LÝ LUẬN, PHÊ BÌNH VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT TỪ 1975 ĐẾN NAY: KẾ THỪA VÀ TIẾP BIẾN

Bài viết phân tích thành tựu lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật từ 1975 đến nay vừa có sự kế thừa đường lối văn nghệ cách mạng vừa tiếp biến lý thuyết hiện đại trên thế giới. Qua đó khẳng định dù có sự đổi mới, cách tân trong quan điểm tiếp cận và nguyên tắc thẩm mĩ nhưng nền tảng tư tưởng của nền lý luận, phê bình Việt Nam vẫn nhất quán với mục tiêu xây dựng một nền văn học, nghệ thuật lấy việc phụng sự đất nước, dân tộc là mục tiêu tối thượng.

   Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã kết thúc trạng thái thời chiến của đất nước, một dải non sông thống nhất trở về trạng thái thời bình. Trên hành trình tái thiết đất nước 50 năm qua, phải kể tới sự kiện đặc biệt là đất nước đã chọn hướng “hội nhập” với thế giới để phát triển. Đại hội Đảng VI năm 1986 đặt dấu mốc cho sự kiện đặc biệt này. Đời sống văn học, nghệ thuật Việt Nam, theo đó, có những thay đổi ngoạn mục. Lý luận, phê bình, một bộ phận của nền văn học Việt Nam, cũng có tiền đề để phát triển đột phá. Tuy nhiên, đánh giá hoạt động của lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật 50 năm qua, có thể nhận thấy dù có những đổi mới, cách tân trong quan điểm tiếp cận và nguyên tắc thẩm mĩ nhưng nền tảng tư tưởng của nền lý luận, phê bình Việt Nam vẫn nhất quán với mục tiêu chính trị: xây dựng một nền văn học, nghệ thuật lấy việc phụng sự đất nước, dân tộc là mục tiêu tối thượng.

   1. Lý luận, phê bình kế thừa và tiếp tục đường lối văn nghệ cách mạng

   Sau Cách mạng Tháng Tám, nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã xây dựng một nền văn nghệ cách mạng. Nền văn nghệ ấy lấy chủ nghĩa Marx - Lenin làm kim chỉ nam để xây dựng nguyên tắc sáng tác. Một trong những yếu tố nền tảng của nguyên tắc sáng tác này là: văn học đứng trong chính trị và phục vụ lợi ích cách mạng. Từ 1954 đến 1975, đất nước bị chia cắt thành hai miền, có tới 20 năm hai miền Bắc - Nam có hai nền văn học, nghệ thuật xây dựng trên hai nền tảng tư tưởng khác nhau. Tuy nhiên, sau 20 năm, đất nước đã quy về một mối, văn học, nghệ thuật cách mạng tiếp tục dẫn dắt đời sống tinh thần của dân tộc. Như vậy, sau 1975, quan điểm “văn nghệ phục vụ lợi ích của đất nước, nhân dân”, “đậm đà tính dân tộc” vẫn là tiêu chí được đặt lên hàng đầu.

   Mục tiêu “văn nghệ phục vụ cách mạng” khiến văn nghệ Việt Nam đã chọn phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa làm “phương pháp sáng tác tốt nhất”. Phương pháp này hình thành từ Liên Xô những năm 60 của thế kỷ trước và trở thành phương pháp sáng tác chủ yếu trong cộng đồng các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa hướng tới xây dựng “cái mới - điển hình xã hội chủ nghĩa” làm hình mẫu thẩm mĩ để dẫn dắt mục tiêu lý tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội. “Điển hình xã hội chủ nghĩa” là cảm hứng lãng mạn cách mạng từng giúp dân tộc ta vượt qua những năm tháng khó khăn ác liệt nhất của chiến tranh. Suốt ba mươi năm, lý tưởng thẩm mĩ ấy đã trở thành nếp nghĩ, nếp cảm, hình thành nên thế giới quan, nhân sinh quan của nhiều thế hệ. Người Việt Nam đã quá quen với một nền văn nghệ được hình thành từ nguyên tắc sáng tác ấy. 

   Sau 1975, tuy cuộc sống đời thường trở lại, nhu cầu cá nhân lên ngôi, có thêm sự tác động từ những tư tưởng thẩm mĩ của các nền văn nghệ nước ngoài, đặc biệt là phương Tây, đời sống văn nghệ Việt Nam có những thay đổi đáng kể nhưng không dễ thay đổi tập quán nhận thức đã trở thành nền móng tư tưởng mấy chục năm, nhất là khi lực lượng sáng tác và độc giả của thời ấy vẫn đang tiếp tục đồng hành cùng với đời sống văn nghệ nước nhà. Thêm nữa, định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội vẫn là mục tiêu, lý tưởng trong đường lối chỉ đạo văn hóa, văn nghệ của Đảng. Từ 1986 đến nay, qua tám kỳ đại hội, trong chỉ đạo của Đảng về văn hóa, văn nghệ, vấn đề “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” vẫn tựa vào tư tưởng cốt lõi: “phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam” để “xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế”1. Từ sự chỉ đạo trên, nền văn nghệ Việt Nam 50 năm qua vẫn có những biểu hiện sau: Thứ nhất, vẫn ưu tiên phản ánh những vấn đề thời sự của đất nước. Đây vẫn là nhiệm vụ trọng trách của văn nghệ. Những cuộc thi văn học, nghệ thuật được phát động nhân các sự kiện chính trị - xã hội, các ngày kỷ niệm truyền thống từ lịch sử đến các ban, ngành… luôn diễn ra hàng năm với mật độ thường xuyên. Viết về những chủ đề này, đối tượng sự kiện luôn là “nhân vật trung tâm” của thời cuộc, vì vậy, phần lớn các bút pháp quen thuộc từng thấy, như: sử thi, hiện thực, hiện thực phê phán, hiện thực xã hội chủ nghĩa, lãng mạn cách mạng hoặc kết hợp các bút pháp ấy với nhau vẫn là những bút pháp chính kiến tạo nên tác phẩm. Các nhà phê bình để “giải mã” tác phẩm cũng sẽ vận dụng lý thuyết của các phương pháp ấy trong quá trình tiếp cận và phân tích, đánh giá. Ở phương diện tư tưởng cũng vậy, chủ nghĩa anh hùng cách mạng với phẩm chất đạo đức cao cả, chủ nghĩa yêu nước gắn với phẩm chất xả thân, tinh thần dũng cảm, lạc quan, lý tưởng cách mạng vẫn là tư tưởng trung tâm được khẳng định và đề cao trong các tác phẩm.

   Như vậy, về mặt lý thuyết, lý luận, để đánh giá những cống hiến của nền văn học, nghệ thuật Việt Nam 50 năm, không thể không vận dụng hệ thống quan điểm lý luận, lý thuyết gắn với chủ nghĩa Marx - Lenin về văn học, nghệ thuật làm thước đo thẩm mĩ đã và đang đồng hành trong đời sống của nền văn học, nghệ thuật nước nhà.

   2. Lý luận, phê bình tiếp biến lý thuyết hiện đại trên thế giới

   Tuy nhiên, công cuộc hội nhập thế giới sâu rộng, toàn diện khiến văn học, nghệ thuật Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc. Vì vậy, cuộc giao lưu, du nhập văn hóa, văn học, nghệ thuật từ các nước không cùng hệ thống chính trị (phương Tây) không hề gây sốc, xung đột mà ngược lại, có sự tiếp biến lặng lẽ và hiệu quả.

   Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) xác định phương hướng chung của sự nghiệp văn hoá nước ta gắn với công cuộc đổi mới là “phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Như vậy, văn học – bộ phận cốt lõi của văn hóa cũng phải gắn với mục tiêu ấy. Nền văn nghệ “tiên tiến” không thể là nền văn nghệ mình sáng tác cho mình thưởng thức mà còn phải hướng đến nhân loại, tham gia vào hành trình phát triển văn chương nhân loại. Song, hội nhập mà không “hòa tan”, nền văn nghệ tiên tiến ấy cần “đậm đà bản sắc dân tộc”. Một vấn đề đặt ra là “bản sắc dân tộc” là thế nào, tiêu chí của đặc trưng ấy, đó là chuyện của nội dung hay hình thức? Đây chính là nhiệm vụ của lý luận và phê bình. Lý luận phải mã hóa được những yêu cầu ấy, xây dựng thành hệ thống tiêu chí thẩm mĩ làm cơ sở, thước đo định giá các sản phẩm văn hóa, văn chương.

   Quan sát trên thực tế diện mạo nền văn nghệ Việt Nam 50 qua, không tránh khỏi ngỡ ngàng trước những đột phá mạnh mẽ trong thi pháp sáng tạo. Cả ở lực lượng sáng tác lẫn giới nghiên cứu đều hội nhập mạnh mẽ về hướng đổi mới. Lý luận, phê bình không còn đi sau sáng tác mà đã song hành, thậm chí đi trước trong vấn đề dịch thuật, giới thiệu các xu hướng lý thuyết mới, chủ động đưa luồng gió đổi mới trong quan niệm nghệ thuật với những quan điểm thẩm mĩ mới về Việt Nam. Có thể nhận thấy không khí “vào cuộc” tiếp nhận luồng gió đổi mới trong các hướng sau:

   Thứ nhất, bên cạnh sự hào hứng của giới sáng tác là sự hào hứng của giới nghiên cứu. Cả những thế hệ trước và lớp trẻ đều xông xáo trong việc dịch thuật, giới thiệu lý thuyết, lý luận, tác phẩm hiện đại phương Tây. Sự nỗ lực này dẫn đến kết quả là hầu như tất cả các hệ thống lý luận văn nghệ hiện đại nhất của phương Tây ở thế kỷ XX đã hiện diện ở Việt Nam, như: phân tâm học, nữ quyền luận, phê bình sinh thái, chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa hậu hiện đại2… Một số thi pháp cũ xuất hiện trở lại nhưng trong một diện mạo mới, cấu trúc mới, như: huyền thoại hóa, giả cổ tích, sử thi hiện đại… Từ dịch thuật, các kênh hội thảo tầm quốc gia và quốc tế liên tiếp được tổ chức, khách mời và đối tượng quan tâm là giới nghiên cứu, sáng tác, học viên, sinh viên các trường đại học, viện nghiên cứu. Từ đây, những thẩm thấu bắt đầu lan tỏa và phát huy. Xu hướng tiếp cận nghiên cứu tác phẩm của Việt Nam thông qua lý thuyết mới được ứng dụng triển khai sôi nổi khiến đời sống nghiên cứu cũng trở nên sinh động, đa dạng và tươi mới hơn. Sự vào cuộc này đã kích hoạt giới sáng tác. Những cây bút tài năng từ chỗ thử nghiệm đã phát hiện được năng lực, cá tính sáng tạo và dần khẳng định chỗ đứng trong tâm trí người đọc. Ở lĩnh vực văn chương phải nhắc tới các trường hợp: Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bình Phương (văn xuôi); Nguyễn Quang Thiều, Inrasara, Nguyễn Bình Phương, Mai Văn Phấn (thơ). Tuy chưa tạo được cao trào trong cách tân thể loại như hiện tượng Tự lực văn đoàn (văn xuôi) và Thơ mới đầu thế kỷ XX, song, sức ảnh hưởng và sự lan tỏa thì rộng rãi hơn rất nhiều. Điều này có lý do từ cả khách quan lẫn chủ quan. Về khách quan, đó là sự thôi thúc từ phía độc giả: độc giả ở cuối thế kỷ XX đã khác xa với độc giả ở đầu thế kỷ, không chỉ đông hơn mà tầm nhận thức và nhu cầu đã ở một tầm mới, cá nhân hơn, sắc sảo hơn. Về chủ quan, đó là sự thôi thúc của chính người sáng tác không muốn bị rớt lại, không muốn bị độc giả quay lưng hoặc lãng quên, muốn khẳng định năng lực sáng tạo và nhiều khi muốn thử thách chính mình. Mặc dù vậy, có thể nhận thấy, nếu không trang bị một cách đọc mới sẽ xảy ra xung đột giữa cách viết và tiếp nhận. Lực lượng phê bình giờ đây đã rất đông, góp phần “giải quyết” khâu nan giải này. Các công trình nghiên cứu, các bài viết thẩm bình, nhận xét, đánh giá tác phẩm và việc vận dụng nguyên tắc thẩm mĩ trong các tác phẩm chính là những gợi ý về cách đọc, cách tiếp cận tác phẩm với độc giả.

   Cuối cùng, cần phải nói tới chức năng của tổ chức có nhiệm vụ định hướng, dẫn dắt hoạt động nghiên cứu, phê bình lẫn sáng tác là Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương, nay là Tiểu ban Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật - Hội đồng Lý luận Trung ương, hằng năm vẫn tổ chức những hội nghị tập huấn, hội thảo khoa học về lý thuyết và thực tiễn của lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật đương đại. Qua những chủ đề, đề tài tập huấn, hội thảo, không chỉ quan điểm, đường lối của Đảng về văn học, nghệ thuật được thảo luận và khẳng định mà những nguyên tắc thẩm mĩ của những lý thuyết mới cũng được bàn luận, soi chiếu ở những góc độ khác nhau, những điểm phù hợp và khác biệt, những giá trị và khuyến cáo được đem ra phân tích, trao đổi, đánh giá; một số tác phẩm tạo ra dư luận trái chiều được đem ra phân tích, nhận xét, đánh giá trên những quan điểm độc lập để rồi nhận ra các xu hướng tiếp nhận từ độc giả, từ đó có những điều chỉnh trong định hướng sáng tạo và tiếp nhận văn học, nghệ thuật. Có thể nói, không khí dân chủ trong đánh giá, tiếp nhận văn học, nghệ thuật diễn ra mấy chục qua đã tạo nên bầu khí quyển tươi mới trong đời sống văn học, nghệ thuật nước nhà.

   Trong 50 năm qua, ta đã xây dựng được tâm thế và tầm vóc mới về mọi phương diện. Ở lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ thuật, với sự vươn mình mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu tinh thần của độc giả cả nước cho thấy nỗ lực của lực lượng sáng tác và nghiên cứu, phê bình nói chung. Song, sơ đồ của sự đáp ứng này trong 50 năm không phải chặng nào cũng đi lên. Theo dõi diễn biến hành trình ấy của đời sống văn học, nghệ thuật nước nhà, dường như vẫn thiếu một cơ sở nền tảng tạo sức mạnh đột phá ổn định hơn, mạnh mẽ hơn, bởi từng có đột phá như sóng lừng vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước nhưng hiện tại thì êm đềm lặng lẽ như mặt hồ sang thu.

 

 

 

Tài liệu tham khảo:
1. Hội Nhà văn Việt Nam (2015), Tuyển tập lý luận, phê bình văn học Việt Nam 1945-2015, NXB Hội Nhà văn.
2. Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương (2019), Quá trình xã hội hóa các hoạt động văn học, nghệ thuật ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
3. Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương (2020), Phê bình văn học, nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và phát triển, NXB Chính trị quốc gia Sự thật.

Chú thích:
1 Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.
2 Lã Nguyên có bài viết “Sự tiếp nhận các lý thuyết văn nghệ hiện đại phương Tây từ 1986 đến nay”, đăng trên languyensp.wordpress.com, ngày 29/01/2016.

Bình luận

    Chưa có bình luận