MỘT PHÁC THẢO ÂM NHẠC VIỆT NAM 50 NĂM SAU NGÀY ĐẤT NƯỚC THỐNG NHẤT

Bài viết phác thảo bức tranh đa sắc, nhộn nhịp, muôn vẻ của âm nhạc Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước thống nhất ở ba dòng nhạc: âm nhạc truyền thống dân tộc, âm nhạc giao hưởng - thính phòng và âm nhạc đại chúng. Qua đó khẳng định âm nhạc Việt Nam có sự đông đảo về đội ngũ, số lượng tác phẩm; sự đa dạng của thể loại và chất lượng nghệ thuật ngày một nâng lên.

   Sau ngày 30/4/1975, đất nước bước vào kỷ nguyên độc lập, thống nhất và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kể từ đây, sự phát triển của nền âm nhạc Việt Nam diễn ra trong bối cảnh mới, chuyển từ nền âm nhạc thời chiến sang thời bình. Sự hòa nhập - thống nhất về đội ngũ cũng như tư duy, tư tưởng thẩm mĩ trong nhạc giới và kể cả sự giao lưu, tiếp thu âm nhạc nước ngoài cũng trở nên đa chiều, đa phương, không chỉ với hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa như trước, ngày càng dễ dàng, nhanh chóng, đã tạo nên những biến đổi trong sáng tạo ở hầu hết các lĩnh vực âm nhạc: sáng tác, biểu diễn, nghiên cứu, đào tạo… Nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng đất nước trong giai đoạn mới là nguồn cảm hứng cho nhiều sáng tạo âm nhạc, hơn nữa, sự phát triển nhanh chóng các mặt của đời sống, đặc biệt là lĩnh vực khoa học kỹ thuật cũng góp phần làm đa dạng và thay đổi phương pháp thể hiện ngay cả đối với những đề tài cũ. Cùng với đó, yêu cầu thay đổi không chỉ trong sáng tác mà còn ở hình thức biểu diễn do nhu cầu thưởng thức đa dạng hơn, cách nhìn nhận, đánh giá đã khác trước. Tất cả đã làm nên một dung mạo đa sắc màu của âm nhạc Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước thống nhất.

   Nhìn nhận, đánh giá giai đoạn âm nhạc sôi động 50 năm qua là một việc làm không dễ, tuy nhiên, rất cần thiết. Đây không chỉ là một phác họa hay đánh giá đơn giản về các lĩnh vực âm nhạc (sáng tác, biểu diễn, nghiên cứu, đào tạo…) của một giai đoạn, bởi nghiên cứu một loại hình nghệ thuật diễn ra trong một thời gian nhất định, 50 năm, không chỉ là những ghi nhận những thành tựu theo hướng lịch đại mà qua đó còn cho thấy sự phát triển đúng hướng của nền âm nhạc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhìn lại một giai đoạn âm nhạc còn là cách để nhận ra được những thuận lợi và thách thức cho sự phát triển âm nhạc Việt Nam trong tương lai.

   Đầu thế kỷ XX, nền âm nhạc Việt Nam tiếp nhận văn hóa âm nhạc phương Tây và hình thành tân nhạc (nhạc mới) với hình thức thể hiện trên 5 dòng kẻ… Từ đây, âm nhạc Việt Nam thể hiện rõ dòng âm nhạc dân tộc truyền thống và dòng âm nhạc mới. Sau 50 năm, dòng âm nhạc mới ngày càng thể hiện rõ sự phân tách thành dòng âm nhạc kinh viện (giao hưởng - thính phòng) và dòng âm nhạc đại chúng. Cho đến nay, ba dòng âm nhạc đó vẫn luôn tuôn chảy, góp phần phát triển âm nhạc Việt Nam.

   1. Âm nhạc truyền thống dân tộc

   Ngay từ năm 1943, Đề cương về văn hóa Việt Nam của Đảng đã thể hiện rõ quan điểm và định hướng về văn hóa nói chung và âm nhạc dân tộc truyền thống nói riêng. Trong suốt nhiều năm, dù trong chiến tranh hay xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước đã luôn quan tâm bảo tồn, phát triển âm nhạc dân tộc. Sau năm 1975, âm nhạc dân tộc càng được quan tâm đầu tư trên nhiều lĩnh vực và đạt nhiều thành quả: 

   Về sưu tầm, thu thập di sản âm nhạc: Cho đến nay, theo thống kê của Viện Âm nhạc (thuộc Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam), ngân hàng dữ liệu âm nhạc dân tộc nước ta đã thu thập hơn 20 nghìn bài dân ca, gần 10 nghìn bài dân nhạc của 54 dân tộc, 75 vở diễn sân khấu và diễn xướng dân gian do 1.848 nghệ nhân hát và đàn; trong đó, nhạc đàn có 803 thể loại, nhạc hát có 1.045 thể loại1… Trước đây, nếu việc sưu tầm, thu thập di sản âm nhạc chỉ tập trung ở các thể loại âm nhạc dân gian thì nay mở rộng trên hầu hết các thể loại, kể cả âm nhạc cung đình (triều Nguyễn) hay âm nhạc chuyên nghiệp (ca trù, hát bội…). Thành tựu của việc kiểm kê, sưu tầm, thu thập vốn quý âm nhạc của dân tộc; ghi danh, vinh danh và giới thiệu trên thế giới thể hiện rõ rệt nhất qua 10 di sản âm nhạc hoặc liên quan đến âm nhạc2 trong 16 di sản phi vật thể của Việt Nam được UNESCO ghi danh “Di sản phi vật thể đại diện nhân loại”. Việc kiểm kê, sưu tầm, thu thập vốn quý âm nhạc dân tộc, âm nhạc dân gian vẫn luôn được triển khai, tiếp tục không chỉ bởi các cơ quan chức năng (Viện Âm nhạc, Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam) mà hầu như mọi tỉnh, thành trên cả nước đều quan tâm, tham gia lĩnh vực này. Di sản âm nhạc dân tộc không chỉ được sưu tầm, thu thập mà còn được vang lên trong cộng đồng, tham gia vào đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân, được ưu tiên là một phần quan trọng trong giáo dục cũng như là cơ sở giáo dục tinh thần yêu nước, yêu quê hương (trong nội dung “Giáo dục địa phương”), trở thành một trong những sản phẩm văn hóa hấp dẫn, thu hút du lịch.

   Nghiên cứu âm nhạc dân tộc là một trong những hướng nghiên cứu quan trọng, có nhiều công trình nhất so với các hướng đề tài khác về âm nhạc ở Việt Nam. Ngoài Viện Âm nhạc, số công trình thuộc hướng nghiên cứu này còn được thực hiện từ các nhạc viện, học viện âm nhạc, các trường đại học và từ nhiều cá nhân trong và ngoài nước. Cũng như công tác sưu tầm, kiểm kê âm nhạc dân tộc, những thành tựu về nghiên cứu âm nhạc dân tộc không chỉ là hàng trăm công trình được in ấn, công bố mà còn là những thành tựu về lý thuyết, phương pháp nghiên cứu, hình thành đội ngũ các chuyên gia, giáo sư về khoa học âm nhạc, đặc biệt là sự hình thành chuyên ngành nghiên cứu âm nhạc dân tộc (Ethnomusicology) ở Việt Nam. Bên cạnh đó, nhiều hướng nghiên cứu được nhà nước đầu tư, được đánh giá cao, khôi phục những thể loại âm nhạc có nguy cơ bị mai một (ca trù, hát bội, âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên…), nhiều công trình được ứng dụng trong đào tạo, giáo dục, du lịch và giới thiệu như một đại diện văn hóa Việt Nam ra nước ngoài.

   Những sáng tạo phát huy âm nhạc truyền thống, dân tộc: Những sáng tác mới cho nhạc cụ dân tộc theo hình thức, cấu trúc mới đã hình thành thể loại “khí nhạc dân tộc đương đại” (phân biệt với những thể loại âm nhạc không lời cổ truyền). Sáng tác khí nhạc dân tộc trong 50 năm qua lên đến hàng trăm, có thể tóm lược trong 3 nhóm: (1) các tác phẩm độc tấu nhạc cụ dân tộc (có hoặc không có phần đệm của nhạc cụ dân tộc/ dàn nhạc dân tộc), (2) Các tác phẩm hòa tấu từ 2 nhạc cụ trở lên, (3) hòa tấu dàn nhạc dân tộc đương đại3 . So với giai đoạn trước, các tác phẩm khí nhạc dân tộc đương đại trong giai đoạn này phát triển không chỉ số lượng mà còn rất đa dạng về cấu trúc hình thức, về ngôn ngữ âm nhạc, kỹ thuật sáng tác, có những khám phá, khai thác, mở rộng kỹ thuật diễn tấu nhạc cụ. Nếu như trước đây, các nhà giáo - nghệ sĩ biểu diễn nhạc cụ dân tộc tự sáng tác để biểu diễn và làm tài liệu giảng dạy (Tạ Phước, Xuân Tứ, Nguyễn Hồng Thái, Nguyễn Thị Thanh Tâm, Đỗ Phương Bảo, Ngô Bích Vượng, Phạm Thúy Hoan, Nguyễn Văn Đời, Vũ Thị Mai Phương…) thì nay có sự tham gia của những nhạc sĩ trẻ hơn (Cổ Huy Hùng, Nguyễn Thế Dân, Phạm Trà My, Mai Thị Lai…) và những nhạc sĩ sáng tác chuyên nghiệp (Đỗ Hồng Quân, Nguyễn Phúc Linh, Quang Hải, Hoàng Cương, Trần Đinh Lăng, Vũ Nhật Tân, Bùi Thiên Hoàng Quân…). Những tác phẩm viết cho nhạc cụ dân tộc của họ theo đó cũng mở rộng về cấu trúc hình thức, cách thể hiện hình tượng âm nhạc, khai thác/ kế thừa chất liệu âm nhạc dân tộc ở các phương diện khác nhau (như hòa tấu sáo, nhị, nguyệt, tranh và bộ gõ Ngũ đối, đăng đàn, biến tấu chủ đề cho bốn nhạc cụ Flute, đàn bầu, cello và piano), Độc thoại (Monology) hoặc độc tấu đàn tranh và dàn dây Những cánh đồng bất tận (The endless Fields)…). Những tác phẩm này còn thể hiện sự kế thừa tư tưởng của các trường phái, phong cách sáng tác khí nhạc hậu hiện đại (Post modern music) như Bóng thời gian (Landcaples of times), Hương vị thời gian (Scent of times) của Lê Tuấn Hùng và Đặng Kim Hiền hoặc mang dấu ấn của trường phái Tiên phong (Avant - Gardism) Khói sóng, Khói tháp, Khói… viết cho các nhạc khí dân tộc của cố nghệ sĩ Nguyễn Thiên Đạo. Có thể nói, những sáng tác này đã đưa khí nhạc dân tộc ra khỏi vùng quen thuộc của cách thể hiện cũ4 , bước vào một thế giới rộng mở hơn, táo bạo với cách thể hiện khác biệt, nội dung - hình tượng âm nhạc mới mẻ.

   Cùng với đó, hàng loạt sáng tác của GS, TS, NSND Quang Hải cho nhạc khí dân tộc và dàn nhạc giao hưởng được ra đời: concerto cho đàn tranh và dàn nhạc giao hưởng số 1 Quê tôi giải phóng, số 2 Đất và hoa, concerto cho đàn nguyệt và dàn nhạc giao hưởng Bình minh, concerto cho đàn t’rưng và đàn nhạc giao hưởng Hoa thơm bướm lượn… Những tác phẩm này được nhiệt liệt tán thưởng ở các cuộc biểu diễn trong và ngoài nước. Đối với nghệ sĩ diễn tấu, đây cũng là những khám phá mới về tính năng của các nhạc khí dân tộc, kỹ thuật diễn tấu mới và nhất là sự đối tỉ giữa nhạc khí dân tộc Việt với dàn nhạc giao hưởng, giao thoa âm nhạc dân tộc Việt Nam với thể loại âm nhạc kinh viện phương Tây.

   Về biểu diễn: Kể từ sau khi các di sản văn hóa âm nhạc được UNESCO vinh danh, nhiều thể loại âm nhạc được khôi phục, trình diễn, tham gia vào các mặt của đời sống xã hội. Nhiều di sản được ra khỏi danh sách “cần phải bảo vệ khẩn cấp” và phát huy mạnh mẽ trong đời sống cộng đồng. Sự hình thành các đoàn “ca múa nhạc dân tộc” ở các tỉnh, thành đã làm nhiệm vụ phát huy và phát triển âm nhạc dân tộc ở các hình thức chuyên nghiệp và chuyển đổi chức năng của âm nhạc dân gian (như đối với quan họ, ví, giặm Nghệ Tĩnh, bài chòi hay âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên…) để phát huy thành thể loại âm nhạc không chỉ phục vụ theo cách mà nó được sinh ra (là một thành tố của nghi lễ tín ngưỡng dân gian, trong sinh hoạt làng nghề, giao duyên nam nữ…) mà còn bước lên sân khấu chuyên nghiệp, là thể loại âm nhạc để thưởng thức (giải trí), làm nhiệm vụ chính trị, phục vụ nghi lễ mới, là sản phẩm du lịch (như ca Huế, âm nhạc cồng chiêng)…; có thể chuyển đổi chức năng, thay đổi một số nội dung, hình thức âm nhạc, tiếp thu những yếu tố mới để một số thể loại có thể tồn tại và phục vụ đời sống nhân dân. Tuy nhiên, định hướng phát huy, phát triển âm nhạc truyền thống của Đảng cũng luôn lưu ý “tránh gieo vừng ra ngô”, tránh biến đổi những yếu tố cơ bản, thuộc tính của âm nhạc dân tộc như thang âm, điệu, nhấn, rung, luyến láy đặc trưng của âm điệu âm nhạc dân tộc…

   Một đột phá trong biểu diễn âm nhạc dân tộc có lẽ là sự hình thành các nhóm ca nhạc dân tộc với cách phối khí, hòa âm, biểu diễn theo kiểu “nhạc nhẹ”, sử dụng các nhạc cụ dân tộc được gắn điện khuếch đại âm thanh điện tử hóa, không có hoặc có pha trộn với nhạc cụ điện tử... Phong cách biểu diễn này khởi đầu từ Đoàn Thanh niên Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh. Họ thành lập nhóm nhạc, chương trình biểu diễn chủ yếu gồm những bài dân ca hoặc ca khúc âm hưởng dân ca, biểu diễn theo phong cách “nhạc nhẹ”, “nhạc trẻ” khoảng những năm 80 của thế kỷ XX. Kể từ đó, lối biểu diễn này trở thành hoạt động sôi nổi của giới biểu diễn âm nhạc dân tộc nói chung và phát triển với hàng chục ban nhạc có quy mô khác nhau, biểu diễn phục vụ nhiều đối tượng khác nhau: hoạt động lễ hội từ cơ sở đến trung ương, là chương trình của các đoàn ca nhạc dân tộc (các địa phương), các ban nhạc phục vụ nhà hàng, điểm du lịch, tiệm cà phê nhạc…

   So với các giai đoạn trước, thành tựu về sưu tầm, thu thập tư liệu âm thanh - hình ảnh về âm nhạc; nghiên cứu khoa học về âm nhạc dân tộc; bảo vệ, phát huy và đưa âm nhạc dân tộc cổ truyền trở lại với đời sống xã hội… là vô cùng lớn. Biểu diễn âm nhạc cổ truyền dân tộc không chỉ ở hình thức nguyên bản để bảo tồn mà còn có những phương pháp thể hiện mới đã có thể vừa bảo tồn tốt di sản vừa có thể đưa âm nhạc truyền thống đến với cộng đồng, với đời sống đương đại. Trong 50 năm qua, âm nhạc dân tộc cổ truyền đã được ghi chép, gìn giữ, bảo tồn bằng các phương tiện mới, kỹ thuật mới, đã được phát huy, phát triển trong đời sống, góp phần giáo dục con người, phát huy bản sắc văn hóa, đóng góp trong giao lưu, đối ngoại và phát triển kinh tế.

   2. Âm nhạc giao hưởng - thính phòng

   Trong nền tân nhạc Việt Nam, âm nhạc giao hưởng - thính phòng luôn được xem là nền tảng để đánh giá, là đỉnh cao học thuật cũng như là thể loại âm nhạc thể hiện những vấn đề lớn của đất nước, mang cảm xúc cao thượng, lớn lao đến công chúng. Nếu như ở giai đoạn 1954-1975, âm nhạc giao hưởng thính phòng Miền Bắc xã hội chủ nghĩa nhanh chóng hiện diện trên bản đồ thế giới bởi những tác phẩm xuất sắc mang dấu ấn riêng từ những năm 60 thế kỷ XX với các tác giả Đỗ Nhuận, Chu Minh, Ca Lê Thuần, Lê Khiêm, Đàm Linh… thì ngay từ sau ngày thống nhất đất nước, luôn có những bản giao hưởng, tác phẩm khí nhạc thính phòng thể hiện đề tài mới, phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước của những nhạc sĩ thế hệ tiếp nối như Nguyễn Văn Nam, Đỗ Hồng Quân, Hoàng Cương, Vĩnh Lai, Trần Trọng Hùng… và nhiều nhạc sĩ trẻ như Trần Đinh Lăng, Trần Mạnh Hùng, Vũ Việt Anh… với hàng trăm tác phẩm, đặc biệt là những sáng tác đầy sáng tạo, thể hiện xu hướng thẩm mĩ âm nhạc mới với ngôn ngữ âm nhạc khác trước của giai đoạn sau Đổi mới của Nguyễn Thiên Đạo, Vũ Nhật Tân, Nguyễn Kim Ngọc… (Ba bức tranh dân gian Việt Nam, Hồn thiêng sông núi, Khai giác, Thiên sử thần kỳ…). Về thể loại, không chỉ tác phẩm giao hưởng, thính phòng mà giai đoạn này còn nở rộ nhiều sáng tác cho thể loại nhạc kịch (opera) và vũ kịch (ballet) với những tên tuổi: Ca Lê Thuần, Đỗ Hồng Quân, Vĩnh Lai…

   Sự ra đời của các đơn vị hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp trên cả nước đã thể hiện tính vững vàng của nền nghệ thuật âm nhạc kinh viện. Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam (1984, VNSO), Dàn nhạc Giao hưởng Hà Nội (1997, thuộc Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam), Nhà hát Giao hưởng Nhạc vũ kịch Thành phố Hồ Chí Minh (1993, HBSO); Dàn nhạc Giao hưởng Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh (1975, thuộc Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh, là tiền thân của Dàn nhạc giao hưởng Sài Gòn khởi lập lại vào năm 2009)... là các đơn vị biểu diễn trụ cột cho sự phát triển khí nhạc Việt Nam nói chung và âm nhạc giao hưởng nói riêng. Điểm sáng đặc biệt trong giai đoạn này chính là sự ra đời và hoạt động tích cực của dàn nhạc giao hưởng do tư nhân thành lập và điều hành như: Dàn nhạc Giao hưởng Maius Philharmonic (tiền thân là Rhapsody Philharmonic thành lập năm 2010, bao gồm các sinh viên của Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, với các thành viên tuổi đời chỉ từ 17 đến 22, cũng là dàn nhạc tư nhân hoạt động độc lập đầu tiên của Việt Nam); Dàn nhạc Giao hưởng Mặt Trời (Sun Symphony Orchestra, SSO, thành lập 2017); Dàn nhạc Giao hưởng Sài Gòn (Saigon Orchestra với 55 nhạc công gồm cả nhạc cổ điển lẫn nhạc dân tộc). Cùng với việc thành lập các nhà hát, dàn nhạc giao hưởng là đội ngũ những nghệ sĩ biểu diễn thành danh không chỉ trong nước mà còn nổi tiếng thế giới. Những đơn vị này cũng là nơi chắp cánh tài năng cho các nghệ sĩ biểu diễn, tổ chức nhiều hoạt động thiết thực như: đem âm nhạc giao hưởng giới thiệu với khán giả các vùng miền Tổ quốc, giao lưu âm nhạc với bạn bè quốc tế, góp phần tích cực trong công tác giới thiệu, phổ biến âm nhạc kinh viện đến với mọi tầng lớp khán giả. Đội ngũ nghệ sĩ biểu diễn âm nhạc kinh viện Việt Nam còn khiến giới âm nhạc kinh viện trên thế giới ngạc nhiên và thán phục với giải Nhất concours F. Chopin của NSND Đặng Thái Sơn (người Việt Nam, châu Á đầu tiên đoạt giải cuộc thi). Sau mở đầu thành công của nghệ sĩ Đặng Thái Sơn là Tôn Nữ Nguyệt Minh5 và sự tiếp bước của nhiều nghệ sĩ biểu diễn khác như: Nguyễn Trí Đoàn (guitar); Bùi Công Duy, Hoàng Tuấn Cương, Nguyễn Hữu Nguyên, Hoàng Linh Chi, Tăng Thành Nam (violin); Nguyễn Bích Trà, Lưu Hồng Quang (piano)... Âm nhạc giao hưởng, thính phòng Việt Nam còn là điểm đến của giới âm nhạc chuyên nghiệp thế giới bởi các chương trình nghệ thuật định kỳ trở thành “thương hiệu”: Giai điệu mùa Thu (tổ chức hằng năm, bắt đầu từ 2005); Ngày Âm nhạc Việt Nam (hằng năm, bắt đầu từ 2010); Hòa nhạc và Múa đương đại (hằng năm, bắt đầu từ 2012); Hanoi New music năm 2013; các lễ hội âm nhạc định kỳ: Moonson Music Festival năm 2014, 2015; New Music Festival “Asian–Europe” năm 2014, 2016, 2018; các sự kiện âm nhạc: OSSSO Fusion Musical Experience năm 2016… Hơn nữa, những cuộc liên hoan âm nhạc chuyên nghiệp, concours, thi tài năng biểu diễn… của quốc gia (Concours Mùa Thu) hay địa phương như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh (cuộc thi guitar quốc tế, thi tài năng âm nhạc thính phòng) đều được đánh giá cao trong giới âm nhạc chuyên nghiệp quốc tế.

   Hợp tác quốc tế là một phương diện chứng tỏ hoạt động âm nhạc giao hưởng, thính phòng Việt Nam đã có thể song hành cùng nhiều nền âm nhạc trên thế giới. Sáng kiến thành lập Dàn nhạc trẻ Đông Nam Á (Asian Youth Orchestra, AYO) hoạt động định kỳ: tuyển chọn các tài năng âm nhạc trẻ từ các nước châu Á, tập trung huấn luyện và biểu diễn các tác phẩm giao hưởng dưới sự chỉ huy của nhiều nhạc trưởng tên tuổi và giàu kinh nghiệm như: Sir Yehudi Menuhin, Alexander Schneider, Samuel Wong... đã mở màn cho hoạt động trao đổi nghệ sĩ hằng năm và luân phiên tổ chức biểu diễn giữa các nước thành viên. Bên cạnh đó là sự giao lưu, hợp tác của các chỉ huy dàn nhạc tên tuổi người nước ngoài trong việc dàn dựng và biểu diễn các chương trình giao hưởng tại Việt Nam như: Youshikazu Fukumura, Tetsuji Honna, Shuichi Komiyama (Nhật Bản), Colin Metters, Graham Sutcliffe (Anh), Marc Kissouzy (Thụy Sĩ), Adrian Tan (Singapore), Le Phi Phi (Macedonia)... Những chuyến lưu diễn của các nhà hát nhạc vũ kịch, dàn nhạc giao hưởng Việt Nam sang các nước Nhật Bản, Ý, Mĩ, Singapore… Liên hoan âm nhạc Á - Âu do Hội Nhạc sĩ Việt Nam tổ chức 2 năm/lần, Liên hoan sáng tác trẻ (trong khuôn khổ Festival Huế), Liên hoan nhạc gõ châu Âu (kết hợp và tổ chức tại Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh)… Tất cả hoạt động này thể hiện những bước phát triển của giai đoạn giao lưu, hợp tác; cùng đồng hành và thể hiện đẳng cấp của âm nhạc giao hưởng, thính phòng Việt Nam trên trường quốc tế.

   Đào tạo và nghiên cứu âm nhạc giao hưởng - thính phòng: Ngoài 3 nhạc viện, học viện âm nhạc quốc gia đào tạo chính quy các chuyên ngành biểu diễn nhạc cụ phương Tây, chỉ huy, sáng tác âm nhạc, một số trường trung cấp, cao đẳng như Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật (VHNT) Huế, Trung cấp VHNT Đồng Nai, Cao đẳng VHNT Vinh, Cao đẳng VHNT Hạ Long, Cao đẳng VHNT Cần Thơ… đều có đào tạo các chuyên ngành biểu diễn các nhạc cụ phương Tây, chỉ huy… Song song với việc hoàn chỉnh và thực hiện các chương trình đào tạo sẵn có, nhiều cơ sở đào tạo còn chủ động tiếp cận, nghiên cứu những chương trình mới cho phù hợp với điều kiện giảng dạy thực tế. Lĩnh vực đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp giai đoạn này cũng chú trọng công tác giao lưu - hợp tác trong nước và quốc tế: giảng viên được tạo điều kiện để học tập nâng cấp thêm về chuyên môn; nhiều chương trình master class, trao đổi sinh viên giữa các ngành nghệ thuật, liên kết đào tạo giữa các đơn vị. Trường học không chỉ đóng vai trò là chiếc nôi đào tạo nghệ thuật mà còn mở rộng hơn, thúc đẩy nhiều hoạt động biểu diễn mang tính định kỳ của các khoa, thành lập dàn nhạc sinh viên, tổ chức các các cuộc thi tài năng, các festival âm nhạc thường niên, giao lưu học thuật học sinh, sinh viên âm nhạc với quốc tế (nhất là các nước trong khu vực), đồng thời giới thiệu tài năng trẻ âm nhạc Việt Nam, tạo điều kiện cho các em học hỏi và tích lũy thêm kinh nghiệm biểu diễn. Hệ thống đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp được hoàn thiện và nâng cao từ cử nhân lên thạc sĩ, tiến sĩ.

   Lĩnh vực nghiên cứu khoa học cũng là một thành tựu của giai đoạn này, nâng nghệ thuật âm nhạc lên tầm chuyên nghiệp quốc tế. Bên cạnh các công trình nghiên cứu về âm nhạc truyền thống, dân tộc, còn có hàng trăm luận án, luận văn chuyên ngành âm nhạc học hằng năm, trong đó có rất nhiều luận án, luận văn chọn tác giả hoặc tác phẩm giao hưởng Việt Nam làm đối tượng nghiên cứu, chú trọng tìm hiểu những biểu hiện của ngôn ngữ âm nhạc đương đại trong giao hưởng Việt Nam (như hòa âm, phối khí, cấu trúc - hình thức, xây dựng chủ đề âm nhạc, các kỹ thuật sáng tác...). Điều này thể hiện sự quan tâm của xã hội, giới chuyên môn đối với những đóng góp của âm nhạc thời kỳ này, nhận diện những sáng tạo, gìn giữ và truyền bá những cái hay, cái đẹp của nền âm nhạc giao hưởng non trẻ nước nhà. Nhiều ấn phẩm giới thiệu về giao hưởng Việt Nam do Viện Âm nhạc chủ biên với nội dung đề cập đến các chặng đường phát triển của âm nhạc Việt Nam nói chúng và âm nhạc giao hưởng thính phòng nói riêng: Âm nhạc mới Việt Nam - Tiến trình và thành tựu (2000), Hợp tuyển tài liệu nghiên cứu-lý luận phê bình âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX (2004), Những tác phẩm giao hưởng Việt Nam (2005), Âm nhạc Việt Nam: Tác giả - Tác phẩm (2007), Tổng tập âm nhạc Việt Nam: Tác giả-Tác phẩm (2010)… Ngoài ra còn có rất nhiều tài liệu nghiên cứu giá trị khác như: Âm nhạc thính phòng giao hưởng Việt Nam - Sự hình thành, phát triển - Tác giả - tác phẩm của tác giả Nguyễn Thị Nhung, các bộ sách mang tính chất tư liệu - lưu trữ và giới thiệu thông tin như bộ sách Nhạc sĩ Việt Nam, Tự hào nửa thế kỷ Hội Nhạc sĩ Việt Nam, Những tác phẩm giao hưởng Việt Nam...

   3. Âm nhạc đại chúng

   Bắt đầu bằng phong trào “ca khúc chính trị” của những năm 80 thế kỷ XX, một phong trào ca khúc chủ yếu là dựa vào phong cách pop - rock trên thế giới, đã lưu hành rộng rãi và mạnh mẽ trên cả nước trong suốt 50 năm qua. Dòng âm nhạc này còn được gọi là “nhạc nhẹ”, “nhạc trẻ”… nhưng nếu đánh giá ở mục đích sáng tạo và phục vụ, nội dung âm nhạc cũng như phong cách thể hiện, có thể gọi đây là dòng “âm nhạc đại chúng”. Tính chất đại chúng về đề tài, nội dung, hình thức thể hiện đơn giản, hấp dẫn vì sự tươi trẻ, mới lạ và sôi động… dòng âm nhạc này đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của cả nền âm nhạc Việt Nam hiện nay và đóng góp không nhỏ cho hướng công nghiệp văn hóa trong tương lai. 

   Dòng âm nhạc đại chúng chủ yếu bao gồm những sáng tác thể loại ca khúc, nội dung và hình thức biểu diễn đa dạng nhưng chủ yếu nhằm mục đích giải trí nên có nội dung gần gũi, đời thường, hình tượng âm nhạc đơn giản, âm nhạc gắn liền với kỹ thuật hòa âm, phối khí nhẹ nhàng, đơn giản, chủ yếu là theo tiết điệu của nhạc khiêu vũ. Thể loại ca khúc của dòng âm nhạc đại chúng có thể sáng tác cho những mục đích cụ thể như nhạc cổ động, nhạc sinh hoạt, hành khúc, nhạc trữ tình, tình yêu… nên số lượng đã lên đến hàng ngàn bài, chiếm lĩnh hầu hết các sân khấu, chương trình âm nhạc trong đời sống xã hội. Có thể thấy hầu hết các chương trình biểu diễn văn nghệ, chương trình âm nhạc nghi lễ, sinh hoạt, giải trí… từ địa phương đến trung ương, từ nhỏ đến lớn, sinh hoạt âm nhạc trong đời sống những năm gần đây, ca khúc được đóng vai trò chủ đạo, với tính chất thể hiện mang tính đại chúng. Dòng âm nhạc đại chúng này chịu ảnh hưởng của dòng nhạc pop, rock trên thế giới, chủ yếu là ca khúc, được thể hiện với phong cách trình diễn theo lối nhạc nhẹ, từ cách phối khí cho đến dàn nhạc theo phong cách pop, rock, âm nhạc luôn đi kèm với hình thức náo động, kích động, nhộn nhịp…

   Trong giai đoạn hiện nay, ca khúc gần như trở thành nhu cầu sáng tạo, thể hiện, thưởng thức âm nhạc chủ yếu của công chúng. Điều này không chỉ riêng đối với Việt Nam mà còn là xu hướng mang tính quốc tế. Tuy nhiên, với những đặc điểm của dòng nhạc đại chúng, với mô thức chung của phong cách thể hiện, chúng ta vẫn có thể sử dụng những nét đặc trưng mang bản sắc Việt Nam để sáng tạo những ca khúc riêng cho nền âm nhạc Việt Nam. Việc tiếp thu và chọn lọc để sáng tạo trên cơ sở yếu tố nội sinh và thẩm mĩ phù hợp với văn hóa Việt Nam sẽ không chỉ giúp cho âm nhạc được vang lên trong lòng công chúng, giới thiệu Việt Nam với thế giới mà còn có thể khiến cho âm nhạc Việt Nam phát triển bền vững. Điều này đã được chứng minh qua những ca khúc của Phan Huỳnh Điểu, Phan Nhân, Xuân Hồng, Phạm Minh Tuấn, Nguyễn Văn Tý, Trần Long Ẩn, Tôn Thất Lập… thời kỳ đầu sau ngày đất nước thống nhất, được nối tiếp bởi những nhạc sĩ: Trọng Đài, Nguyễn Cường, Phó Đức Phương… và sau này là Đinh Trung Cẩn, Đức Trí, Nguyễn Văn Chung… Danh sách các nhạc sĩ chuyên sáng tác ca khúc ngày càng dài, những ca khúc của họ không chỉ là những tác phẩm nghệ thuật mà còn chứa đựng những giá trị lớn lao đối với lịch sử, chính trị, xã hội và nền âm nhạc nước nhà.

   Bên cạnh những thành tựu của những ca khúc nghệ thuật đó, dòng âm nhạc đại chúng còn có những ca khúc thị trường, những dòng nhạc ít tính nghệ thuật, nhiều tính kích động. Điều này cũng không ngoài xu hướng chung trên thế giới mà ở đất nước nào cũng có. Dòng âm nhạc đại chúng còn có những bài hát thuộc các thể loại âm nhạc “thị trường”, nhạc “đường phố” (underground), nhạc rap, nhạc EDM… có công chúng riêng đối với mỗi thể loại. Điểm quan trọng là, trước những mảng màu tối, xám của dòng âm nhạc đại chúng và những tác động của một số ca khúc ít tính nghệ thuật, giáo dục; nhiều tính kích động, nổi loạn, phá hoại nền tảng thẩm mĩ, đạo đức… thì vai trò quản lý của hệ thống chính trị và cơ quan chuyên môn là hết sức quan trọng, cần thiết. Sự bùng nổ thông tin, tác động của truyền thông đại chúng và nhất là tính chất dân chủ, tự do sáng tạo, phổ biến, thưởng thức trên không gian mạng đối với âm nhạc đại chúng hiện nay chính là thách thức của âm nhạc Việt Nam. Vấn đề nội dung âm nhạc, hướng đến chất lượng nghệ thuật và làm sao để dòng âm nhạc đại chúng phục vụ tốt cho công chúng, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc và góp phần vào công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước... vẫn luôn đau đáu trong lòng mỗi chúng ta.

   4. Tạm kết

   50 năm là thời gian không dài so với lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc nhưng lại là giai đoạn âm nhạc sôi động nhất so với các giai đoạn lịch sử âm nhạc trước đó. Đây là một giai đoạn đan xen bởi nhiều dòng âm nhạc, nhiều đề tài, nhiều cách thể hiện cũng là giai đoạn giao lưu, tiếp nhận nhiều trường phái, hình thức, phương pháp tư duy cũng như thẩm mĩ khác nhau… Âm nhạc Việt Nam trong khoảng 50 năm sau ngày đất nước thống nhất đã ghi nhận được nhiều thành tựu. Đội ngũ, số lượng tác phẩm, sự đa dạng của thể loại và chất lượng nghệ thuật đều được nâng lên. Sự hiện diện của nhiều dòng âm nhạc cũng như thành tựu về bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong âm nhạc, kể cả ở dòng âm nhạc kinh viện giao hưởng, thính phòng hay dòng âm nhạc đại chúng, là thành tựu lớn nhất. Điều này khiến cho âm nhạc Việt Nam phát triển và có vị thế quốc tế.

   Tuy nhiên, trước sự phát triển không thể cưỡng lại của công nghệ, sự xâm nhập không biên giới của âm nhạc ngoại lai, xu hướng đại chúng hóa nền âm nhạc… cần có chính sách phù hợp và được triển khai đồng bộ từ khâu sáng tác, biểu diễn, đào tạo, lý luận, phê bình. Định hướng bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc của Đảng ta luôn là cơ sở, nền tảng, giúp phát triển bền vững âm nhạc Việt Nam, kể cả trong công cuộc xây dựng, phát triển nền công nghiệp văn hóa, công nghiệp biểu diễn âm nhạc.

   Giai đoạn âm nhạc 50 năm sau ngày đất nước thống nhất là một bức tranh đa sắc, nhộn nhịp, muôn vẻ. Phác thảo này chỉ mong mang đến những điểm chính có thể giúp tiếp cận dung mạo ấy, nhận diện được những giá trị, nhận thức được những vấn đề, thử thách mà âm nhạc Việt Nam cần làm trong tương lai để có một nền âm nhạc phục vụ tốt đời sống vật chất, tinh thần của người dân, bảo tồn và phát huy được bản sắc dân tộc.

 

 

 

Chú thích:
1 Theo thống kê ngân hàng dữ liệu của Viện Âm nhạc - Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.
2 Ngoài các di sản như: Dân ca quan họ Bắc Ninh; Hát ca trù; Hát xoan Phú Thọ; Nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ; Dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh, còn có “Không gian văn hoá cồng chiêng” (âm nhạc cồng chiêng đóng vai trò quan trọng, thể hiện toàn bộ không gian văn hóa của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên), “Tín ngưỡng thờ mẫu Tam phủ của người Việt” (với nghệ thuật hát chầu văn, hầu văn), “Nghệ thuật bài chòi ở Trung Bộ” (dân ca bài chòi và sân khấu ca kịch bài chòi), “Thực hành then của người Tày, Thái” (với sự hiện diện của hát then và đàn tính) và “Nghệ thuật xoè Thái” (cùng với âm nhạc cho các điệu xòe).
3 “Dàn nhạc dân tộc đương đại” là dàn nhạc tập hợp tất cả các nhạc khí dân tộc đang được giảng dạy tại các nhạc viện, học viện và có thể kết hợp với các nhạc khí dân gian (cải tiến) như đàn t’rưng, đàn k’long but… cấu trúc “4 bộ” theo mô thức dàn nhạc giao hưởng thời kỳ cổ điển của âm nhạc phương Tây.
4 Theo: Nguyễn Thị Mỹ Liêm (2016): “Khí nhạc dân tộc Việt Nam đương đại”, Tạp chí Lý luận phê bình văn học, nghệ thuật, số 48, tháng 8, tr. 30-38: “… sử dụng chất liệu âm nhạc dân tộc (hoặc đôi khi là một bài dân ca, nhạc cổ truyền) để xây dựng các “chủ đề” âm nhạc, sử dụng phương pháp phát triển chủ đề âm nhạc của kỹ thuật sáng tác khí nhạc phương Tây. Phần lớn tác phẩm có cấu trúc 3 đoạn - đoạn giữa là đoạn Cadenza với những kỹ thuật diễn tấu nhạc cụ (đoạn “trổ ngón”); sử dụng những kỹ thuật hòa âm, phối khí của phong cách âm nhạc phương Tây, sử dụng những kỹ thuật diễn tấu điêu luyện của nhạc khí để tạo những ngón đàn, những nét nhạc hoa mỹ, chủ yếu là diễn tấu nhiều nốt, chạy lướt nhanh, khoe kỹ thuật điêu luyện”…
5 Bằng khen danh dự tại cuộc thi piano Tchaikovsky ở Moscow, Nga, 1974; Giải Ba tại cuộc so tài B. Smetana ở Tiệp Khắc, 1980; Huy chương Bạc cuộc thi Piano Viotti ở Ý, 1982; Giải Nhì tại cuộc thi Piano Neglia ở Ý, 1984.

Bình luận

    Chưa có bình luận