TỪ QUÁ TRÌNH TIẾP NHẬN LÝ THUYẾT VĂN NGHỆ PHƯƠNG TÂY THỜI ĐỔI MỚI NGHĨ VỀ VIỆC XÂY DỰNG NỀN LÝ LUẬN, PHÊ BÌNH VĂN HỌC THỜI KỲ TOÀN CẦU HÓA

Bài viết phân tích quá trình tiếp nhận lý thuyết văn nghệ phương Tây từ thời kỳ Đổi mới, cho thấy vai trò quan trọng của lý luận, phê bình trong hiện đại hóa văn học Việt Nam, từ đó đề xuất định hướng xây dựng nền phê bình đa dạng, hội nhập đồng thời bảo lưu những giá trị cốt lõi của văn hóa dân tộc.

   Có thể nói lý luận, phê bình văn học là một trong những phương diện không thể thiếu của hoạt động tiếp nhận văn học. Vì thế, khi nghiên cứu một nền văn học, không thể chỉ nói đến sáng tác mà còn phải nói đến hoạt động lý luận, phê bình, bởi tác phẩm văn học chỉ thật sự tồn sinh khi được người đọc tiếp nhận. Như thế, lý luận, phê bình là sự tự thức của đời sống văn học, là một phần không thể thiếu của tiến trình văn học. Từ 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã mở ra cho đất nước nhiều vận hội mới trong phát triển kinh tế, xã hội. Đặc biệt, chủ trương mở rộng bang giao quốc tế đã tạo tiền đề cho sự phát triển nhiều lĩnh vực văn học, nghệ thuật, trong đó có lý luận, phê bình, rõ nhất là việc mở cửa tiếp nhận các lý thuyết văn nghệ hiện đại của phương Tây. Vì vậy, có thể nói, công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo đã tạo nên sức mạnh diệu kỳ, đưa nền văn học Việt Nam, trong đó có lý luận, phê bình văn học thoát khỏi cái “ao làng” để đi ra “biển lớn”, đến với nhiều bến bờ của văn học thế giới, hòa nhập với xu hướng toàn cầu mà những thành tựu của bộ phận lý luận, phê bình và sáng tác văn học trong những năm qua của thời kỳ đất nước đổi mới là một xác chứng.

   Từ sau ngày thống nhất đất nước, đặc biệt từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, khoa nghiên cứu văn học đã có nhiều thành tựu trên các lĩnh vực nghiên cứu văn học dân tộc và thế giới, trong đó có thành tựu của lý luận, phê bình. Đó là việc giới thiệu và ứng dụng các khuynh hướng lý luận, phê bình hiện đại của phương Tây như: phân tâm học; chủ nghĩa hiện sinh; cấu trúc luận; thi pháp học; mĩ học tiếp nhận; tự sự học; nữ quyền luận; phê bình sinh thái, chủ nghĩa hậu hiện đại... để khám phá các hiện tượng văn học mà trước kia với nhiều lý do chúng ta chưa có điều kiện tiếp cận. Đó là những công trình được tuyển chọn, biên soạn, dịch thuật nhằm giới thiệu các lý thuyết hiện đại phương Tây vào Việt Nam để giúp các nhà lý luận, phê bình có cơ sở lý thuyết giải mã các hiện tượng văn học như: Alain Robbe - Grillet và sự đổi mới tiểu thuyết (Lê Phong Tuyết dịch, 1993); Phê bình văn học Pháp thế kỷ XX (Lộc Phương Thủy chủ biên, 1995); Octavio Paz: Thơ văn và tiểu luận (Nguyễn Trung Đức dịch, 1998); Lý luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX (Phương Lựu, 2001); Chủ nghĩa cấu trúc và thuyết hiện sinh (Trần Thiện Đạo, 2001); Văn học phi lý (Nguyễn Văn Dân dịch, 2001); Phê bình lý luận văn học Anh - Mỹ (Lê Huy Bắc chủ biên, 2002); Văn học hậu hiện đại thế giới - Những vấn đề lý thuyết (Nhiều tác giả, 2003); Phân tâm học và văn học nghệ thuật (2000), Phân tâm học và văn hóa tâm linh (2002) của Đỗ Lai Thúy biên soạn; Kate Hamburger, Logic học về các thể loại văn học (Trần Ngọc Vương và Vũ Hoàng Địch dịch, 2004); Bản mệnh lý thuyết (Lê Hồng Sâm, Đặng Anh Đào dịch, 2006); Lý luận phê bình văn học thế giới thế kỷ XX (Lộc Phương Thủy chủ biên, 2007); R. Wellek và A. Warren, Lý luận văn học (Nguyễn Mạnh Cường dịch, 2009); T. Todorov, Văn chương lâm nguy (Trần Huyền Sâm, Đan Thanh dịch, 2013); L. Petrescu, Thi pháp chủ nghĩa hậu hiện đại (Lê Nguyên Cẩn dịch, 2013); R. Barthes, Văn học và cái ác (Ngân Xuyên dịch, 2013); Gilies Deleuze và Félix Guattari, Kafka vì một nền văn học thiểu số (Nguyễn Thị Từ Huy dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính, 2013); J. P. Sartre, Thuyết hiện sinh là một thuyết nhân bản (Đỗ Hồng Phúc dịch, 2015)...

   Không chỉ có dịch thuật, nhiều trường phái lý thuyết văn nghệ phương Tây còn được các nhà lý luận, phê bình ứng dụng vào tìm hiểu các hiện tượng văn học với những hệ hình lý thuyết khác nhau. Đó là những công trình nghiên cứu và ứng dụng lý thuyết thi pháp học như: Thi pháp thơ Tố Hữu (1987), Thi pháp Truyện Kiều (2002) của Trần Đình Sử; Từ ký hiệu học đến thi pháp học (Hoàng Trinh, 1992); Thi pháp hiện đại (Đổ Đức Hiểu, 2001); Thi pháp ca dao (Nguyễn Xuân Kính, 1992); Những vấn đề thi pháp của truyện (Nguyễn Thái Hòa, 2000); Thi pháp tiểu thuyết và sáng tác của Ernest Hemingway (Đào Ngọc Chương, 2003); Thi pháp tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng (Nguyễn Thành, 2013)... Với lý thuyết phân tâm học, có các công trình: Mắt thơ (1992), Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực (1999) của Đỗ Lai Thúy; Học thuyết S. Freud và sự thể hiện của nó trong văn học Việt Nam (Trần Thanh Hà, 2008); Phân tâm học với văn học (Hồ Thế Hà, Nguyễn Thành chủ biên, 2014). Với lý thuyết mĩ học tiếp nhận, có các công trình: Từ văn bản đến tác phẩm văn học (1988), Tác phẩm văn học như một quá trình (2004) của Trương Đăng Dung; Việt Nam và phương Tây – tiếp nhận giao thoa trong văn học (Đặng Anh Đào, 2007); Văn chương và tiếp nhận (lý thuyết, luận giải, phê bình) (Trần Thái Học chủ biên); Tiếp nhận tư tưởng văn nghệ nước ngoài – kinh nghiệm Việt Nam thời hiện đại (La Khắc Hòa, Lộc Phương Thủy, Huỳnh Như Phương đồng chủ biên, 2015); Văn học Việt Nam hiện đại Sáng tạo và tiếp nhận (Bích Thu, 2015)... Các công trình ứng dụng về chủ nghĩa hậu hiện đại: Lý thuyết văn học hậu hiện đại (Phương Lựu, 2011); Văn học hậu hiện đại – lý thuyết và tiếp nhận (Lê Huy Bắc, 2012); Văn học hậu hiện đại – diễn giải và tiếp nhận (Nguyễn Thành, Hồ Thế Hà, Nguyễn Hồng Dũng chủ biên, 2013)...

   Cùng với chủ nghĩa hậu hiện đại, lý thuyết văn học so sánh cũng có các công trình nghiên cứu mang rõ tính ứng dụng như: Những vấn đề lý luận của văn học so sánh (Nguyễn Văn Dân, 1995); Văn học so sánh - Lý luận và ứng dụng (Lưu Văn Bổng chủ biên, 2001); Từ văn học so sánh đến thi học so sánh (Phương Lựu, 2002); Văn học so sánh nghiên cứu và triển vọng (Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; do Trần Đình Sử, Lã Nhâm Thìn, Lê Lưu Oanh tuyển chọn, 2005); Những cuộc hội ngộ văn chương thế giới – Văn học so sánh: Nghiên cứu và dịch thuật và Vượt qua ranh giới của văn chương – Văn học so sánh và hướng nghiên cứu liên ngành (Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, 2019)... Ngoài ra, còn có một số bài viết, công trình nghiên cứu vận dụng những lý thuyết khác nhau của phương Tây vào nghiên cứu các hiện tượng văn học như chủ nghĩa hiện sinh, nữ quyền luận, cấu trúc luận, phê bình sinh thái, ký hiệu học… Đó là các công trình: Thơ Nữ trong hành trình cắt đuôi hậu tố Nữ và 20 tiếng thơ nữ quyền đương đại (Inrasara, 2015); Phê bình ký hiệu học - Đọc văn như là hành trình tái thiết ngôn ngữ (Lã Nguyên, 2018); Xã hội học văn học (Lộc Phương Thủy, Nguyễn Phương Ngọc, Phùng Ngọc Kiên, 2018); Sinh thái & văn hóa Nam Bộ trong văn học Việt Nam (Nhiều tác giả, 2022)… Bên cạnh đó còn nhiều công trình vận dụng lý thuyết văn học hiện đại phương Tây để nghiên cứu các hiện tượng văn học được đăng tải trên báo, tạp chí, hội thảo khoa học, các luận văn, luận án ở các viện, trường đại học mà do dung lượng của bài viết có hạn nên không thể liệt kê hết được.

   Qua những công trình lý luận, phê bình đã nêu trên, vấn đề tiếp nhận lý thuyết văn nghệ phương Tây đã được đặt ra và luận giải trên cơ sở lý luận mang tính ứng dụng là điều cần thiết nếu chúng ta xem sự hội nhập với thế giới để phát triển là một điều tất yếu, bởi theo Phương Lựu: “Trong thời buổi toàn cầu hóa này, việc sử dụng những từ ngữ khái niệm lý luận văn học phương Tây là rất bình thường, nếu không muốn nói là hiển nhiên”1.

   Như vậy, với việc ứng dụng lý thuyết văn nghệ phương Tây hiện đại vào tìm hiểu nhiều hiện tượng văn học, các nhà lý luận, phê bình đã đem đến cho đời sống văn học nước nhà những giá trị mới từ một nền lý luận, phê bình đa giọng điệu, đa điểm nhìn. Vì vậy, khi luận về ảnh hưởng của lý thuyết văn nghệ phương Tây đối với đời sống văn học, Phan Trọng Thưởng cho rằng chính quá trình tiếp xúc và giao lưu với phương Tây “đã diễn ra một sự thanh lọc, một tinh thần hội nhập theo xu hướng hiện đại, khiến cho màu sắc áp đặt đã bị tước bỏ để còn lại ý thức chủ động tiếp thu, chủ động cải biến những sản phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật vốn gốc gác từ bên ngoài thành một thành tố mới của văn hóa, văn học nghệ thuật mỗi nước. Quá trình này biểu hiện tinh thần không chối từ, tinh thần tích hợp những giá trị văn hóa, nghệ thuật nhân loại để làm phong phú thêm cho gia tài văn hóa phương Đông”2. Chính tinh thần hội nhập này đã đem đến cho đời sống lý luận, phê bình văn học thời kỳ Đổi mới một sinh khí mạnh mẽ, tạo năng lượng cho các nhà khoa học trên hành trình lao động sáng tạo. Xét về một phương diện nào đó, sự tiếp nhận các khuynh hướng lý thuyết phương Tây không chỉ tạo nên sự đa dạng của lý luận, phê bình văn học thời kỳ Đổi mới mà còn góp phần làm phong phú và hiện đại hóa nền văn học dân tộc vốn còn nhiều giới hạn so với thế giới. Đây là tiền đề tạo bước đi vững chắc cho tiến trình vận động và phát triển của tư duy lý luận, phê bình văn học thời kỳ Đổi mới, mà việc hiện hữu của các tác phẩm ứng dụng lý thuyết văn nghệ phương Tây vào tìm hiểu các hiện tượng văn học sau đây là một minh chứng. Đó là các tác phẩm: Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam (Nguyễn Bá Thành, 1996); Đổi mới đọc và bình văn (Đổ Đức Hiểu, 1998); Phong cách học với việc dạy văn và lý luận phê bình (Hữu Đạt, 2002); Sáng tạo và giao lưu (Phạm Vĩnh Cư, 2004); Ngoài trời lại có trời (Vương Trí Nhàn, 2006); Triết lý văn hóa và triết luận văn chương (Hoàng Ngọc Hiến, 2006); Văn chương thẩm mỹ và văn hóa (Lê Ngọc Trà, 2007); Những nguồn cảm hứng trong văn học (Huỳnh Như Phương, 2008); Song thoại với cái mới (Inrasara, 2008); Tiểu thuyết trên con đường đổi mới nghệ thuật (Phùng Văn Tửu, 2010); Truyện Kiều trong văn hóa Việt Nam (Phan Ngọc, 2013); Thẩm định các giá trị văn học (Phan Trọng Thưởng, 2013); Xu hướng tự do hóa ngôn ngữ thơ Việt Nam thế kỷ XX (Nguyễn Thị Phương Thùy, 2014); Trên đường biên của lý luận văn học (Trần Đình Sử, 2014); Thơ Việt Nam hiện đại tiến trình và hiện tượng (Nguyễn Đăng Điệp, 2014); Không gian văn học đương đại (Đoàn Ánh Dương, 2014); Nhà văn như Thị Nở (Phạm Xuân Nguyên, 2014); Tác giả hàm ẩn trong tu từ học tiểu thuyết (Cao Kim Lan, 2015); Đi tìm ẩn ngữ văn chương (2017), Đi tìm mỹ cảm văn chương (2020) của Trần Hoài Anh; Tự chủ văn chương và sứ mệnh tự do (Phùng Ngọc Kiên, 2023); Người Mỹ da đen trong bản đồ văn học Mỹ (Nguyễn Thị Tuyết, 2023)...

   Có thể nói, với việc mở rộng biên độ tiếp nhận lý thuyết văn nghệ phương Tây, lý luận, phê bình văn học thời Đổi mới đã thật sự khởi sắc theo hướng phát triển đa dạng, đa chiều. Tình hình này đã khắc phục bệnh công thức, giản đơn của phê bình văn học trước đó, góp phần đổi mới nhận thức trong tư duy lý luận, phê bình, làm thay đổi cách nhìn, cách nghĩ, cách thẩm định giá trị của các hiện tượng văn học, tạo nên một đời sống lý luận, phê bình sinh động, phong phú, dân chủ, cởi mở. Đây là điều kiện tất yếu để văn học phát triển bền vững trong xu thế toàn cầu hóa của thời kỳ hội nhập.

   Không những thế, việc tiếp nhận lý thuyết văn nghệ hiện đại phương Tây không chỉ tác động đến sự thay đổi hệ hình tư duy lý luận, phê bình và đạt được những thành tựu như đã nói ở trên mà còn tác động đến lĩnh vực sáng tác văn học đã làm thay đổi tư duy và phong cách sáng tạo của nhà văn mà sự hiện hữu của những tác phẩm thấm đẫm tinh thần nhân bản đáp ứng nhu cầu mĩ cảm của độc giả, là sự minh chứng khá thuyết phục. Đó là các tác phẩm: Chiếc thuyền ngoài xa, Cỏ lau của Nguyễn Minh Châu; Một cõi nhân gian bé tí, Thượng đế thì cười của Nguyễn Khải; Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường; Bến không chồng của Dương Hướng; Thời xa vắng của Lê Lựu; Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh; Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai; Bi kịch nhỏ của Lê Minh Khuê; Chim én bay của Nguyễn Trí Huân; Hồ Quý Ly, Đội gạo lên chùa, Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh; Gia đình bé mọn của Dạ Ngân; Đàn bà của Lý Lan; Tướng về hưu, Con gái thủy thần của Nguyễn Huy Thiệp; Mảnh vỡ của đàn ông, Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái; Viết tên trên nước của Nhật Chiêu; Cơ hội của chúa, Khải huyền muộn của Nguyễn Việt Hà; Hậu thiên đường, Phù thủy của Nguyễn Thị Thu Huệ; Người xa vắng, Thoạt kỳ thủy của Nguyễn Bình Phương; Xuân từ chiều của Y Ban; Đêm tái sinh của Trần Thùy Mai; Những mảnh đời đen trắng của Nguyễn Quang Lập; Thế giới xô lệch của Bích Ngân; Sự trở lại của vết xước của Trần Nhã Thụy; Bến vô thường, Giữa vòng vây trần gian của Nguyễn Danh Lam; Truy đuổi tâm trạng mỹ nhân của Tiến Đạt; Blogger, Kẻ dự phần của Nguyễn Phong Điệp; Cánh đồng bất tận, Yêu người ngóng núi của Nguyễn Ngọc Tư; Đề tặng một giấc mơ của Lâm Thị Mỹ Dạ; Khát, Linh của Vi Thùy Linh; Lô Lô của Ly Hoàng Ly; Người đàn bà qua hai mùa tóc của Anh Hồng; Một bàn tay thì đầy của Hoàng Việt Hằng… Sự hiện hữu của những sáng tác này cũng chịu ảnh hưởng từ việc tiếp nhận lý thuyết văn nghệ phương Tây và cũng là thành tựu của văn học thời Đổi mới, hướng đến mục tiêu đưa nền văn học nước nhà, trong đó có bộ phận lý luận, phê bình phát triển bền vững, hòa nhập với đời sống lý luận, phê bình thế giới, đáp ứng xu hướng toàn cầu hóa.

   Song, việc tiếp nhận lý thuyết văn nghệ phương Tây không chỉ xuất hiện ở thời kỳ Đổi mới mà ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, nước ta cũng đã mở cửa tiếp nhận các trào lưu lý thuyết văn nghệ phương Tây, không chỉ trong lý luận, phê bình mà cả trong sáng tác nhằm hiện đại hóa nền văn học nước nhà. Vì vậy, nhận định về giai đoạn này, Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Trong khoảng thời gian dưới chế độ thực dân Pháp, dân tộc ta đã tiếp thụ và vận dụng những thành tựu của văn hóa văn minh phương Tây, một thành tựu nổi bật là sự ra đời của chữ quốc ngữ, chữ viết của dân tộc ta ngày nay. Những phong trào văn hóa đa dạng trong những thập niên đầu thế kỷ XX, với sự đổi mới rõ rệt và sự phát triển mạnh mẽ của các lĩnh vực văn học nghệ thuật, phong hóa và lối sống, một lần nữa chứng tỏ sự nhạy cảm và khả năng thâu hóa của dân tộc ta đối với những trào lưu văn hóa từ bên ngoài”3. Còn Hoài Thanh, trong Thi nhân Việt Nam, cũng đã xác quyết: “Sự gặp gỡ phương Tây là cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ”4 và trong cuộc biến thiên này có sự biến thiên của đời sống văn học, trong có lý luận, phê bình. Vì vậy, việc tiếp nhận các khuynh hướng lý luận, phê bình văn nghệ phương Tây để tạo nên một nền lý luận, phê bình văn học đa dạng, phong phú của thời kỳ Đổi mới thực chất là việc tiếp nối con đường mở cửa đón nhận lý thuyết văn học phương Tây của văn học dân tộc trong nửa đầu thế kỷ XX. Sự tiếp nối này là một tất yếu trong quá trình vận động và phát triển của văn học dân tộc, trong đó có lý luận, phê bình, nếu chúng ta không muốn nền văn học nước nhà tụt hậu và khó hòa nhập với nền văn học thế giới trong xu hướng toàn cầu hóa.

   Nhận thức được ý nghĩa khoa học và thực tiễn của vấn đề này, trong những năm qua, mà rõ nhất là từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng đã quan tâm đến việc mở rộng giao lưu văn hóa nhằm tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu cho nền văn hóa nước nhà. Điều này thể hiện rõ trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, một nghị quyết chuyên đề về văn hóa có ý nghĩa quan trọng trong việc mở cửa giao lưu và tiếp biến văn hóa; tiếp đến là Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá X Về xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới và gần đây là Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII cũng chỉ ra yêu cầu mở cửa để nghiên cứu, tiếp thu những tinh hoa của lý luận văn nghệ thế giới nhằm xây dựng nền lý luận, phê bình văn học nước nhà theo hướng hiện đại. Những nghị quyết này chính là chiếc chìa khóa vạn năng, là căn tố có tính tất yếu để đẩy nhanh tiến trình hiện đại hoá nền lý luận, phê bình văn học dân tộc trong thời kỳ hội nhập và phát triển.

   Từ thực tiễn đời sống lý luận, phê bình văn học nước ta thời kỳ Đổi mới qua việc tiếp nhận lý thuyết văn nghệ phương Tây và yêu cầu hiện đại hoá nền lý luận, phê bình văn học dân tộc trong thời kỳ hội nhập và phát triển, thiết nghĩ đã đến lúc chúng ta cần đổi mới tư duy trong việc xây dựng nền lý luận, phê bình văn học nước nhà, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ toàn cầu hóa, theo chúng tôi nên tập trung vào những vấn đề sau:

   - Cần khảo sát và đánh giá lại việc tiếp nhận lý thuyết văn nghệ phương Tây của lý luận, phê bình văn học thời Đổi mới trên cả bình diện tiếp nhận và ứng dụng để tìm ra những tinh hoa lý luận văn nghệ phù hợp với yêu cầu của văn học nước nhà trên cơ sở những chuẩn giá trị của nền văn hóa dân tộc.

   - Muốn hiện đại hoá nền lý luận, phê bình văn học dân tộc, chúng ta không nên bảo thủ hoặc dị ứng với các trào lưu lý luận, phê bình hiện đại của thế giới, trong đó có lý luận, phê bình văn nghệ phương Tây, nhưng cũng không nên quá “nô lệ” vào nó mà phải tỉnh táo tiếp nhận các giá trị lý luận, phê bình văn nghệ này một cách khoa học để vận dụng sáng tạo vào việc xây dựng nền lý luận, phê bình văn học dân tộc.

   - Phải chú trọng đào tạo nguồn lực các nhà lý luận, phê bình theo hướng chuyên môn hoá, nghĩa là những người làm công tác lý luận, phê bình dù chuyên nghiệp hay không chuyên cũng phải là những người có “tay nghề”, có kiến thức thông tuệ, am hiểu nhiều lĩnh vực: văn hóa, xã hội, triết học, mĩ học, ngoại ngữ, công nghệ thông tin… có năng lực nghiên cứu độc lập và trên hết phải có phẩm chất đạo đức của người nghiên cứu khoa học, phải khách quan, công bằng trong việc thẩm định các hiện tượng văn học.

   - Phải chủ động giới thiệu và ứng dụng các trào lưu lý luận, phê bình nước ngoài vào việc nghiên cứu các hiện tượng văn học để có thể khám phá giá trị của các hiện tượng văn học từ nhiều điểm nhìn khác nhau, bởi từ đây sẽ mở ra những khía cạnh mới của đối tượng nghiên cứu và phê bình văn học, giúp người đọc cũng như các nhà nghiên cứu có thêm nhiều cách tiếp nhận các giá trị văn học, làm cho nền lý luận, phê bình văn học ngày càng đa dạng, phong phú. Điều này cũng thể hiện tinh thần dân chủ trong tiếp nhận văn học, một vấn đề chưa thật sự bình thường trong đời sống văn học của chúng ta, mặc dù đây là vấn đề hoàn toàn bình thường trong đời sống văn học thế giới, bởi theo Lộc Phương Thủy: “Việc giới thiệu, dịch thuật các tác phẩm học thuật nước nước ngoài ở Việt Nam còn chưa được bao nhiêu. Cần phải mở nhiều ô cửa ra thế giới tham khảo kinh nghiệm”5.

   - Sự vận động và phát triển tư duy lý luận, phê bình văn học chỉ có thể tồn sinh trên cơ sở của một nền lý luận, phê bình luôn đổi mới theo tinh thần năng động, cởi mở và dân chủ. Vì vậy, chúng ta cần có thái độ khách quan, khoa học trong việc tiếp nhận các trào lưu lý luận, phê bình văn học nước ngoài. Không nên độc tôn một trường phái lý luận, phê bình nào, xem đó như một chuẩn giá trị để định giá các trường phái khác và cho rằng những gì khác với hệ quy chiếu đó là lạc hậu, là phản động. Đồng thời phải thật sự cầu thị để tiếp nhận các giá trị được kết tinh từ những nền lý luận, phê bình hiện đại của nhân loại, có như thế mới đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá nền lý luận, phê bình văn học dân tộc trong thời kỳ hội nhập và phát triển theo tinh thần Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá X Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới, đó là cần “Tổ chức nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc thành quả lý luận văn học, nghệ thuật của ông cha và của thế giới, vận dụng sáng tạo, làm phong phú lý luận văn học Việt Nam hiện đại”6. Phải chăng đây cũng là những định hướng cơ bản để đổi mới tư duy lý luận, phê bình văn học trong thời kỳ hội nhập và phát triển nhằm xây dựng một nền lý luận, phê bình văn học Việt Nam đa dạng, phong phú, sinh động nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc?

   Xuất phát từ yêu cầu đổi mới lý luận, phê bình và thực tiễn sáng tác văn học, thiết nghĩ đã đến lúc cần phải nghiên cứu một cách thấu đáo, khách quan, khoa học thành tựu của lý luận, phê bình văn học thời kỳ Đổi mới từ việc tiếp nhận lý thuyết văn nghệ hiện đại phương Tây để tìm ra những bài học cần thiết cho sự phát triển nền lý luận, phê bình văn học nước nhà, bởi với việc mở rộng tiếp nhận lý thuyết văn nghệ phương Tây, lý luận, phê bình văn học thời kỳ Đổi mới đã có sự phát triển sinh động, phong phú nhưng cũng có những giới hạn nhất định cần được thức nhận. Song dù thế nào thì những thành tựu của lý luận, phê bình văn học từ việc tiếp nhận lý thuyết văn nghệ phương Tây hiện đại như đã trình bày ở trên cũng là một hệ giá trị cần trân quý và không thể phủ nhận vì nó giúp chúng ta hội nhập với thế giới, đáp ứng yêu cầu của xu hướng toàn cầu hóa, bởi nói như Nguyễn Khoa Điềm: “Dù đất nước đã mở cửa nhưng việc khai thác thành quả của lý luận hiện đại thế giới cũng như truyền thống lý luận của dân tộc lại chưa được nghiên cứu đầy đủ có hệ thống”7. Đây cũng là điều mà các nhà lý luận, phê bình cần suy ngẫm trong việc thực thi trách nhiệm và hoài bão của mình trong hành trình nghiên cứu khoa học nhằm xây dựng một nền lý luận, phê bình văn học nước nhà truyền thống mà hiện đại, với những phẩm tính dân tộc, nhân bản và khai phóng, phù hợp với thời kỳ hội nhập, phát triển của xu hướng toàn cầu hóa…

 

 

 

Chú thích:
1 Phương Lựu (2011), Lý thuyết văn học hậu hiện đại, NXB Đại học Sư phạm, tr. 7.
2 Nhiều tác giả (2001), Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học, NXB Khoa học xã hội, tr. 222.
3 Phạm Văn Đồng (1994), Văn hóa và đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, tr. 31.
4 Hoài Thanh (2003), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, tr. 15.
5 Lộc Phương Thủy: “Tác động của lý luận văn học nước ngoài đối với lý luận văn học Việt Nam”, Nghiên cứu Văn học, số 1/2005, tr. 17.
6 Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá X, NXB Chính trị quốc gia, 2008, tr. 23.
7 Nguyễn Khoa Điềm: “Phát biểu kết luận hội nghị lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật toàn quốc”, Tạp chí Nhà văn, số 4/2006, tr. 62.

Bình luận

    Chưa có bình luận