiếp ảnh hiện nay cũng sẽ đòi hỏi các cấp quản lý và đội ngũ người cầm máy cần thay đổi tư duy, nâng cao trình độ về nhiều mặt, cả về kinh tế và khoa học kỹ thuật. Tất cả những điều này sẽ mang lại những cơ hội có tính “cách mạng” cho nhiếp ảnh phát triển vượt bậc, mang lại những cơ hội chưa từng có kể từ khi nhiếp ảnh ra đời.

Bình luận

    Chưa có bình luận