Dân tộc Chăm ở Việt Nam có dân số 178.948 người (số liệu thống kê năm 2019), sinh sống rải rác ở nhiều địa phương khác nhau như Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, Tây Ninh, An Giang, Thành phố Hồ Chí Minh... Trong đó, Ninh Thuận và Bình Thuận là nơi người Chăm tập trung đông nhất và hiện nay họ vẫn còn bảo lưu nhiều di sản văn hóa truyền thống.
Văn hóa Chăm từ lâu đã trở thành chủ đề hấp dẫn, lôi cuốn nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Theo thống kê của Nguyễn Hữu Thông, đã có khoảng 2.282 sách báo viết về người Chăm và văn hóa Chăm đã xuất bản1. Riêng về mảng văn học Chăm cũng phong phú, có nhiều thể loại khác nhau như: huyền thoại (sakkarai), truyền thuyết (damnây, am pam), sử thi (akayét), truyện thơ (ariya), truyện cổ tích (dalikal), truyện cười (dalikal buei klao), truyện ngụ ngôn (dalikal ar katé), ca dao (panuec yaw), tục ngữ, câu đố (panuec pandit), bài thánh ca (adaoh yang), kịch (puec jal)... Những tác phẩm này đến nay, một mặt vẫn còn được kể, ghi chép thành văn bản lưu giữ trong cộng đồng người Chăm, một mặt cũng đã được nhà nước xuất bản, giới thiệu rộng rãi đến công chúng trong và ngoài nước bằng nhiều hình thức khác nhau như sách, báo, truyền thanh, truyền hình, sân khấu. Nhờ đó, văn học không chỉ đã thấm sâu vào đời sống vùng đồng bào Chăm mà còn lan tỏa rộng khắp trong và ngoài nước.
Bên cạnh những thành tích đã đạt được như trên, ở chặng đường tiếp theo, chúng ta cần phải nhìn nhận vấn đề một cách nghiêm túc để làm sao khai thác hết nguồn tác phẩm văn học còn lại trong các làng Chăm hiện nay, đặc biệt nâng cao chất lượng các sản phẩm nghiên cứu về văn học phục vụ đời sống văn hóa, nghệ thuật của đồng bào Chăm nói riêng và cả nước nói chung. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi không giới thiệu tác phẩm, tác giả mà chỉ mong muốn đóng góp thêm về mặt lý luận, cụ thể là hướng tiếp cận, hệ thống lý thuyết, phương pháp nghiên cứu, chất liệu ngôn ngữ, nguồn tài liệu khai thác và cả vấn đề dịch thuật trong nghiên cứu văn học Chăm hiện nay và trong thời gian tới.
1. Tình hình nghiên cứu văn học Chăm: Những vấn đề thực tiễn
1.1. Những thành tựu Văn học
Chăm được các nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm sớm. Ngay từ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, những nhà khoa học nước ngoài như A. Landes (1887), E. Aymonier (1890), E. M. Durant (1905), P. Mus (1931)2, G. Moussay (1968-1974) cùng cộng sự người Chăm như Thiên Sanh Cảnh, Lâm Gia Tịnh, Trượng Tốn… đã tiến hành sưu tầm, giới thiệu những tác phẩm văn học Chăm3. Nhóm này cùng với cộng tác viên của người Chăm với lợi thế biết chữ Chăm nên chủ yếu chỉ chuyên sưu tầm những tác phẩm văn học Chăm nối tiếng bằng văn bản như các loại sử thi (akayét dewa mano, indra patra, um marup), bộ sưu tập truyện cổ (dalikal), huyền thoại và truyền thuyết (sakkarai, damnay) và một số văn chương tôn giáo như những bài cúng tế (tiap kaleng), bài thánh ca (adaoh yang). Sau khi sưu tầm được tác phẩm, nhóm này tiến hành sao chép lại văn bản gốc bằng tiếng Chăm (akhar thrah), rồi in nhân ra nhiều bản để lưu giữ và phổ biến ở làng Chăm, chưa làm công tác nghiên cứu như giới thiệu, phân tích tác phẩm, tác giả, dịch thuật.
Sau năm 1975, một số tác giả nước ngoài cũng tiếp tục nghiên cứu văn học Chăm. Đi tiên phong lĩnh vực này vẫn là những nhân viên Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp (EFEO) như PGS, TS Po Dharma cùng cộng sự: Linh mục G. Moussay và một số nhà nghiên cứu người Chăm như Dương Tấn Thi Abul Karim, Báo Thị Hoa tiếp tục cho ra mắt nhiều tác phẩm văn học Chăm như Akayét Dewa Mano, Akayét Inra Patra, Akayét Um Marup, Panuec Pandit và CD Dalikal (truyện cổ Chăm)4… Nhóm này có tiến bộ hơn nhóm trước, nếu như nhóm trước chỉ sưu tầm văn bản thô thì nhóm này tuy không phân tích tác phẩm nhưng mỗi tác phẩm họ đều có giới thiệu tóm tắt nội dung, nguồn gốc văn bản của tác phẩm được sưu tầm bằng nhiều thứ tiếng khác nhau như tiếng Pháp, tiếng Anh và tiếng Mã Lai (không có tiếng Việt) và phiên chữ Chăm truyền thống (akhar thrah) sang tiếng Latinh.
Riêng ở trong nước, sau 1975, các tác giả Việt Nam cũng bắt tay nghiên cứu văn học Chăm, tiêu biểu là các tác giả người Việt như GS, TSKH Phan Đăng Nhật, Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Xuân Kính, Trương Sĩ Hùng, Tùng Lâm, Nguyễn Hữu Thông… Nhóm tác giả này cũng có sự cộng tác của trí thức Chăm tiêu biểu lúc đó như: Thiên Sanh Cảnh, Lâm Gia Tịnh, Trượng Tốn... Ưu điểm của nhóm này là nhanh chóng phổ biển được một số tác phẩm văn học Chăm trên một số sách và tạp chí cho cả nước biết đến nhưng nhược điểm là chủ yếu nghiên cứu văn học Chăm qua truyện kể, chứ chưa tiếp cận qua văn bản Chăm, vì thế những công trình này giá trị chưa cao5.
Tiếp tục những công trình trên, bắt đầu từ năm 1995 đến nay, xuất hiện một số tác giả gốc Chăm như Inrasara với những công trình đáng chú ý: Văn học Chăm I, Văn học Chăm II (Trường ca), Ariya Chăm, ca dao tục ngữ và một số tác phẩm thơ văn, tiểu thuyết đương đại mà tác giả này tự sáng tác bằng tiếng Việt6... Bên cạnh Inrasara, còn có nhóm người Chăm khác: Sử Văn ngọc, Sakaya, Gia Trang và Phước Thuyết cũng nghiên cứu văn học Chăm, đã công bố một số tác phẩm: Truyện cổ Chăm (dalikal), Huyền thoại và truyền thuyết Chăm (Sakkarai Cam), Sử thi Raglai, những bài thánh ca (adaoh kadhar, adaoh maduen)7... Ưu thế của nhóm tác giả này là người gốc Chăm biết tiếng Chăm nên tiếp cận được tác phẩm văn học Chăm qua văn bản rất thuận lợi, từ đó giúp họ giới thiệu một cách chân thật nhất về diện mạo, linh hồn của những tác phẩm văn học Chăm.
Trên đây là những thành tựu trong việc nghiên cứu văn học Chăm trong khoảng thời gian 50 năm sau ngày hòa bình, thống nhất đất nước mà chúng ta cần ghi nhận và trân trọng.
1.2. Những hạn chế
Rõ ràng, những công trình nghiên cứu trên, đa số nghiêng về sưu tầm tài liệu, dịch thuật từng tác phẩm riêng lẻ, chưa có tác giả nào đặt nền tảng lý luận, phác họa được diện mạo văn học Chăm một cách có hệ thống. Mặc dù trong quá trình nghiên cứu, có một số tác giả trên có cố gắng làm việc này nhưng vì chỉ bám vào khung lý thuyết, đề cương của văn học Việt Nam để vạch ra “con đường tìm đến văn học Chăm”. Vì thế một số nhận định của các tác giả chưa phù hợp so với khuôn khổ văn học Chăm. Vì ngôn ngữ - văn hóa Chăm thuộc ngữ hệ Mã Lai – Đa Đảo, có ảnh hưởng nền văn minh Ấn Độ và Ả Rập từ lâu đời. Do vậy, văn học truyền thống Chăm, ngoài những cái riêng còn có những đặc điểm chung với văn học của các tộc người Mã Lai - Đa Đảo, nhất là có ảnh hưởng văn học Ấn Độ và Ả Rập qua quá trình truyền giáo. Đến thế kỷ XIX-XX, nhất là thời Nguyễn, khi hội nhập vào cộng đồng các dân tộc Việt Nam thì Ariya Chăm có vay mượn một số lớp từ Hán - Việt liên quan đến tổ chức hành chính để diễn đạt trong Ariya nhưng không đáng kể.
Hơn nữa, văn học Chăm nói riêng, văn hóa Chăm nói chung chủ yếu tồn tại trên văn bản, vì người Chăm có chữ viết lâu đời, từ thế kỷ thứ II, mà bia chữ Phạn (Võ Cạnh) ở Nha Trang - Khánh Hòa là bằng chứng. Họ sớm dùng chữ viết để ghi chép những sự kiện, sáng tác văn chương trên bia đá, lá buông và giấy là phổ biến. Những tác phẩm văn học Chăm ít khi được kể, truyền miệng mà họ thường chép tác phẩm truyền tay nhau, cần thiết thì họ lấy văn bản ra tự đọc. Văn hóa Chăm là văn hóa đọc chứ không phải văn hóa kể như một số dân tộc khác. Hiện nay có hàng ngàn văn bản, trong đó có tác phẩm văn học được người Chăm ghi chép và sáng tác trên lá buông và các loại giấy khác đang còn lưu giữ trong cộng đồng Chăm. Vì thế, muốn tiếp cận văn học Chăm có hiệu quả, điều trước tiên là cần phải biết chữ Chăm để đọc trực tiếp tác phẩm thay vì nghe người kể lại thường hay thiếu trước hụt sau.
Vấn đề tiếp cận những tác phẩm văn học Chăm qua văn bản, trước 1975, một số học giả người Pháp làm rất tốt nhưng họ chỉ sưu tầm để bảo tồn, chưa làm công tác dịch thuật để phổ biến rộng rãi. Sau năm 1975, đa số những tác giả nghiên cứu văn học Chăm ở Việt Nam do không biết chữ Chăm nên chủ yếu khai thác, sưu tầm tác phẩm văn học Chăm thông qua truyện kể và lời dịch tiếng Việt, mảng này nhiều nhất là các tác giả nghiên cứu, sưu tầm truyện cổ Chăm, trừ mấy tác giả (Inrasara, Sakaya và Sử Văn Ngọc) tiếp cận văn học Chăm bằng văn bản. Vì thế, những tác giả không biết tiếng Chăm khó có thể sưu tầm, phân loại, khai thác hết nội dung văn học Chăm, đặc biệt là chưa cảm nhận được hết giá trị của các tác phẩm nên dẫn đến một số nhận định của các tác giả trên chưa xác đáng, khoa học cả về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Hệ quả nhiều tác giả nghiên cứu văn học Chăm nhưng chưa nhận diện rõ được các thể loại văn học Chăm, còn lẫn lộn giữa huyền thoại (sakkarai), truyền thuyết (damnây), truyện cổ (dalikal), sử thi (akayét), truyện thơ (ariya) và những bài thánh ca (adaoh yang)… Trong những năm gần đây, một số tác giả còn đặt vấn cho rằng thơ ariya truyền thống của người Chăm là loại thể thơ gì: thơ lục bát, song thất lục bát, thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt hay thể thơ tự do? Nếu là thơ lục bát thì đó là thể thơ truyền thống của người Chăm hay người Chăm ảnh hưởng thể thơ đó từ người Việt? Ai ảnh hưởng ai? Sự thật thơ ariya Chăm là thơ lục bát rất hiếm, mà cái độc đáo của thơ Chăm là thơ tự do có gieo vần, không phụ thuộc vào số từ trong câu, chứ không phải là lục bát hay không lục bát. Vì từ xa xưa “người Chăm đã ý thức rằng thơ hay đâu phải ở chỗ tìm vần, ghép chữ mà là ở tứ mới, tình sâu và giàu hình ảnh sinh động”, đó chính là cái độc đáo tạo nên bản sắc riêng của thơ Chăm mà chúng ta nên lưu ý8.
Về chất liệu ngôn ngữ trong thơ văn, theo Phạm Đặng Xuân Hương: Trong chuyên ngành văn học dân gian hiện nay, đối với các tác phẩm văn học dân tộc thiểu số, việc các nhà nghiên cứu có thể phân tích trực tiếp trên văn bản ghi chép tiếng địa phương, hay trực tiếp nghe hát - kể bằng tiếng dân tộc vẫn còn là một công việc khó khăn và chưa phổ biến. Trong khi có một thực tế chúng ta chỉ có thể khám phá trọn vẹn cái hay, cái đẹp của tác phẩm, đặc biệt về phương diện ngôn ngữ, nếu như có đủ khả năng làm việc trực tiếp với văn bản bằng tiếng dân tộc của những chủ nhân sáng tạo ra nó. Mã ngôn ngữ là một thân cầu trung chuyển giữa một bên là mã văn hóa và một bên điểm đến là mã thẩm mĩ. Do đó, chỉ có tiếp cận trực tiếp với “ngôn ngữ gốc” thì chúng ta mới có thể hiểu được gốc rễ văn hóa và thẩm mĩ của tác phẩm. Mọi nhận định đến từ văn bản dịch đều có tính “tương đối” và phần nào “võ đoán”9.
Nhận định được tầm quan trọng của ngôn ngữ dân tộc như trên, Đảng và Nhà nước ta luôn có chủ trương, đường lối kịp thời, đúng đắn; không chỉ có tính bảo tồn, phát huy ngôn ngữ các dân tộc thiểu số mà còn kịp thời xây dựng đề án cho các cán bộ người Kinh công tác ở vùng dân tộc thiểu số học tiếng dân tộc thiểu số. Cụ thể là Chỉ thị số 38/2004/CT-TTG của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số đối với cán bộ, công chức công tác ở vùng dân tộc, miền núi… Theo đó, các tỉnh có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, các ngành chức năng đã triển khai dạy và học tiếng dân tộc thiểu số đối với cán bộ, công chức. Riêng ở tỉnh Ninh Thuận, nơi có đông đồng bào Chăm sinh sống, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Ninh Thuận đã có Quyết định 3002/QĐ-UBND ngày 30/7/2007 phê duyệt, triển khai đề án dạy tiếng Chăm cho cán bộ. Kết quả từ năm 2007 đến năm 2022, tỉnh Ninh Thuận đã mở các lớp đào tạo tiếng Chăm cho 328 cán bộ người Kinh. Trước năm 2007, Trường Chính trị tỉnh cũng đã phối hợp với Sở Nội vụ và Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Ninh Thuận mở 03 lớp riêng (khoảng 150 người) vào năm 2005 để đào tạo chữ Chăm cho các đồng chí công an10. Đó là những kết quả đáng mừng. Tuy nhiên, trong số học viên tham gia học tiếng Chăm, không riêng gì ở Ninh Thuận mà ở cả nước, chưa có nhà nghiên cứu nào (trừ những người gốc Chăm) làm công tác nghiên cứu văn hóa, nghiên cứu văn học hoặc chuyên ngành dân tộc học liên quan đến dân tộc Chăm tham gia học tiếng Chăm và biết nói tiếng Chăm để đọc văn bản văn học Chăm.
Từ những vấn đề hạn chế nêu trên, việc đặt lại vấn đề nghiên cứu văn học Chăm trên cả phương diện lý luận (lý thuyết, phương pháp nghiên cứu, hướng tiếp cận, nguồn tài liệu, chất liệu ngôn ngữ) và thực tiễn là việc làm rất cần thiết nhằm mở thêm góc nhìn mới về văn học Chăm ở Việt Nam. Từ đó, chúng ta mới có cơ sở lý luận vững chắc để soi rọi, chỉ đường nhằm phác họa lại những vấn đề cơ bản về lịch sử, chủ đề, nội dung, tư tưởng, nghệ thuật của văn học Chăm một cách toàn diện. Hi vọng việc này sẽ góp một phần quan trọng trong việc sưu tầm, nghiên cứu, giới thiệu văn học Chăm một cách khoa học hơn trong bối cảnh hiện nay.
2. Gợi mở một số vấn đề về cơ sở lý luận trong việc nghiên cứu văn học Chăm
2.1. Hướng tiếp cận văn học
Chăm Để tiếp cận văn học Chăm đúng hướng, thiết nghĩ ngoài những vấn đề chung về văn học, chúng ta nên tiếp cận theo ba hướng/ tuyến chính như sau: hướng tiếp cận đặc điểm lịch sử văn học; hướng tiếp cận nội dung, tư tưởng, nghệ thuật và hướng tiếp cận nghiên cứu văn học gắn với vùng/ khu vực văn hóa để so sánh.
- Hướng tiếp cận theo tuyến lịch sử (văn học sử): Giáo sư Lê Trí Viễn viết: “Đi sâu vào tuyến lịch sử [của văn học] để nêu ra đặc điểm lớn có tính đặc thù trong lịch sử dân tộc”11. Điều này thể hiện rất rõ trong văn học Chăm. Chúng ta có thể chia văn học Chăm làm ba thời kỳ lịch sử lớn như sau: thời kỳ đầu từ thế kỷ II đến thế kỷ XV, văn học Chăm ở vùng phía Bắc Champa (vùng Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng, Bình Định) chủ yếu ảnh hưởng văn học Ấn Độ có nhiều thành tựu rực rỡ gắn với thời kỳ hùng mạnh của Vương quốc Champa; thời kỳ thứ hai, văn học Chăm vùng Panduranga – phía Nam Champa (Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay) gắn với sự suy vong của Vương quốc Champa có sự dung hòa giữa văn chương ảnh hưởng Ấn Độ và văn chương Hồi giáo (Mã Lai và Ả Rập); thời kỳ thứ ba, văn học Chăm vùng Panduranga hội nhập vào cộng đồng các dân tộc Việt từ đầu thế kỷ XIX, bắt đầu từ triều Nguyễn cho đến nay có ảnh hưởng văn học Việt (Kinh). Ba dòng văn học trên có đặc điểm, nội dung khác nhau ở từng thơi kỳ lịch sử và bị tác động, chi phối bởi yếu tố lịch sử. Ba dòng văn học Chăm thể hiện rất rõ quá trình vận động theo không gian, thời gian, từ lúc phát sinh, phát triển, đến suy vong và chỉ mới bắt đầu hồi sinh từ sau 1975 đến nay.
- Hướng tiếp cận theo nội dung tư tưởng, ngôn ngữ và nghệ thuật: Giáo sư Lê Trí Viễn cũng từng viết: “Đi sâu vào tuyến văn học bằng nội dung tư tưởng, ngôn ngữ văn tự và nghệ thuật như là công cụ để diễn đạt và chất liệu để sáng tác văn học”12. Đi theo hướng tiếp cận này sẽ nhận ra được đặc điểm chung và riêng cũng như mức độ ảnh hưởng của văn học Chăm với văn học các dân tộc khác. Ví dụ, nhờ hướng tiếp cận này mà chúng tôi nhận thấy truyện cổ tích (dalikal), truyện cười (dalikal buai klao) Chăm mang yếu tố thuần bản địa, kể cả nội dung, motif cốt truyện và nghệ thuật ngôn từ; những tác phẩm này chủ yếu sử dụng chất liệu ngôn ngữ, lớp từ vựng thuần Chăm; ở đây chưa thấy bóng dáng của các tôn giáo lớn, đa số tác phẩm phản ánh tư duy đơn giản của người xưa, mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên và một số truyện phản ánh đấu tranh giai cấp, nông dân chế giễu quan lại và vua chúa. Còn truyện thơ (ariya) và sử thi (akayét) Chăm có ảnh hưởng nội dung, motif truyện thơ Mã Lai, Ấn Độ và Ả Rập, có chứa đựng nhiều ngôn ngữ, lớp từ Phạn, Mã Lai và Ả Rập; tư tưởng của mỗi tác phẩm trên bộc lộ rõ nét tư tưởng tôn giáo (Ấn Độ giáo và Hồi giáo)…
- Hướng tiếp cận theo tuyến vùng và khu vực văn hóa: Tiếp cận văn học Chăm theo hướng này sẽ giúp chúng ta nghiên cứu so sánh văn học Chăm với các nền văn học khác ở khu vực. Trên cơ sở này, chúng ta sẽ rất dễ dàng làm nghiên cứu so sánh các tác phẩm văn học ở mỗi dân tộc, mỗi vùng hay quốc gia khác nhau (về chủ đề, thể loại, nội dung và tư tưởng, nghệ thuật). Từ đó, có thể tìm ra mối quan hệ giữa văn học Chăm và văn học Mã Lai (yếu tố đồng văn, đồng chủng); mối quan hệ văn học Chăm với văn học Ấn Độ và Ả Rập qua quá trình giao lưu, tiếp biếp văn hóa trong lịch sử, chủ yếu là con đường truyền giáo; mối quan hệ giữa văn học Chăm và văn học người Việt (Kinh), bên cạnh những yếu tố chung về cơ tầng văn hóa Đông Nam Á, còn nhìn thấy được rất rõ sự khác biệt giữa văn học Chăm có ảnh hưởng văn minh Mã Lai, Ấn Độ và Ả Rập khác với văn học người Việt ảnh hưởng văn minh Trung Hoa, lấy tư tưởng Nho giáo là cốt yếu. Trong bối cảnh hiện nay, nhận rõ sự khác biệt là rất cần thiết để giữ gìn bản sắc riêng, khỏi bị hòa tan trong dòng chảy của toàn cầu hóa.
2.2. Lý thuyết nghiên cứu Ngoài nền tảng của chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ đạo, nghiên cứu văn học
Chăm cũng cần có thêm một số trường phái lý thuyết khác nhau hỗ trợ để lý giải những vấn đề trong nội dung văn học Chăm. Cụ thể, nên dùng lý thuyết cấu trúc của V. Ia Propp để phân tích cấu trúc nội dung văn bản, tác phẩm văn học bao gồm các kiểu (style) và motif cốt truyện13. Dùng lý thuyết giao lưu, tiếp biến văn hóa của các nhà nhân học Mĩ để tìm ra mối quan hệ, giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa văn học Chăm với các dân tộc khác như Việt (Kinh), Mã Lai, Ấn Độ và Ả Rập.
Dùng lý thuyết sinh thái - văn hóa của Julian Steward để tìm ra sắc thái văn hóa, trong đó có tác phẩm văn học, vì môi trường sinh thái phản ánh rất rõ nét trong mỗi vùng văn hóa, mỗi tác phẩm văn học. Ví dụ: trong tác phẩm akayét Um Marup của người Chăm vùng Panduranga có mô tả quang cảnh tự nhiên một vùng rất đẹp, thơ mộng, có đàn cừu đi trên bãi cát trắng, sa mạc chạy dài, đổi màu lấp lánh theo ánh nắng mặt trời, xen lẫn là những cây chà là14…; từ phong cảnh này, chúng ta xác định tác phẩm sử thi Um Marup có nguồn gốc Ả Rập, ảnh hưởng Ả Rập, du nhập theo con đường truyền bá đạo Hồi vào Champa, vì ở vùng Champa hay Đông Nam Á không có cây chà là và loại cây này chỉ mọc phổ biến ở vùng sa mạc Ả Rập.
Ngoài ra, chúng ta có thể dùng lý thuyết đặc thù lịch sử (hay gọi là tương đối luận) của F. Boas để giải thích sự khác biệt văn hóa ở mỗi vùng hay mỗi tác phẩm văn học, vì sự khác biệt này tùy thuộc vào bối cảnh lịch sử, bối cảnh xã hội, môi trường sinh thái quy định chứ không phải do dân tộc này tài giỏi, thông minh hơn dân tộc kia nên đã tạo ra sự khác biệt, tạo nên những tác phẩm bác học, xuất sắc. Mỗi nền văn hóa nói chung hay mỗi tác phẩm văn học nói riêng của mỗi dân tộc đều có giá trị ngang nhau, đáp ứng nhu cầu riêng của mỗi dân tộc đó trong thời điểm lịch sử, bối cảnh xã hội nhất định15.
2.3. Nguồn tài liệu, chất liệu ngôn ngữ trong văn học Chăm
Học ngôn ngữ Chăm để khai thác những tác phẩm văn học Chăm ghi chép trên văn bản. Như trên đã trình bày, người Chăm có chữ viết từ lâu đời nên những di sản văn hóa, nhất là những tác phẩm văn học, đều được ghi chép lại bằng văn bản với nhiều dạng khác nhau như ghi chép trên bia ký, trên lá buông và trên giấy. Theo thống kê sơ bộ, đến nay những tác phẩm văn học được người Chăm ghi chép trên lá buông và trên giấy vẫn còn lưu giữ kỹ trong từng gia đình ở các làng Chăm. Vì thế muốn nghiên cứu văn hóa Chăm nghiêm túc, bên cạnh nghe lại những câu truyện kể từ nghệ nhân, những nhà nghiên cứu nên học ngôn ngữ Chăm để khai thác, đọc và xử lý trực tiếp các tác phẩm văn học Chăm ghi chép trên văn bản.
Cách xử lý văn bản văn học Chăm: Sưu tầm văn bản văn học Chăm là điều khó, xử lý văn bản văn học Chăm càng khó hơn, vì văn bản viết tay và được chép qua chép lại nhiều lần nên có nhiều dị bản và một số chữ viết khó đọc. Một số tác phẩm, tác giả còn hay chơi chữ, dùng từ cổ, từ khó, từ trừu tượng, bay bổng, cao siêu nên muốn đọc và hiểu văn bản Chăm, ngoài kiến thức văn học còn đòi hỏi giỏi chữ nghĩa Chăm. Quan trọng hơn là cách xử lý văn bản văn học Chăm như thế nào là đúng. Hiện nay, nhóm nghiên cứu văn học Chăm tiếp cận qua văn bản có hai cách xử lý văn bản văn học như sau:
- Trường hợp 1: Công bố nguyên hiện trạng văn bản gốc. Khi sưu tầm văn bản, các nhà nghiên cứu thường để nguyên hiện trạng văn bản gốc để công bố. Trường hợp này là cách bảo tồn tốt nhất về văn bản học nhưng rất khó khăn cho độc giả thông thường, vì văn bản cổ dân tộc nào cũng vậy, do người xưa ghi chép lại, do đó có một số chữ viết, từ ngữ không rõ ràng, không thống nhất hoặc bị mờ do trải qua thời gian nên độc giả sẽ khó khăn khi đọc chúng. Đây là công việc của nhà sưu tầm thuần tuý thường làm. Trường phái này có nhóm nghiên cứu văn học Chăm trước 1975 thực hiện, chủ yếu là người Pháp.
- Trường hợp 2: Công bố nguyên hiện trạng văn bản gốc nhưng có sửa chữa một số lỗi chính tả và phụ giải khác bằng những chú thích và những từ sửa đặt phụ trong dấu móc [<…] hoặc ngoặc đơn (…) trong bản phiên âm Latinh. Ví dụ: từ “nếu” (mayah) trong quá trình viết tháo, viết nhanh, người Chăm chỉ viết “yah”. Khi gặp trường hợp này, một mặt giữ nguyên chữ sai “yah” đồng thời phải viết lại chữ đó cho đúng, đặt trong dấu móc như thế này: [
- Trường hợp 3: Sửa chữa và xóa bỏ hết dấu vết của những lỗi sai trong văn bản và có chú thích, chú giải, dịch thuật. Khi sưu tầm văn bản, người sưu tầm và biên soạn tự đọc, tự sửa chữa và xóa bỏ hết dấu vết của những lỗi sai trong văn bản theo suy nghĩ chủ quan của họ. Phương pháp này đang bị giới khoa học phản đối, vì khi sưu tầm văn bản, cứ mỗi người, từ thế hệ này sang thế hệ khác, ai cũng muốn sửa chữa và xóa đi những dấu vết sai của văn bản gốc theo thiển ý cá nhân của mình thì vô cùng tai hại. Ai cũng làm như vậy thì sẽ làm văn bản gốc bị biến dạng, dẫn đến nhiều sai sót chứ không phải là bảo tồn và cứu vớt văn bản. Trường hợp này thường xảy ra ở một số nhà nghiên cứu văn học gốc Chăm ở Việt Nam.
Tham khảo ba trường hợp xử lý văn bản vừa nêu trên, theo chúng tôi, nên khuyến khích chọn cách công bố nguyên hiện trạng văn bản gốc nhưng có sửa chữa một số lỗi chính tả và phụ giải khác nằm trong dấu móc [<…] hoặc dấu ngoặc đơn (…) trong bảng phiên âm Latinh và cuối cùng cũng nên có bảng dịch. Đầu tiên, khi sưu tầm được văn bản, nên đánh máy vi tính lại từng trang văn bản chữ Chăm (hiện nay vi tính đã có font chữ Chăm), sau đó phiên âm ra chữ Latinh, rồi dịch tiếng Việt có chú thích, chú giải những từ khó.
2.4. Vấn đề dịch thuật
Về vấn đề dịch thuật và công bố tác phẩm văn học Chăm, hiện nay các nhà nghiên cứu có ba cách làm như sau:
Một là, không có bản dịch cho văn bản gốc. Trường hợp này thường rơi vào những nhà nghiên cứu người Pháp (Viện Viễn Đông Bác cổ) khi sưu tầm, xử lý văn bản liên quan đến văn học Chăm, họ thường không có bản dịch mà chỉ lưu giữ chữ viết gốc của văn bản, phiên âm Latinh, làm từ vựng (index) và viết tóm tắt nội dung tác phẩm, còn độc giả nào muốn cảm thụ tác phẩm văn học Chăm thì phải đọc trực tiếp văn bản gốc. Ưu điểm cách làm này là bảo tồn được văn bản gốc nhưng không giới thiệu, công bố rộng rãi tác phẩm văn học Chăm đến với công chúng.
Hai là, cách dịch thô, dịch nghĩa tác phẩm văn học Chăm: một số tác giả luôn trung thành bám sát nội dung, chữ nghĩa văn bản gốc để dịch và thường xuất bản theo hình thức song ngữ (Chăm - Việt) để độc giả dễ đọc, so sánh, đối chiếu giữa bản gốc và bản dịch. Nhược điểm của cách dịch này là đọc không hay, khó đọc, thậm chí ngây ngô nhưng ưu điểm, lợi thế là giữ được ít nhiều nội dung, linh hồn của tác phẩm gốc, ít bị sai lệch, bảo đảm tính khoa học.
Ba là, dịch văn học: người dịch chỉ đọc văn bản, nắm ý chính, dịch thoáng, có thêm bớt câu từ vào theo thiển ý chủ quan của người dịch để cho hay, cho đúng giọng văn tiếng Việt; khi công bố lại hay lược bỏ phần tiếng Chăm (phần văn bản gốc), chỉ công bố bản dịch tiếng Việt. Việc làm này sẽ làm mất đi văn bản gốc của tác phẩm văn học Chăm, chỉ còn lại đứa con lai qua bản dịch tiếng Việt. Cách làm này là trái ngược với chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về việc bảo tồn ngôn ngữ, chữ viết của đồng bào Chăm nói riêng và đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung.
Nói chung vấn đề dịch thuật bất cứ ngôn ngữ nào cũng rất khó khăn bởi hai ngôn ngữ khác nhau sẽ có hai phông nền văn hóa khác nhau, do đó rất khó có thể dịch chính xác nghĩa của từng chữ một theo kiểu dịch đối chiếu từ vựng (Chăm - Việt hay Việt - Chăm). Khi dịch thơ cũng vậy, rất khó để giữ sao cho đúng nhịp thơ cũng như cách hiệp vần giữa thơ Chăm (ariya) và thơ tiếng Việt trong bản dịch. Vì thế, nhiều nhà nghiên cứu có kinh nghiệm như GS Đặng Nghiêm Vạn cho rằng: Càng cố dịch cho hay thì càng phản nghĩa, bản dịch càng xa văn bản gốc nên xin đừng làm vậy. Có thể cũng vì lý do này, những nhà nghiên cứu người Pháp không đưa ra bản dịch (tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Pháp hay tiếng Mã Lai…) khi sưu tầm, giới thiệu văn bản Chăm như đã trình bày ở trên.
Thiết nghĩ những cách xử lý văn bản, cách dịch văn bản mà chúng tôi vừa nêu trên, những nhà nghiên cứu văn học Chăm nên tham khảo, chọn cách xử lý, cách dịch văn bản Chăm như thế nào cho khoa học, phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về bảo tồn văn hóa cũng như ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết) của người Chăm trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
3. Kết luận
Qua việc trình bày trên, nội dung bài viết này không đi sâu, cũng không giới thiệu tác giả, tác phẩm tiêu biểu nào của văn học Chăm mà chỉ đi trên cơ sở thực tiễn việc nghiên cứu sưu tầm văn học Chăm 50 năm qua để bổ sung thêm cơ sở lý luận như hướng tiếp cận, phương pháp nghiên cứu, lý thuyết nghiên cứu, cách xử lý văn bản và dịch thuật tác phẩm văn học Chăm.
Những cơ sở lý luận nêu trên được chúng tôi đúc kết hơn 30 năm nghiên cứu về văn hóa Chăm nói chung, văn học Chăm nói riêng. Thiết nghĩ trong nghiên cứu bất cứ lĩnh vực nào, cơ sở lý luận cũng rất quan trọng, có nhiệm vụ đi trước, chỉ dẫn, soi đường để chúng ta áp dụng, làm sinh động thêm những vấn đề thực tiễn. Theo đó, chúng ta thấy, 50 năm qua, vấn đề nghiên cứu văn học Chăm mặc dù có những thành quả nhất định nhưng chưa hoàn toàn mĩ mãn. Những công trình văn học Chăm đã công bố chưa có một hệ thống khoa học vững chắc, yếu về lý luận, chỉ mới công bố một vài công trình, tác phẩm lẻ tẻ, chưa xứng tầm với di sản văn học Chăm đồ sộ hiện có trong thực tiễn đời sống ở vùng đồng bào Chăm hiện nay.
Hi vọng với những cơ sở lý luận mà chúng tôi vừa trình bày trên sẽ góp phần vào việc định hướng, khai thác, nghiên cứu, giới thiệu tiềm năng văn học Chăm một cách có hệ thống, góp phần làm phong phú, đa dạng nền văn học Việt Nam trong bối cảnh mới. Đặc biệt, giúp Đảng, Nhà nước, các ngành chức năng, cơ quan nghiên cứu, viện nghiên cứu, trường đại học có tư liệu tham khảo thêm, đưa lý luận văn học Chăm vào thực tiễn, định hướng đúng công tác sưu tầm, nghiên cứu văn học Chăm. Điều này sẽ góp phần quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc Chăm cũng như di sản văn hóa của các dân tộc thiểu số Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết số 24–NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ngày 12/3/2003 Về công tác dân tộc và Nghị quyết số 2020/120/QH14 của Quốc hội Phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2011-2030.
Chú thích:
1 Nguyễn Hữu Thông (2003), Tổng thư mục Champa, NXB Thuận Hóa.
2 A. Landes, Contes Tjames, Exe, et Rec, XIII, 29, Paris, 1987, tr. 59-130; E. Aymonier, Légendes historiques des Chames, Exe, et Rec, No. 32, 1890; M. Durant, “Légendes historiques Po Cah Inu”, trong BEFEO. 1905 và “Le Conte de Cendrillon”, trong BEFEO, XII, 1912, p. 135; P. Mus, “Deux légendes Chames”, trong BEFEO, XXX, 1931, p. 39-102.
3 G. Moussay, Khảo lục nguyên cảo Chàm, Dewa Mưno, Inra Patra (1974), Ariya Glang Anak (1968), do Trung tâm VHC Phan Rang ấn hành; Thiên Sanh Cảnh, “Ariya Glang Anak” và “Ariya Dewa Mano”, trong Nội san Panrang, Tiếng nói của Cộng đồng Sắc tộc, từ số 1, tháng 9/1972 đến số 8, tháng 5/1974 (kết thúc).
4 Po Dharma, G. Moussay, Abdul Karim, 1997, 1998, 2000, 2009, Sđd; G. Moussay – Dương Tấn Thi, Peribahasa Cam (Dictons & Proverbes Cam), No.4, EFEO, Kuala Lumpur, 2002.
5 Phạm Xuân Thông, Thiên Sanh Cảnh, Nông Quốc Thắng (1978), Truyện cổ Chàm, NXB Văn hóa dân tộc. Tùng Lâm và Quảng Ðại Cường (1983), Truyện thơ Chàm, NXB Văn hóa. Trương Hiến Mai, Nguyễn Thị Bạch Cúc, Sử Văn Ngọc, Trượng Tốn (2002), Truyện cổ dân gian Chăm, NXB Văn hóa dân tộc. Phan Ðăng Nhật, “Thử xác định loại hình tác phẩm Ðêva Mưno Chăm”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 4/1997, tr. 35-37.
6 Xem: Inrasara (1995), Văn học Chăm, tập I, NXB Văn hóa dân tộc; Văn học Chăm, tập II, Trường ca, NXB Văn hóa dân tộc, 1996; Ariya Chăm, NXB Văn hóa dân tộc, 2006; Ca dao tục ngữ Chăm, NXB Văn hóa dân tộc, 2008; Sử thi Chăm, NXB Khoa học xã hội, 2009.
7 Sakaya (Văn Món): “Sử thi người Chăm - Vấn đề sưu tầm và nghiên cứu”, trong Tạp chí Văn hóa dân gian, Viện Văn hóa dân gian, số 4/2003, tr. 50-55 hoặc trong sách Tổng tập Văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nhận định và Tra cứu, tập 23, NXB Khoa học xã hội, 2009, tr. 412-438; Sakaya (Chủ biên, 2017), Truyện dân gian Chăm, NXB Văn hóa dân tộc; Sakaya (Chủ biên, 2018), Huyền thoại và Truyền thuyết Chăm, NXB Tri thức; Sakaya (Chủ biên, 2017), Sử thi Raglai, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
8 Sakaya (2011), Văn hóa Chăm: Nghiên cứu và phê bình, tập I, NXB Phụ nữ, tr. 409-447.
9 Phạm Đặng Xuân Hương (2016), Đặc điểm thể loại sử thi Chương ở Việt Nam, NXB Văn hóa dân tộc, tr. 7.
10 Theo Báo cáo sơ bộ (dự thảo) số 161 CV/TCT ngày 5/10/2023 của Trường Chính trị tỉnh Ninh Thuận (cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số ở Ninh Thuận) chuẩn bị Hội nghị sơ kết chương trình đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc Chăm – Raglai giai đoạn 2007-2022.
11, 12 Lê Trí Viễn (1987), Đặc điểm lịch sử văn học Việt Nam, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, tr. 17.
13 La Mai Thi Gia (2015), Motif trong nghiên cứu truyện kể dân gian: Lý thuyết và ứng dụng, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
14 Inrasara (1996), Văn học Chăm, tập II, Trường Ca, NXB Văn hóa dân tộc, tr. 79; Po Dharma cùng các tác giả (2007), Akayayét Umarup, EFFO xuất bản tại Kuala Lumpur.
15 Xem: Belik (2000): “Văn hóa học: Những lý thuyết Nhân học văn hóa”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật; Alan Barnars (2015), Lịch sử và Lý thuyết nhân học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.