THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA LÝ LUẬN, PHÊ BÌNH VĂN HỌC 50 NĂM SAU NGÀY ĐẤT NƯỚC THỐNG NHẤT

Bài viết phân tích, đánh giá thực trạng lý luận, phê bình văn học 50 năm sau ngày đất nước thống nhất với những thành tựu và hạn chế trong các giai đoạn phát triển. Trên cơ sở đó, đề xuất định hướng và giải pháp phát triển lý luận, phê bình văn học trong thời gian tới.

   Qua 50 năm sau ngày đất nước hòa bình, thống nhất (1975 tới nay), bộ môn lý luận, phê bình văn học trong tổng thành nền văn học dân tộc và hiện đại đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Trên thực tế, qua mỗi chặng đường, hoạt động lý luận, phê bình văn học luôn vừa tập trung hoàn thành các nhiệm vụ chính trị trọng tâm vừa mở ra các hướng phát triển mới. Điều này đồng nghĩa với hoạt động lý luận, phê bình văn học phải luôn tự đổi mới, tự xác định những thành công và hạn chế nhằm hướng tới các giải pháp phù hợp, mở đường và thúc đẩy đời sống văn học phát triển. Nhìn lại chặng đường 50 năm sau ngày đất nước thống nhất, đặc biệt từ thời kỳ Đổi mới (1986) và những năm đầu thế kỷ XXI đến nay, bài viết tập trung nêu lên một số đề xuất, kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động lý luận, phê bình văn học trong thời gian tới.

   1. Thành tựu và thực trạng lý luận, phê bình văn học 50 năm sau ngày đất nước thống nhất

   Việc nhận diện các chặng đường phát triển của đời sống lý luận, phê bình văn học chặng đường từ 1975 đến nay mang tính tương đối bởi lẽ đất nước thống nhất vào năm 1975 nhưng chiến tranh biên giới vẫn diễn ra ác liệt và đời sống tinh thần thời bao cấp vẫn theo quán tính đến khi thực sự bước vào thời kỳ Đổi mới và phát triển cho tới ngày nay.

   Sau khoảng mười năm giao thời, chuyển tiếp, bước sang giai đoạn Đổi mới từ 1986 đến nay, hiện thực đời sống xã hội có những thay đổi nhanh chóng, căn bản. Việc nhìn nhận, soát xét lại kinh nghiệm quá khứ là nhu cầu của cả một dân tộc với tâm thức “Về một đặc điểm của văn học nghệ thuật ở ta trong giai đoạn vừa qua” – “chủ nghĩa hiện thực phải đạo” (Hoàng Ngọc Hiến, 1979), “Khi thực tiễn lên tiếng” (Ngô Thảo, 1987), “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn học minh họa” (Nguyễn Minh Châu, 1987), “Về vấn đề văn học phản ánh hiện thực” (Lê Ngọc Trà, 1988)… Trong quá trình khởi động và phát triển đường lối văn nghệ thời Đổi mới có thể coi đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh là lá cờ đầu. Nắm bắt được thực tế tình hình đất nước và yêu cầu đổi mới của đời sống văn học, đồng chí đã dành ra hai ngày (6-7/10/1987) tham dự hội thảo và có bài nói chuyện quan trọng trong cuộc gặp gỡ văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa, tác động trực tiếp và sâu sắc đến nhận thức của giới văn học về hoạt động sáng tạo: “Các đồng chí có nói nhiều đến sự “cởi trói”. Có như vậy mới phát huy được hết khả năng trong lĩnh vực của các đồng chí. “Cởi trói” như thế nào? “Cởi trói” nói ở đây trước hết tôi nghĩ rằng Đảng phải cởi trói. Cởi trói trong lĩnh vực tổ chức, chính sách, trong các quy chế, chế độ” (NHS nhấn mạnh); đồng thời xác định sự thay đổi từ quan niệm, cơ chế, đường lối đến việc phát huy tinh thần dân chủ và bản lĩnh sáng tạo vốn được coi là phẩm chất của người hoạt động trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật: “Chính các đồng chí cũng đòi hỏi rằng trong lĩnh vực của các đồng chí, không được áp đặt mọi công việc như đặt con tàu chạy trên đường ray, các đồng chí cần được tự do lo liệu cho các công việc của mình. Nếu như trong lĩnh vực kinh tế hiện nay cần phát huy dân chủ cho người sản xuất thì ở lĩnh vực của các đồng chí, các đồng chí cũng phải làm chủ”1

   Rồi cũng từ công cuộc đổi mới đã dần định hình những hướng đi mới tiếp cận với lý luận và lịch sử văn học thế giới mang tính học thuật chuyên sâu, in đậm lý thuyết, phương pháp và kỹ thuật mới. Thế hệ các nhà lý luận sau 1975 được đào tạo cơ bản, đọc dịch được tài liệu nước ngoài và giới thiệu được nhiều dòng lý thuyết, phương pháp và kỹ thuật mới2. Đó là Trương Đăng Dung với Từ văn bản đến tác phẩm văn học (1998), Tác phẩm văn học như là quá trình (2004), Phản ánh nghệ thuật trong mỹ học của Lukacs Gyorgy (2018); Lưu Văn Bổng (Chủ biên) với Văn học so sánh – Lý luận và ứng dụng (2001); Trịnh Bá Đĩnh với Chủ nghĩa cấu trúc và văn học (2002, 2011), Phê bình văn học Việt Nam hiện đại (2011); Phùng Ngọc Kiên với Mimesis, phương thức biểu hiện thực tại trong văn học phương Tây (2014), Những thế giới song song, khả thể và giới hạn trong (tái) diễn giải văn chương (2017); Cao Kim Lan với Tác giả hàm ẩn trong tu từ học tiểu thuyết (2015), Ma thuật của truyện kể (2019); Phạm Phương Chi với Quan niệm về cái đẹp trong sử thi Ramayana (2006), Văn học Anh ngữ và vấn đề dân tộc Ấn Độ (2022)… Có thể nói định hướng tiếp cận, đọc và giới thiệu chuyên sâu lý thuyết, lý luận, phương pháp nghiên cứu văn học thế giới chắc chắn sẽ là ưu tiên, thế mạnh và yêu cầu đặt ra cho thế hệ tương lai.

   Nhìn nhận trong các tương quan cụ thể hơn, từ Đổi mới đến nay, hoạt động giao lưu lý luận, phê bình văn học mở rộng quan hệ hai chiều và đa chiều với học giới nhiều quốc gia như Nga, Pháp, Anh, Đức, Mĩ, Ý, Australia, Cuba, Tây Ban Nha, Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ba Lan, Phần Lan, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Đan Mạch, Ấn Độ, Canada, Hungary… Những năm gần đây, nhiều hội thảo quốc tế cũng được Viện Văn học phối hợp với Viện Harvard Yenching (Hoa Kỳ) tổ chức như: Văn học Việt Nam trong bối cảnh giao lưu với khu vực và quốc tế (2006), Hội nghị khoa học quốc tế các nhà nghiên cứu văn học trẻ (2008), Tiếp cận văn học châu Á bằng lý thuyết phương Tây hiện đại: vận dụng, tương thích, thách thức và cơ hội (2011); mở rộng hợp tác với giới khoa học các nước tổ chức kỷ niệm 100 năm sinh L. Tolstoy (2010), 250 năm sinh và 200 năm mất Nguyễn Du (2015, 2020); nhiều cán bộ tham gia các hội thảo quốc tế ngay trong nước như hội thảo về Việt Nam học (lần I - VI), Phê bình sinh thái: Tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu (2017), Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên Hợp Quốc (UNESCO) phối hợp kỷ niệm và hội thảo về các danh nhân Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu (2022)… Việc tham gia các hoạt động nghiên cứu quốc tế này sẽ giúp giới nghiên cứu, lý luận, phê bình nâng tầm nhận thức và làm quen với học phong ở tầm khu vực và thế giới…

   Trên tinh thần đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có đổi mới văn học, nhiều hiện tượng tác gia, tác phẩm, trào lưu văn học quá khứ đã được đánh giá, tôn vinh, giới thiệu trở lại. Đặt trong tương quan thành tựu lý luận, phê bình văn học giai đoạn chín tới và định hướng “bù lấp” khoảng trống văn học sử thời Đổi mới, chúng tôi dẫn ba trường hợp tiêu biểu:

   Thứ nhất, vấn đề Nam Phong tạp chí (1917-1934) và học giả Chủ bút, Chủ nhiệm Phạm Quỳnh (1892-1945)… Theo thống kê bước đầu, các công trình nghiên cứu, giới thiệu từ 1986 đến nay đã khẳng định vị thế Nam Phong tạp chí và vai trò học giả Phạm Quỳnh trong nhiều bộ từ điển danh nhân văn hóa, từ điển văn học, chuyên khảo, luận án, luận văn; đặc biệt, nhiều tác phẩm quan trọng đã lần lượt được sưu tập và công bố trở lại: Mười ngày ở Huế (2001), Mục lục phân tích Tạp chí Nam Phong (tái bản, 2002), Luận giải văn học và triết học (2003; tái bản, 2016), Pháp du hành trình nhật ký (2004), Du ký Việt Nam – Tạp chí Nam Phong (1917-1934) (ba tập, 2007), Thượng Chi văn tập (2007), Phạm Quỳnh - Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp (2007), Văn trên Nam Phong tạp chí (Diện mạo và thành tựu) (2008), Phạm Quỳnh – con người và thời gian (2010), Hoa Đường tùy bút và 51 bản dịch thơ Đỗ Phủ (2011), Phạm Quỳnh – một góc nhìn (tập I, 2011; tập II, 2012), Toàn tập truyện ngắn Nam Phong (2012), Phạm Quỳnh trong dòng chảy văn hóa dân tộc (2012), Phạm Quỳnh – Tuyển tập du ký (2013; tái bản, 2014), Đoản thiên tiểu thuyết, truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí (2013), Thượng Chi Phạm Quỳnh (2015), Phạm Quỳnh – những góc nhìn xứ Huế (2015)… Có lẽ không cần có thêm lời bình về xu thế đổi mới, hướng đến các giá trị chân - thiện - mĩ, hướng đến sự đánh giá khoa học, khánh quan, toàn diện, công bằng trước hiện tượng Nam Phong tạp chí và học giả Phạm Quỳnh.

   Thứ hai, toàn bộ các tác phẩm của Trương Tửu (1914-1999) một thời từng bị quy kết nặng nề đã được tái bản, tái hòa nhập đời sống văn học dân tộc3. Qua khoảng cách nửa thế kỷ, nhiều vấn đề tư tưởng, lý thuyết, lý luận văn học thế giới đã được tiếp nhận, được bù lấp, kết nối... Tổng hợp qua các trang sách thấy Trương Tửu đã dẫn giải, vận dụng khá nhuần nhuyễn tư tưởng và hệ thống phạm trù, khái niệm, thuật ngữ mĩ học của các nhà kinh điển và nhiều trường phái lý thuyết văn chương nổi bật đương thời4. Khả năng tiếp nhận đồng đại lý thuyết văn học Pháp và phương Tây đã giúp Trương Tửu vượt lên, có được tiếng nói mới, cách tiếp cận mới về Truyện Kiều5, Nguyễn Công Trứ6... Vì điều kiện chiến tranh (không kể khu vực đô thị Miền Nam), nền văn học cách mạng chuyển hướng “nhận đường” phục vụ công, nông, binh; với nguyên tắc dân tộc, khoa học, đại chúng đã đẩy toàn bộ di sản văn học trước 1945 về quá khứ. Chính vì thế mà từ sau Đổi mới (1986), chúng ta bắt tay khôi phục các giá trị văn hóa, văn học giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX và bất ngờ với tầm tư duy mà chính thế hệ cha ông đã đạt được7...

   Thứ ba, Hội thảo quốc tế với chủ đề Phê bình sinh thái: Tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu do Viện Văn học tổ chức (14/12/2017) đã nhận được hơn 100 tham luận của các tác giả thuộc các trung tâm nghiên cứu lớn trong và ngoài nước, trong đó có 14 tác giả thuộc các quốc gia Mĩ, Anh, Trung Quốc, Australia, Malaysia, Thái Lan, Philippines8... Đây là một trong những hội thảo in đậm tính thời sự, bắt nhịp nhanh với khuynh hướng nghiên cứu liên ngành, giàu tiềm năng, đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảng môi trường toàn cầu và trước vấn nạn môi trường do quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gây nên. Hội thảo đã phần nào thể hiện được tính hiện đại và liên kết quốc tế (xác định những bình diện phê bình sinh thái trong xu thế chuyển hướng, thích ứng của nghiên cứu văn học trong thời đại khủng hoảng môi trường, hiện thực hóa định hướng tiếp cận liên ngành văn-sử-triết về mối quan hệ con người và tự nhiên trong bối cảnh văn hóa đương đại, đề xuất các phương thức hợp tác đa phương liên ngành văn học và các tổ chức nghiên cứu giữa Việt Nam và thế giới)… Sự phát triển của phê bình sinh thái là một biểu hiện của sự gia tăng tương tác giữa nghiên cứu hàn lâm với các vấn đề thực tiễn của xã hội, giữa nghiên cứu văn học với các ngành khoa học xã hội và nhân văn khác. Trên thực tế, nghiên cứu sinh thái và nghiên cứu văn học sinh thái sau những bước phát triển ở Mĩ và phương Tây đã mở rộng đến nhiều khu vực của châu Á, góp phần thúc đẩy kết nối học thuật khu vực và toàn cầu. Tại hội thảo, các nhà nghiên cứu Việt Nam và thế giới đã cùng trao đổi về nhiều vấn đề thực sự có “tính vấn đề” (diễn tiến của phê bình sinh thái, kinh nghiệm nghiên cứu văn học sinh thái, cơ hội và khả năng của phê bình sinh thái ở Việt Nam, các văn bản văn chương và sinh thái, tham chiếu văn học sinh thái với các chuyên ngành và bộ môn nghệ thuật (thính giác, thị giác) với truyền thông đa phương tiện và giáo dục học…). Hội thảo có ý nghĩa tập dượt, làm quen, bắt nhịp với các vấn đề lý thuyết, lý luận, phương pháp có tính thời sự, chuyên sâu, toàn cầu cũng như năng lực nghiên cứu liên ngành quốc tế.

   Chặng đường phát triển lý luận, phê bình văn học hướng tới quốc tế giai đoạn sau ngày đất nước thống nhất (1975), mở đường đổi mới (1986) và phát triển (từ năm 2000 đến nay) đã thu được những thành tựu to lớn. Đặt trong xu thế giao lưu, hội nhập quốc tế, các cơ sở nghiên cứu (Viện Văn học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; các trường: Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh và Đại học Thái Nguyên, Đại học Vinh, Đại học Huế, kể cả nhiều trường dân lập) ngày càng phát triển (mở rộng quan hệ quốc tế, mở nhiều hội thảo và xuất bản công trình nghiên cứu chuyên sâu, đặc biệt về văn học khu vực Đông Á) thì hoạt động lý luận, phê bình vừa có thời cơ vừa đối diện với nhiều thách thức mới, trong đó có vai trò của cơ chế tổ chức, chính sách và chính năng lực ngoại ngữ cá nhân nhà lý luận, phê bình.

   2. Định hướng và giải pháp phát triển lý luận, phê bình văn học trong thời gian tới

   Thứ nhất, chúng ta đã vượt qua giai đoạn “cởi trói” và tiếp tục phát huy, phát triển cơ chế dân chủ trong hoạt động lý luận, phê bình, thực hiện gắn kết giữa định hướng chỉ đạo với thực tiễn sinh động của đời sống lý luận, phê bình giai đoạn chín tới của đổi mới. Một mặt, nhìn lại quá khứ, chúng ta cần thực hiện “bù lấp” những khoảng trống văn học sử - lý luận, phê bình (tổ chức hội thảo, nghiên cứu, trao đổi, tổng kết về nhiều hiện tượng tác gia, tác phẩm, trào lưu văn học đương đại); mặt khác, với những trường hợp chưa đạt được sự đồng thuận cao, cần có sự trao đổi rộng rãi, tránh lối quy kết, áp đặt một chiều (đặc biệt là trước đề xuất của các cây bút lý luận và sáng tác bậc cao như Hoàng Ngọc Hiến, Lê Ngọc Trà, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh…), hạn chế lối tư duy “luận chiến”, “phản thơ”, “phản phê bình”. Điều này thực sự sẽ góp phần mở đường, thúc đẩy tư duy lý luận, phê bình phát triển.

   Thứ hai, chỉ rõ đúng - sai qua các thời kỳ, giai đoạn, hướng tới tổng kết, đúc kết bài học kinh nghiệm. Điều này không chỉ lấy lại sự công bằng cho không ít tác giả (Phạm Quỳnh, Phan Khôi, Trương Tửu, Kiều Thanh Quế…) mà chính là góp phần làm giàu cho kho tàng di sản lý luận, phê bình hôm nay.

   Thứ ba, mở rộng giao lưu, hội nhập, phiên dịch, giới thiệu, tiếp nhận, thu nạp các nguồn lý thuyết, lý luận, phê bình tiến bộ, khoa học, hiện đại, phù hợp với truyền thống dân tộc và nhu cầu xã hội trong thời đại toàn cầu hóa, văn hóa, văn học thị trường và công nghệ thông tin phát triển.

   Công cuộc đổi mới, “cởi trói”, cải cách, mở cửa trước hết là việc đổi mới tư duy, soát xét lại quá khứ rồi đến làm quen, tiếp nhận những phương diện lý luận, phê bình phù hợp giai đoạn mới. Trên thực tế, trong khoảng 50 năm sau ngày đất nước thống nhất, 40 năm sau ngày đất nước đổi mới (1986) đến nay, tính chất chuyển tiếp thể hiện rõ với kết quả học thuật của một thế hệ cũ đã chín tới và thế hệ kế cận đang định hình qua thước đo các công trình lý luận, phê bình văn học đặt trong tương quan trình độ khu vực Đông Nam Á, Đông Á, châu Á và thế giới hiện đại…

 

 

 

Chú thích:
1 Nguyễn Văn Linh (1988): “Bài nói chuyện của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh trong cuộc gặp gỡ văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa (7/10/1987)”, Tạp chí Văn học, số 1 (229), tr. 11-16.
2 Ở đây chúng tôi tập trung điểm danh một số công trình lý luận, phê bình tiêu biểu tại Viện Văn học mà chúng tôi hiểu rõ: Hoàng Trinh với bộ ba Ký hiệu, nghĩa và phê bình văn học, Về khoa học và nghệ thuật trong phê bình văn học, Văn học - ngọn nguồn và sáng tạo (1980), Từ ký hiệu học đến thi pháp học (1992), Tuyển tập văn học (1998); Thành Duy với Về tính dân tộc trong văn học (1982), Trương Đăng Dung và Nguyễn Cương chủ biên Các vấn đề khoa học của văn học (1990); Nguyễn Ngọc Thiện tổ chức sưu tập, biên soạn các bộ sách có ý nghĩa tổng kết: Nhìn lại cuộc tranh luận nghệ thuật 1935-1939, Hải Triều - nhà lý luận tiên phong (1996), Tuyển tập phê bình - nghiên cứu văn học (5 tập, 1997), Hoài Thanh bình luận văn chương (1998), Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX (2 tập, 2002); Hà Minh Đức với Một thời đại trong thi ca, Nam Cao - đời văn và tác phẩm (1997), Đi tìm chân lý nghệ thuật, Khảo luận văn chương (1998), Văn chương - tài năng và phong cách (2001), Một nền văn hóa văn nghệ đậm đà bản sắc dân tộc với nhiều loại hình nghệ thuật phong phú (2005), Tự lực văn đoàn – trào lưu và tác phẩm (2007), Văn chương và thời cuộc (2009), Một thế kỷ thơ Việt Nam (2012); Phong Lê với Nam Cao - phác thảo sự nghiệp và chân dung (1997), Văn học trên hành trình thế kỷ XX (1997), Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt Nam hiện đại (2001), Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (2001), Văn học Việt Nam hiện đại - lịch sử và lý luận (2003), Về văn học Việt Nam hiện đại – nghĩ tiếp (2006), Hiện đại hóa và đổi mới văn học Việt Nam thế kỷ XX (2009), Đến với tiến trình văn học Việt Nam hiện đại (2009), Phác thảo văn học Việt Nam hiện đại (2013); Vũ Đức Phúc với Bàn về văn học (2001), Nam Mộc với Về lý luận, phê bình văn học (2002); Nguyễn Đăng Điệp với Giọng điệu trong thơ trữ tình (2002), Vọng từ con chữ (2004), Thơ Việt Nam hiện đại, tiến trình và hiện tượng (2014), Một số vấn đề văn học Việt Nam hiện đại (2016); Đỗ Đức Dục với Hành trình văn chương (2003)…
3 Xin xem: Trương Tửu (2007), Tuyển tập nghiên cứu, phê bình (Nguyễn Hữu Sơn, Trịnh Bá Đĩnh sưu tầm, biên soạn, giới thiệu), NXB Lao động, 1090 trang; Trương Tửu (2009), Tuyển tập văn xuôi (Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm, biên soạn, giới thiệu), NXB Lao động, 888 trang; Trương Tửu (2013), Tuyển tập nghiên cứu văn hóa (Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm, biên soạn, giới thiệu), NXB Văn học, 1272 trang.
4 Có thể kể đến danh sách các nhà tư tưởng và triết học, văn hóa, mĩ học kinh điển mà Trương Tửu nhắc đến: Georg Wilhelm Friedrich Hégel (1770-1831), Arthur Schopenhauer (1788-1860), Ludwig Andreas Feuerbach (1804-1872), Karl Marx (1818-1883), Friedrich Engel (1820-1895), Vladimir Ilyich Lenin (1870-1924)...; các nhà lập thuyết mĩ học, thực hành lý luận văn chương đương thời: Oscar Wilde, Étienne Souriau, Thesodule Ribot, Feslix Sartiaux, Jean Casson Cervatès, Claude Bernard, Jules Romains, Jean Fréville, Wiliam Stern, Gustave Geley, Marcel Boll, Emile Zola, J. M. Guyau, G. Lanson, H. Taine, J. M. Laky, E. Taylor, T. Ribot, H. Dilety, V. Feldman, Th. Ribot, P. Naville, F. Achile Delmas, M. Lahy Hollebecque, Alexander W. Stern...; liên hệ đến các tác giả tiêu biểu: Honoré de Balzac (1799-1850), Stendhal (1783-1842), George Sand (1804-1876), Alfred de Musset (1810-1857), Charles Pierre Baudelaire (1821-1867), Paul Valéry (1841-1945)... đồng thời với các khái niệm, thuật ngữ có sức nặng và thực sự tân kỳ, cập nhật, hiện đại: biểu tượng (Système de représentations), ký hiệu (Signe), tượng trưng (Symbole), cái đẹp tự nhiên (Beauté naturelle), điệu nghệ thuật - phong cách (Style), mĩ cảm, xúc cảm mĩ thuật (Émotion esthétique), tác phẩm đẹp (Une belle oeuvre), thế giới hình thức (Règne des formes), hành vi cảm đồng tình (Acte de sympathie), hệ thống tương quan (Un système de rapports), kỹ thuật là cá tính (La technique e’ét la personnalité)...
5 Xin xem: Nguyễn Bách Khoa (1942), “Nguyễn Du và Truyện Kiều”, Tạp chí Văn mới, số đặc biệt văn chương, NXB Hàn Thuyên, 344 trang; Nguyễn Bách Khoa (1945), “Văn chương Truyện Kiều”, Tạp chí Văn mới, phần Khảo cứu, số 50, 25 Javier, NXB Hàn Thuyên, 206 trang; Trương Tửu (1956), Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du, NXB Xây dựng, 216 trang.
6 Nguyễn Bách Khoa (1944): “Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ”, Tạp chí Văn mới, số 30-31, ra ngày 25/3/1944; Nguyễn Bách Khoa (1951), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (Tái bản), NXB Thế giới, 1951; Xin xem: Nguyễn Bách Khoa (2003), “Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ”, trong sách Khoa học văn chương (Trịnh Bá Đĩnh tuyển chọn, giới thiệu), NXB Văn hóa Thông tin, tr. 225-398; Nguyễn Bách Khoa (2007), “Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ” trong sách Tuyển tập nghiên cứu, phê bình (Nguyễn Hữu Sơn, Trịnh Bá Đĩnh sưu tầm, biên soạn), NXB Lao động - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, tr. 573-680; Nguyễn Bách Khoa (2020), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm, giới thiệu), NXB Thanh niên, 248 trang.
7 Xin xem: Nguyễn Hữu Sơn (2020): “Tiếp nhận Nguyễn Du và Truyện Kiều - Trường hợp Trương Tửu”, Nghiên cứu Văn học, số 11, tr. 3-9.
8 Xin xem: Viện Văn học (2017), Phê bình sinh thái: Tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu, NXB Khoa học xã hội, 1396 trang.

Bình luận

    Chưa có bình luận