Sau năm 1975, đặc biệt là từ sau Đổi mới (1986), khoa học văn học thực sự có nhiều khởi sắc, tạo được những thành tựu nổi bật, ghi được dấu ấn trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam. Trong ba bộ môn Lý luận văn học, Phê bình văn học và Lịch sử văn học, mỗi bộ môn đều có những đóng góp đáng ghi nhận nhưng lĩnh vực biểu hiện rõ nhất tinh thần đổi mới trong nghiên cứu văn học là phê bình văn học. Sở dĩ có đặc điểm này là do phê bình văn học là lĩnh vực đặc thù, thu hút nhiều người tham gia, tính tương tác xã hội cao và việc xã hội hóa sản phẩm nghiên cứu cũng nhanh chóng hơn so với hai lĩnh vực còn lại. Mặt khác, người viết phê bình văn học thường thuận lợi hơn so với người viết lý luận thuần túy và các nhà văn học sử, bởi vì đối tượng của phê bình văn học có thể chỉ là một tác phẩm hoặc nhiều tác phẩm của một tác giả, còn đối tượng của lý luận văn học và lịch sử văn học rộng hơn nhiều. Nó đòi hỏi người viết lý luận văn học hoặc lịch sử văn học phải nắm và khái quát được một giai đoạn văn học hoặc một trào lưu, khuynh hướng văn học đã và đang vận động.
Công cuộc đổi mới đất nước, trong đó có đổi mới văn học, là nguyên nhân và cũng là nền tảng căn bản quyết định thành tựu nghiên cứu văn học gần 50 năm qua. Chủ trương đổi mới này đã được đội ngũ văn nghệ sĩ, bao gồm cả giới sáng tác lẫn giới lý luận, phê bình tích cực hưởng ứng và nhanh chóng nhập cuộc để tạo nên thành tựu ngày càng rõ rệt. Công cuộc đổi mới văn học trước hết là nhà văn tự tạo cho mình một biên độ sáng tạo rộng lớn trên cơ sở khẳng định cá tính, phong cách của nhà văn, từ đó các nhà văn cùng nhau thiết lập một nền tảng thẩm mĩ mới, tìm kiếm những phương pháp sáng tác mới và tạo dựng các phương thức nghệ thuật mới. Cùng với sáng tác, lý luận và phê bình văn học đã nhanh chóng tương tác để thay đổi và kiến tạo không gian nghệ thuật mới mẻ và biến chúng thành nền tảng vững chắc cho sáng tác.
Đổi mới lý luận văn học kéo theo đổi mới phê bình văn học. Có khá nhiều ý tưởng có tính lý luận gợi mở cho đổi mới văn học được nêu ra từ những nhà văn, nhà lý luận, phê bình trước năm 19861. Những nhận định của họ có khi “gây sốc” vào thời điểm chúng được nêu ra, nhưng ngẫm cho kỹ, đó là những trăn trở chân thành của những người gắn bó và yêu mến nền văn học nước nhà và ít nhiều điểm trúng huyệt của vấn đề. Tuy nhiên, đó chỉ là những ý tưởng có tính gợi mở, phải chờ đến những công trình chuyên sâu trong giai đoạn văn học đã chuyển sang đổi mới với những tác giả hàng đầu về lý luận văn học sau 1986: Lê Ngọc Trà, Hoàng Ngọc Hiến, Phương Lựu, Trần Đình Sử, Trương Đăng Dung, Huỳnh Như Phương, Lã Nguyên…
Đổi mới phê bình, ở Việt Nam sau 1975, trước hết là mở rộng biên độ cho lý thuyết phê bình (cricitism theory) và phương pháp tiếp cận (approach). Nếu như trong giai đoạn 1930-1945, phê bình hiện đại ở Việt Nam đã từng “thử nghiệm” với khá nhiều lý thuyết phê bình mới được du nhập từ phương Tây, như phê bình ấn tượng (tiêu biểu là Hoài Thanh), phê bình tiểu sử học (tiêu biểu là Trần Thanh Mại), phê bình văn hóa - lịch sử2 (tiêu biểu là Trương Tửu), phê bình phân tâm học (tiêu biểu là Nguyễn Văn Hanh), phê bình Marxist (tiêu biểu là Hải Triều)… thì đến giai đoạn 1945-1975, ở Miền Bắc, phê bình Marxist giữ vị trí chủ đạo với nhiều nhà nghiên cứu có tên tuổi ở các trường Đại học Tổng hợp, Đại học Sư phạm Hà Nội và Viện Văn học (Hoàng Xuân Nhị, Đỗ Đức Hiểu, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Lê Đình Kỵ, Phạm Văn Sĩ, Bùi Duy Tân, Mã Giang Lân, Vũ Đức Phúc, Phong Lê, Trần Thị Băng Thanh, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Đình Chú)… Những công trình phê bình văn học của họ tuy thỉnh thoảng có chỗ chưa hoàn toàn thuyết phục, nhưng nhìn chung, do tập trung đào sâu lý thuyết và chọn được đối tượng phù hợp (văn học hiện đại theo khuynh hướng tả thực và văn học trung đại) nên giới phê bình lúc bấy giờ đã khám phá được chiều sâu tư tưởng của nhiều tác giả, tác phẩm. Việc tuyển chọn, phê bình giới thiệu thơ văn thời Lý - Trần, đánh giá Truyện Kiều của Nguyễn Du, phân tích tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Tú Xương, Hồ Xuân Hương, văn học hiện thực phê phán, văn học yêu nước và cách mạng giai đoạn 1930-1975, văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa giai đoạn 1945-1975 cơ bản đã chạm đến những giá trị cốt lõi của tác phẩm, thấy được thành công của các tác giả về nội dung và một số phương thức nghệ thuật nổi bật. Phê bình văn học ở Miền Nam có sự tiếp thu những lý thuyết phê bình hiện đại của phương Tây nên khả năng vận dụng lý thuyết đa dạng hơn. Phê bình văn học ở Miền Nam trước năm 1975 chủ yếu vận dụng các lý thuyết ấn tượng chủ nghĩa (tiêu biểu là Tạ Tỵ), phân tâm học (tiêu biểu là Tam Ích, Nguyễn Đình Tuyến), phân tâm học - hiện sinh (tiêu biểu là Lê Tuyên, Thanh Lãng), cấu trúc luận (tiêu biểu là Huỳnh Phan Anh), Marxist (tiêu biểu là Vũ Hạnh)…
Sau 1975, đặc biệt là từ sau 1986, phê bình văn học thực sự đổi mới mạnh mẽ. Trước hết là chủ trương và ý thức tiếp nhận các lý thuyết phê bình hiện đại trên thế giới, vận dụng vào nghiên cứu văn học. Nhờ đó, thành tựu phê bình văn học ở Việt Nam từ Đổi mới đến nay thật sự phong phú, đa dạng, có nhiều công trình phê bình thể hiện sự am hiểu và chứng tỏ được tính hiệu năng của lý thuyết. Thi pháp học, phân tâm học, nữ quyền luận, phê bình sinh thái, phê bình văn hóa, phê bình Marxist, phê bình luân lý… đều ít nhiều được vận dụng bởi những nhà nghiên cứu văn học đông đảo và chuyên tâm của cả nước. Dưới đây đề cập đến một số lý thuyết phê bình tiêu biểu được vận dụng trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam sau 1975.
1. Phê bình thi pháp học
Thi pháp với tư cách là một trong những yếu tố góp phần cấu trúc tác phẩm văn học dưới những hình thức thể loại khác nhau, về nguyên tắc, đã hiện diện trong các tác phẩm văn học cổ xưa nhất của nhân loại. Một câu ca dao hay, một truyện cổ tích hấp dẫn và có ý nghĩa nhân văn sâu sắc đều ẩn giấu một thi pháp. Vì vậy, từ lâu khi nghiên cứu đặc điểm thể loại của tác phẩm văn học, giới phê bình ít nhiều đã chạm đến bình diện thi pháp của từng tác phẩm, từng thể loại văn học. Tuy nhiên, khi mà thi pháp học chưa được ý thức như là một lý thuyết phê bình văn học thì ở Việt Nam, việc nghiên cứu thi pháp (của tác phẩm, tác giả, trào lưu…) vẫn còn rời rạc, phân tán. Thi pháp học hiện đại được ghi nhận khởi đầu từ trường phái hình thức ở Nga đầu thế kỷ XX (còn gọi là chủ nghĩa hình thức Nga). Trường phái hình thức Nga, như tên gọi, chủ trương sáng tác và phê bình tác phẩm văn học xuất phát từ các bình diện thuộc hình thức nghệ thuật. Vì vậy, họ đề cao hiện tượng “lạ hoá” trong sáng tác, đồng thời đề xuất việc tiếp cận tác phẩm từ góc độ thi pháp. Cũng như những lý thuyết phê bình hiện đại khác, thi pháp học được ứng dụng rộng rãi trên thế giới ở thế kỷ XX, tuy cách hiểu có khác nhau. Theo Trần Đình Sử, “thi pháp học nghiên cứu văn học như những thế giới nghệ thuật mà tương ứng với nó là các ý thức nghệ thuật”. Theo đó, nhà phê bình nghiên cứu văn học từ góc độ thi pháp học chú ý “khám phá các nguyên tắc tạo nên các thế giới nghệ thuật phân biệt với thực tại, bắt đầu từ quan niệm nghệ thuật, tiếp theo là các hình thức nhân vật, không gian, thời gian, kiểu sự kiện, cốt truyện và cuối cùng là cấu trúc văn bản với các hình thức ngôn từ”. Tinh thần nghiên cứu thi pháp của Trần Đình Sử có thể thâu tóm trong mệnh đề “thi pháp học là nghiên cứu cái lý hay là quan niệm nghệ thuật của hình thức ngôn từ”. Ở Việt Nam, thi pháp học thực sự trở thành một lý thuyết phê bình có tính ứng dụng rộng rãi là vào thập kỷ 80 của thế kỷ XX, khi có những bài viết, giáo trình giới thiệu về thi pháp học của Trần Đình Sử. Cho đến nay, ông vẫn là nhà phê bình chuyên tâm về thi pháp, với tư cách là người kiến tạo, bổ sung, hoàn thiện lý thuyết và cũng là người có khả năng vận dụng hiệu quả lý thuyết vào việc nghiên cứu thực tiễn văn học. Những công trình có ý nghĩa nền tảng của phê bình thi pháp học do Trần Đình Sử viết đáng chú ý là: Dẫn luận thi pháp học, Thi pháp thơ Tố Hữu, Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Thi pháp Truyện Kiều. Cùng với Trần Đình Sử, một vài nhà phê bình kỳ cựu khác cũng chú ý vận dụng thi pháp học vào việc nghiên cứu văn học, như: Đỗ Đức Hiểu (Thi pháp hiện đại), Hoàng Trinh (Từ ký hiệu học đến thi pháp học), Nguyễn Phan Cảnh (Ngôn ngữ thơ), Nguyễn Xuân Kính (Thi pháp ca dao), Trần Ngọc Vương (Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam)... Trước thời kỳ đổi mới, Đỗ Đức Hiểu từng viết phê bình theo hướng Marxist, nghiên cứu văn học hiện sinh phương Tây. Từ thời đổi mới, ông bắt đầu tiếp cận các lý thuyết phê bình hiện đại của phương Tây và vận dụng thi pháp học vào nghiên cứu văn học Việt Nam, trong đó đáng chú ý là các bài báo viết về tác phẩm của các nhà văn Việt Nam giai đoạn 1930-1945 và một số nhà văn đương đại. Với việc vận dụng lý thuyết phê bình thi pháp học cộng với khả năng cảm thụ và phân tích tinh tế tác phẩm văn học, Đỗ Đức Hiểu đã có những bài viết đầy bút lực và có tính phát hiện. Có thể khẳng định rằng Đỗ Đức Hiểu là nhà phê bình tài hoa, có khả năng cảm thụ và giải mã tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp. Nói cách khác, thành tựu phê bình của Đỗ Đức Hiểu gắn liền với việc nghiên cứu thi pháp tác phẩm. Ông chưa có công trình nghiên cứu thi pháp tác giả. Ông cũng viết một số bài bàn về thi pháp các thể loại: tiểu thuyết, thơ, kịch, nhưng chỉ dừng lại như những gợi ý sơ lược. Trong lĩnh vực văn học dân gian, cuốn Thi pháp ca dao (1992) của Nguyễn Xuân Kính là công trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu ca dao từ góc độ thi pháp. Nguyễn Xuân Kính đã có đóng góp khi ông nghiên cứu nhiều bình diện thi pháp của ca dao Việt Nam, như: ngôn ngữ, thể loại, kết cấu, thời gian và không gian nghệ thuật, một số biểu tượng.
Việc nghiên cứu văn học từ lý thuyết thi pháp học xuất hiện nở rộ sau khi có những công trình (cả lý thuyết và vận dụng) của Trần Đình Sử. Trên cơ sở tiếp thu tinh thần nghiên cứu thi pháp học ở Nga, Trần Đình Sử đã biên soạn giáo trình thi pháp học, giảng dạy trong các trường đại học và cao đẳng, từ đó đặt nền móng cho hướng nghiên cứu văn học từ góc độ thi pháp ở Việt Nam từ 1986 đến nay. Hướng nghiên cứu này thu hút nhiều người tham gia (bao gồm giới phê bình, các nghiên cứu sinh, học viên cao học qua các luận văn, luận án). Cho đến nay, ở Việt Nam, đã có hàng chục chuyên luận nghiên cứu văn học từ góc độ thi pháp học, tạo nên dấu ấn rõ rệt trong phê bình đương đại, với những tên tuổi mới: Nguyễn Thị Bích Hải, Lê Dục Tú, Lê Lưu Oanh, Phùng Ngọc Kiếm, Lê Trường Phát, Nguyễn Thanh Tú, Trần Nho Thìn, Lý Hoài Thu, Bùi Việt Thắng, Trần Khánh Thành, Nguyễn Đăng Điệp, Lê Quang Hưng, Chu Văn Sơn, Nguyễn Thành Thi, Đoàn Lê Giang, Đinh Trí Dũng, Nguyễn Kim Châu, Hồ Thế Hà, Phạm Xuân Thạch, Trần Văn Toàn, Nguyễn Thành, Nguyễn Văn Thuấn, Phan Tuấn Anh, Nguyễn Thị Tịnh Thy, Thái Phan Vàng Anh, Nguyễn Văn Hùng... Có thể khẳng định rằng phê bình thi pháp học là một khuynh hướng nghiên cứu văn học nổi bật và có sự thu hút nhiều nhất từ sau 1986 ở Việt Nam.
2. Phê bình phân tâm học
Phân tâm học (Psychoanalysis) lâu nay đã được vận dụng trong nhiều lĩnh vực, trong đó có nghiên cứu, phê bình văn học. Ở Việt Nam, sự hiện diện của phê bình phân tâm học đã được ghi nhận từ những năm ba mươi của thế kỷ XX qua một số công trình nghiên cứu văn học dưới dạng đơn nhất hoặc kết hợp với các lý thuyết khác. Tuy nhiên, phê bình phân tâm học cũng như khá nhiều phương pháp phê bình khác từng hiện diện trong khoa nghiên cứu văn học trước tháng 8 năm 1945 không còn được vận dụng trong nghiên cứu văn học sau Cách mạng Tháng Tám ở Miền Bắc. Lý do của việc này là do sự thống ngự độc tôn trong một thời gian dài của phê bình xã hội học Marxist. Thế nhưng, ngay cả ở Miền Nam giai đoạn 1955-1975, nơi mà các phương pháp sáng tác và phê bình văn học được sử dụng khá rộng rãi, thì phê bình phân tâm học cũng không chiếm một vị trí quan trọng.
Nghiên cứu tác phẩm văn học từ góc độ phân tâm học là đi tìm những mảnh vỡ vô thức của nhà văn ẩn giấu dưới lớp vỏ ngôn từ mà hình thức cất giấu này ở mỗi nhà văn thường không giống nhau. Do vậy, nhà phê bình buộc phải nối dài những kiến giải và suy luận của các nhà phân tâm học, điều mà nhà phê bình phân tâm học Pháp J. Lacan từng quan niệm “Nhà phân tâm học không phải chỉ lý giải một văn bản của vô thức đã có sẵn, mà anh ta vừa lý giải, vừa sản sinh ra nó”. Đây cũng là một trở ngại nếu nhà phê bình không am hiểu sâu xa về phân tâm học.
Ngày nay, ở Việt Nam, khi mà những rào cản chi phối đến sáng tác và phê bình văn học được gỡ bỏ thì phê bình phân tâm học có chỗ đứng trở lại trong khoa nghiên cứu văn học. Tuy có nhiều bình diện nghiên cứu khác nhau nhưng tựu trung trọng tâm của phân tâm học là cơ chế vô thức của con người. Nếu ý thức là cái hiển ngôn, logic, hiện diện công khai thì vô thức là cái hàm ngôn, phi logic, là vùng mờ và luôn bị/ được che giấu. Nhà phê bình phân tâm học là người làm sáng tỏ những vùng mờ ấy bằng kinh nghiệm và sự từng trải của chính mình.
Phê bình văn học Việt Nam hiện đại ngay từ buổi khai sinh đã chứng kiến những nỗ lực của giới nghiên cứu trong việc tiếp thu và vận dụng các phương pháp phê bình phương Tây hiện đại, trong đó có phê bình phân tâm học. Trước tháng 8 năm 1945, ít nhất có ba nhà phê bình Nguyễn Văn Hanh, Nguyễn Bách Khoa, Vũ Ngọc Phan đã vận dụng phân tâm học để phân tích tác phẩm của nhà văn, tuy mức độ, hiệu quả và hạn chế có khác nhau. Thời kỳ đổi mới ghi nhận sự bùng nổ của các khuynh hướng phê bình ở Việt Nam. Trần Đình Sử với thi pháp học, Đỗ Lai Thúy với phân tâm học, Lộc Phương Thủy, Nguyễn Phương Ngọc và Phùng Ngọc Kiên với xã hội học văn học, Trương Đăng Dung với tiếp nhận văn học, Phương Lựu với các trường phái lý luận, phê bình văn học phương Tây hiện đại. Nói riêng về phân tâm học, trước đây ở Miền Nam, Freud và những nhà phân tâm học khác đã được dịch, giới thiệu khá rộng rãi, tuy nhiên, vẫn chưa đầy đủ. Từ sau 1986 đến nay, việc biên soạn và giới thiệu về phân tâm học có phần khởi sắc. Bên cạnh một số sách tái bản lại bản dịch ở Sài Gòn trước 1975, có nhiều sách do các học giả trong và ngoài nước dịch, tuyển chọn, biên soạn3. Khâu thực hành cũng gây được sự chú ý. Khá nhiều luận văn, luận án đã nghiên cứu việc phân tích tâm lý trên nền tảng phân tâm học trong tác phẩm của nhiều nhà văn hiện đại và đương đại trước 1975 ở Sài Gòn và sau 1986 trên phạm vi cả nước.
Đáng chú ý là hai công trình của Đỗ Lai Thúy: Hồ Xuân Hương – hoài niệm phồn thực (1999) và Bút pháp của ham muốn (2009). Đỗ Lai Thúy là một trong những nhà phê bình chuyên nghiệp thời đổi mới có ý thức chiếm lĩnh các lý thuyết phê bình phương Tây hiện đại và ông cũng là người có khả năng vận dụng các lý thuyết này vào việc nghiên cứu, giải mã các tác giả, tác phẩm “cổ điển” trong văn học Việt Nam. Sau khi vận dụng thi pháp học vào nghiên cứu Thơ mới (Con mắt thơ), ông đã có bước đi táo bạo, đó là dùng phân tâm học để quay trở lại tường giải trường hợp Hồ Xuân Hương (Hồ Xuân Hương – hoài niệm phồn thực) và tìm kiếm những góc khuất trong bức tranh thơ của một số thi nhân cận - hiện đại Việt Nam (Bút pháp của ham muốn). Việc dùng lý thuyết cổ mẫu của G. Jung để nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương là một sự lựa chọn đầy thách đố của Đỗ Lai Thúy, bởi vì trước ông, hơn một người đã dùng lý thuyết của S. Freud để nghiên cứu thơ của tác giả Thiếu nữ ngủ ngày, Đánh đu, Dệt cửi và cũng không ít những công trình đã tiếp cận thơ của “Bà chúa thơ Nôm” từ góc độ xã hội học Marxist, phong cách học, thi pháp học, nữ quyền. Tuy nhiên, đứng trước một lối thơ bề ngoài thì “thanh” nhưng khi đọc thì người ta nhanh chóng liên tưởng đến chuyện “tục”, Đỗ Lai Thúy dường như muốn vượt qua các cách lý giải quen thuộc là do Hồ Xuân Hương tiếp nhận tư duy dân gian, theo kiểu đố thanh, giảng tục. Ông cũng nhận thấy sự bất ổn trong việc lý giải theo công thức của Freud: dồn nén - ẩn ức - thăng hoa. Vì vậy, Đỗ Lai Thúy tự đi tìm một cách tiếp cận mới dựa trên nền tảng của vô thức tập thể: thơ Hồ Xuân Hương - văn hóa dâm tục - lễ hội nông nghiệp - tục thờ cúng sinh thực khí - tín ngưỡng phồn thực. Nhìn chung, cách triển khai, kết nối các bình diện khác nhau trong cấu trúc thơ Hồ Xuân Hương của Đỗ Lai Thúy chứng tỏ một cái nhìn toàn diện và tinh tế trên cơ sở một nhãn quan văn hóa sâu rộng của một nhà phê bình tâm huyết. Dù có đôi chỗ còn băn khoăn, nhưng nhìn chung, các công trình phê bình phân tâm học của Đỗ Lai Thúy đã thể hiện tính hiệu năng của phương pháp với những đối tượng tương thích và quan trọng hơn nữa, nó cho thấy ông là một nhà phê bình mạo hiểm và có khả năng khai phá những nơi tưởng chừng đã cạn kiệt.
3. Phê bình sinh thái
Theo Cheryll Glotfelty, trong bài Nghiên cứu văn học trong thời đại khủng hoảng môi trường, phê bình sinh thái (ecocriticism) là nghiên cứu “mối quan hệ giữa văn học và môi trường” (nguyên văn tiếng Anh: Ecocriticism is the study of the relationship between literature and the physical environment). Đây là một hướng nghiên cứu văn học khá thịnh hành ở phương Tây từ thập kỷ 60-70 thế kỷ XX và có mặt ở Việt Nam đầu thế kỷ XXI. Hiển nhiên phê bình sinh thái thu hút sự chú ý của cả giới phê bình lẫn sáng tác bởi vì những vấn nạn về môi trường đe dọa nghiêm trọng đời sống của con người đã và đang hiện hữu trên toàn thế giới. Khủng hoảng về môi trường ở phương Tây trong thời kỳ công nghiệp hóa và hậu công nghiệp, hiện giờ không còn xa lạ với Việt Nam. Những lý do tác động tiêu cực đến sinh thái môi trường ở nước ta hiện nay bao gồm: 1) Quá trình nhân tạo: do con người tạo ra trong quá trình đô thị hóa và phát triển kinh tế; 2) Quá trình tự nhiên: do biến đổi khí hậu toàn cầu. Trong đó, lý do chính vẫn là do con người. Do vậy, việc khuyến khích phát triển phê bình sinh thái là cần thiết trong tình hình hiện nay, đồng thời với nó là việc thúc đẩy sáng tác theo tinh thần sinh thái. Khi các nhà văn chuyển cảm hứng sinh thái thành thái độ dấn thân vì sinh thái, xác định mục tiêu của văn chương là góp phần cảnh báo những hiểm họa môi trường trên tinh thần nhân văn chủ nghĩa thì văn học sinh thái có khả năng tạo thành một trong những dòng chính của văn học đương đại. Về nguyên tắc, có sáng tác thì có phê bình, theo đó, có sáng tác sinh thái thì có phê bình sinh thái. Tuy nhiên, không phải đợi đến khi văn học sinh thái phát triển mới thúc đẩy phê bình sinh thái. Đối tượng của phê bình văn học không chỉ đóng khung tác phẩm trong nền văn học một dân tộc. Mặt khác, phê bình văn học không chỉ là kẻ đồng hành mà còn là người dẫn đường cho sáng tác.
Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng những nhà phê bình, trong đó có một số nhà phê bình trẻ, đã bước đầu giới thiệu lý thuyết phê bình sinh thái, đồng thời vận dụng lý thuyết này vào việc nghiên cứu văn học Việt Nam. Khởi động cho phê bình sinh thái, năm 2011, Viện Văn học tổ chức buổi thuyết trình của học giả Karen Thornber về phê bình sinh thái. Trong bài thuyết trình của mình, bà đã nhấn mạnh vai trò, ý nghĩa của việc nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học với môi trường và phân tích một số điểm liên quan phê bình sinh thái trong bối cảnh hiện tại. Tiếp đến là sự tham gia và tham vấn của các nhà lý luận, phê bình văn học Trần Đình Sử, Huỳnh Như Phương, Nguyễn Đăng Điệp, Lê Lưu Oanh, Đỗ Văn Hiểu, Trần Ngọc Hiếu, Đặng Thị Thái Hà, Nguyễn Thị Tịnh Thy, Trần Ánh Nguyệt, Hoàng Tố Mai, Phạm Phương Chi, Nguyễn Trường Sinh... Với các công trình dịch thuật, tổng thuật, nghiên cứu, phê bình đầy chăm chút của nhiều người trong khoảng thời gian không dài – hơn một thập kỷ – đã góp phần làm hiển lộ bản diện của phê bình sinh thái ở Việt Nam. Trong đó, đáng chú ý là hai cuốn chuyên khảo đi theo hướng vận dụng lý thuyết phê bình sinh thái nghiên cứu văn học Việt Nam khá thuyết phục: Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 (Trần Thị Ánh Nguyệt - Lê Lưu Oanh, 2016), Rừng khô, suối cạn, biển độc... và văn chương (Nguyễn Thị Tịnh Thy, 2017). Và gần đây nhất là các công trình tập thể Phê bình sinh thái với văn xuôi Nam Bộ (Bùi Thanh Truyền chủ biên, 2018), Sinh thái và văn hóa Nam Bộ trong văn học Việt Nam (Nhiều tác giả, 2022) – Kỷ yếu hội thảo khoa học do Viện Văn học và Trường Đại học Văn Lang phối hợp tổ chức. Các công trình này cho thấy tính khả dụng của phê bình sinh thái từ cả hai góc độ lý thuyết và thực tiễn.
Người đọc có thể đòi hỏi nhiều hơn ở các nhà phê bình về sự tương thích giữa lý thuyết và sáng tác nhưng trong điều kiện tư tưởng sinh thái chưa thực sự được ý thức một cách đầy đủ từ phía giới sáng tác thì chọn các điểm rơi để nhận diện cảm thức về môi trường và số phận của con người trong sinh quyển hiện tại là điều đáng trân trọng.
4. Phê bình nữ quyền
Phê bình nữ quyền (gọi đầy đủ là phê bình văn học nữ quyền) dựa trên lý thuyết nữ quyền, bùng nổ vào những năm 60 thế kỷ XX ở phương Tây, đến nay đã có mặt trong nhiều nền văn học. Cũng giống như một số khuynh hướng phê bình xã hội học khác, phê bình nữ quyền gắn với lý thuyết nữ quyền. Tuy nhiên, trước khi phê bình văn học nữ quyền trở thành phong trào thì lý thuyết nữ quyền đã có một lịch sử khá dài. Người ta thường ghi nhận vai trò của Mary Wollstonecraft – nữ nhà văn Anh, tác giả cuốn Vindication of the Rights of Woman (Sự xác minh về quyền của phụ nữ) xuất bản 1792. Trong cuốn sách, bà cho rằng phụ nữ không tự nhiên mà thua kém nam giới, trong thực tế, họ thua kém vì không được xã hội quan tâm giáo dục. Đến nửa đầu thế kỷ XX, tiếng nói có tính nữ quyền này lại vang lên mạnh mẽ khi Virgina Woolf viết Căn phòng riêng (A Room of One’s Own, 1929) và Simone de Beauvoir công bố Giới tính thứ hai (Le Deuxième Sexe, 1949). Đây là những học giả nữ có những luận điểm làm thay đổi cách nhìn của nhân loại về nữ giới và quyền của phụ nữ trong xã hội hiện đại. Cũng giống như nhiều hoạt động chính trị - xã hội khác, phong trào nữ quyền đi từ chính trị đến văn hóa. Lúc đầu người ta đấu tranh bảo vệ những quyền lợi về chính trị cho phụ nữ: quyền bầu cử, quyền được tham gia lãnh đạo, quản lý, quyền được lao động, hưởng lương và các chế độ khác như nam giới. Sau đó là quyền tự do yêu đương, quyền tự quyết định về hôn nhân, gia đình, sự bình đẳng nam - nữ, quyền được chăm sóc con cái... Tuy nhiên, nhìn tổng thể trên thế giới, các quyền chính đáng đó không được luật hóa và ngay cả khi được luật hóa thì chúng cũng không được thực thi đồng đều. Nhiều yếu tố ảnh hưởng đến mục tiêu tốt đẹp này: văn hóa, phong tục, tín ngưỡng, tôn giáo, điều kiện kinh tế, trình độ học vấn... Đó là lý do vì sao trên thế giới phong trào nữ quyền xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX với các khuynh hướng khác nhau nhưng đến giữa thế kỷ XX, phong trào nữ quyền vẫn diễn ra mạnh mẽ. Tinh thần tranh đấu của nữ quyền luận thế kỷ XX là chuyển từ các mối quan tâm về chính trị đến văn hóa, tức là đi vào chiều sâu. Nhiều nhà nữ quyền hiện đại, trên tinh thần phủ định địa vị độc tôn của nam giới, họ đã truy tìm nguồn gốc của tư tưởng trọng nam quyền để phủ định nó. Chẳng hạn, Khổng Tử từng đưa ra nhiều quan điểm làm cơ sở cho Nho giáo xác lập tư tưởng trọng nam khinh nữ trong xã hội phong kiến phương Đông. Sự lệ thuộc của nữ giới vào nam giới có liên quan đến câu chuyện trong Kinh Thánh kể việc Eva được sinh ra từ chiếc xương sườn của Adam. Địa vị lệ thuộc của nữ giới còn có liên quan đến việc các nhà phân tâm học S. Freud, J. Lacan từng lập luận rằng sự khiếm khuyết bộ phận sinh dục ở phụ nữ đã khiến họ (từ trong vô thức) luôn phụ thuộc vào đàn ông. Tóm lại, việc hình thành phong trào nữ quyền trên thế giới có nguồn gốc từ các yếu tố chính trị, xã hội và văn hóa.
Chủ nghĩa nữ quyền (Feminism) song hành cùng với phong trào đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ trong xã hội xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX, kéo dài đến cuối thế kỷ XX qua ba giai đoạn, còn được gọi là ba làn sóng: làn sóng thứ nhất (cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX), làn sóng thứ hai (sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến những năm 60, 70), làn sóng thứ ba (những năm 80, 90 của thế kỷ XX). Còn phê bình nữ quyền (feminist criticism) với tư cách là một lý thuyết phê bình trên thế giới thì phải đợi đến những năm 60 của thế kỷ XX ở phương Tây. Ở Việt Nam, việc đề cập đến quyền bình đẳng của phụ nữ trong xã hội đã xuất hiện trong văn học và báo chí từ đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, việc tiếp nhận chủ nghĩa nữ quyền và phê bình nữ quyền một cách chủ động thì phải đợi đến cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XIX. Một số công trình dịch thuật tiêu biểu đáng ghi nhận: Giới thứ hai (tác giả Simone de Beauvoir, dịch giả Nguyễn Trọng Định, Đoàn Ngọc Thanh, 1996), Một cái chết rất dịu dàng (tác giả Simone de Beauvoir, dịch giả Vũ Đình Lưu, 2009), Căn phòng riêng (tác giả Virginia Woolf, dịch giả Nguyễn Thành Nhân, 2009), Sự thống trị của nam giới (tác giả Pierre Bourdieu, dịch giả Lê Hồng Sâm, 2011). Cùng với việc dịch, giới thiệu là những công trình được tác giả trong nước biên soạn dưới dạng sách hoặc bài báo: Nhận diện chủ nghĩa nữ quyền Pháp thế kỷ XX qua một số đại diện tiêu biểu của nó (Nguyễn Việt Phương, 2012), Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam (Nguyễn Đăng Điệp, 2011), Văn học và giới nữ (Một số vấn đề lý luận và lịch sử) (Phùng Gia Thế và Trần Thiện Khanh biên soạn, 2016), Nữ quyền luận ở Pháp và tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại (Trần Huyền Sâm, 2016), Triết học nữ quyền – Lý thuyết triết học về công bằng cho phụ nữ (Nguyễn Thị Nga chủ biên, 2017)... Đóng góp nổi bật của các công trình này là đã cung cấp cho độc giả những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa nữ quyền và lý thuyết phê bình văn học nữ quyền, một số trường hợp đã soi chiếu vào tác phẩm văn học Việt Nam, bước đầu làm sáng tỏ sự tác động của tư tưởng và tinh thần nữ quyền đối với giới sáng tác. Trong bối cảnh phê bình nữ quyền lan rộng sự ảnh hưởng, một trong những biểu hiện của nó là sự xuất hiện nhiều nhà văn nữ chủ trương lối viết nữ để vừa khẳng định bản ngã nữ giới vừa truyền tải những thông điệp về nữ quyền thì việc tiếp nhận và giới thiệu rộng rãi lý thuyết phê bình nữ quyền là cần thiết. Trong văn học Việt Nam đương đại có sự quan tâm khá hài hòa các bình diện nữ tính, nữ giới và nữ quyền. Nữ tính như một phẩm tính nổi bật của người phụ nữ Việt Nam xuyên suốt chiều dài lịch sử. Nữ giới là xác định bản sắc giới và các biểu hiện của giới tính. Nữ quyền hướng đến quyền bình đẳng giới trong xã hội. Từ Đổi mới đến nay, phê bình nữ quyền ở Việt Nam đã chuyển từ nghiên cứu phái tính trong văn học đến việc tiếp cận những bình diện thuộc nữ quyền từ các khía cạnh khác nhau. Phê bình nữ quyền đương đại có xu hướng kết hợp các lý thuyết khác nhau để mở rộng biên độ bao quát và liên ngành: nữ quyền với phân tâm học, nữ quyền với chủ nghĩa Marx, nữ quyền với sinh thái, nữ quyền với hậu cấu trúc... Cùng với phê bình nữ quyền là xu hướng sáng tác nữ quyền. Sự xuất hiện hàng loạt cây bút nữ với các diễn ngôn mang bản sắc giới đã chuyển tải cả nữ tính lẫn nữ quyền là một biểu hiện đáng chú ý: Lý Lan, Dạ Ngân, Y Ban, Đỗ Hoàng Diệu, Đoàn Thị Lam Luyến, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư... Cũng như phê bình sinh thái, phê bình nữ quyền là một trong những lý thuyết có sức vẫy gọi. Điều đó thể hiện qua những luận văn, luận án gần đây đã chọn phê bình nữ quyền làm lý thuyết tiếp cận nghiên cứu văn học Việt Nam đương đại.
5. Phê bình Marxist
Đổi mới phê bình văn học không đồng nghĩa với việc đoạn tuyệt phương pháp phê bình Marxist – một phương pháp đã chứng minh tính khả thi và hữu dụng trong nhiều công trình phê bình văn học từ sau 1930.
Phê bình Marxist được hình thành vào giai đoạn 1930-1945, cùng với sự phát triển của lý luận văn học Marxist lúc bấy giờ. Lịch sử và thực tiễn phê bình Marxist ở Việt Nam tuy không có nhiều hình thái khác nhau nhưng cũng không hoàn toàn thống nhất. Từ góc độ lịch sử, vào những năm ba mươi của thế kỷ XX, khi lý luận văn nghệ Marxist lần đầu được truyền vào Việt Nam thì phê bình Marxist chưa định hình một cách đầy đủ nhưng những nhà phê bình lúc ấy đã vận dụng khá tốt một số quan điểm của văn nghệ Marxist. Trong các bài viết ủng hộ và bảo vệ quan điểm “Nghệ thuật vị nhân sinh”, Hải Triều và các nhà văn cách mạng đã phân tích tác phẩm của Nguyễn Công Hoan trên tinh thần Marxist. Sau đó, Hải Triều viết Văn sĩ và xã hội thiên về lý luận và Đặng Thai Mai công bố Văn học khái luận (1944) để vừa làm sáng tỏ lý luận văn nghệ Marxist vừa gợi dẫn lý thuyết phê bình Marxist. Sau năm 1945, lý luận, phê bình Marxist có điều kiện mở rộng trong đời sống sinh hoạt văn nghệ, tuy nhiên, do hoàn cảnh chiến tranh, nhiều vấn đề thuộc về lý luận văn nghệ nói chung và văn nghệ Marxist nói riêng chưa được bàn luận một cách thấu đáo. Từ 1955 đến 1975, trong thời kỳ xây dựng nền văn học xã hội chủ nghĩa, nhiều vấn đề căn bản của lý luận văn học theo quan điểm Marxist được dịch, giới thiệu, phổ biến và vận dụng, góp phần thúc đẩy phê bình Marxist, tạo nên những thành tựu nổi bật.
Ở Việt Nam, phê bình Marxist dựa trên quan điểm của lý luận văn học Marxist với những luận điểm có tính nền tảng: 1) Văn học phản ánh hiện thực xã hội theo nguyên tắc lịch sử cụ thể. Do vậy, phê bình tác phẩm là đánh giá khả năng và chất lượng phản ánh hiện thực đời sống (xã hội và con người) của tác phẩm; 2) Văn học mang tính giai cấp. Do vậy, phê bình Marxist còn xem xét thái độ, quan điểm phản ánh của nhà văn qua tác phẩm. Về nguyên tắc, phê bình Marxist coi trọng cả nội dung và hình thức tác phẩm bởi vì các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx khi bàn về văn học (qua một số tác phẩm cụ thể) cũng từng chỉ ra tính chất đặc thù của tác phẩm văn học. Trong những thời điểm cụ thể, ở một vài cây bút phê bình, có thể có hiện tượng coi nhẹ hình thức nghệ thuật, tuy nhiên, đó là những trường hợp đơn lẻ. Trong thành tựu chung của lý luận, phê bình văn học hiện đại ở Việt Nam thế kỷ XX, lý luận và phê bình Marxist có vị trí quan trọng nhất.
Cũng cần ghi nhận công lao của những người gây dựng và phát triển phê bình Marxist trong lịch sử phê bình hiện đại Việt Nam. Từ những năm 1935-1939, Hải Triều đã sớm vận dụng quan điểm Marxist vào phê bình văn học và ông đã chọn đúng đối tượng để phê bình là các tác phẩm hiện thực và nhân đạo của các nhà văn Nguyễn Công Hoan, Lan Khai, M. Gorky. Trong bài Kép Tư Bền – một tác phẩm thuộc về cái triều lưu nghệ thuật vị dân sinh4 ở nước ta, Hải Triều đã ghi nhận Nguyễn Công Hoan là người đã giúp người đọc cảm nhận được hạng người dưới đáy xã hội “phải bán thân nuôi miệng”, “quyết ăn lường để chịu đấm”, còn hạng trên thì “chực mua cái cười, cái vui của kẻ nghèo khó” và bao trùm lên tất cả là “sự xấu xa, mục nát của một chế độ xã hội”. Cũng cần nói thêm rằng, khi viết phê bình theo quan điểm Marxist, Hải Triều đã chú ý đến hình thức của tác phẩm. Ông cho rằng “Hình thức và nội dung có đi đôi với nhau thì tác phẩm mới có giá trị” và “Xem văn Kép Tư Bền, chúng ta nhận thấy rõ tác giả đứng về mặt tả thực chủ nghĩa. Với những câu văn rất thành thực, chắc chắn, hí hởn, ngộ nghĩnh, nhiều khi cục cằn thô bỉ nữa, chúng ta phải phục Nguyễn quân là một nhà văn kể chuyện rất thiệt và rất có duyên”5. Tuy không trích dẫn và phân tích cụ thể nhưng đó là sự đánh giá cao về ngôn ngữ, giọng điệu và nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Công Hoan, tức là Hải Triều không chỉ chú trọng cái được kể mà còn chú trọng cả cách kể chuyện của tác giả Kép Tư Bền.
Từ sau năm 1954 đến nay, nhiều giảng viên, nghiên cứu viên ở các trường đại học và Viện Văn học trở thành những người viết phê bình chuyên nghiệp. Trong giai đoạn này, phê bình Marxist là lý thuyết phê bình gần như duy nhất được tiếp nhận và vận dụng. Nhiều công trình phê bình theo quan điểm Marxist được công bố trở thành những chuyên luận/ chuyên khảo có tính học thuật: Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Văn học lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1932-1945 (Phan Cự Đệ); Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nam Cao – Đời văn và tác phẩm (Hà Minh Đức); Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, Thơ Tố Hữu (Lê Đình Kỵ); Tìm hiểu thơ Hồ Chủ tịch (Hoàng Xuân Nhị); Mấy vấn đề văn xuôi Việt Nam 1945-1970, Chủ tịch Hồ Chí Minh và văn học Việt Nam hiện đại (Phong Lê); Nguyễn Đình Chiểu ngôi sao càng nhìn càng sáng, Tìm hương trong văn Hồ Chí Minh (Lê Trí Viễn); Nguyễn Đình Chiểu – Tấm gương yêu nước và lao động nghệ thuật (Vũ Đức Phúc); Thơ Tố Hữu, tiếng nói đồng ý, đồng tình, đồng chí (Nguyễn Văn Hạnh); Nguyễn Du, Thơ Hồ Xuân Hương (Nguyễn Lộc); Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm (Đặng Thanh Lê); Văn thơ Phan Châu Trinh (Huỳnh Lý); Ngô Thì Nhậm trong nền văn học Tây Sơn (Mai Quốc Liên); Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại (Mã Giang Lân); Toàn cảnh thơ Việt Nam 1945-1975 (Nguyễn Bá Thành); Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX (Trần Đăng Suyền); Văn chương nghệ thuật và thẩm mĩ tiếp nhận (Nguyễn Ngọc Thiện); Văn học phi lý (Nguyễn Văn Dân); Thẩm định các giá trị văn chương (Phan Trọng Thưởng); Nguyễn Công Hoan 1903-1977 (Lê Thị Đức Hạnh)... Bên cạnh những công trình phê bình tiêu biểu được viết dưới dạng chuyên luận, chuyên khảo còn có rất nhiều tập tiểu luận, bài báo khoa học được công bố trên các tạp chí chuyên ngành trước và sau 1986 của các học giả, nhà khoa học như Trần Thanh Đạm, Mai Hương, Tôn Phương Lan, Lê Thành Nghị, Trần Thái Học...
Đóng góp trước hết của phê bình Marxist ở Việt Nam là sự gợi dẫn về phương pháp luận. Vào thời điểm trước Cách mạng Tháng Tám, khi phổ biến là hai hình thức phê bình ấn tượng và phê bình khen chê (Thụy Khuê gọi là “phê bình thực nghiệm”) – cả hai đều dựa trên sự quan sát nội tại từ tác phẩm – thì những người viết phê bình theo phương pháp Marxist đã đề xuất lối phê bình dựa trên sự quan sát ngoại tại. Phê bình Marxist cắt nghĩa tác phẩm từ những bối cảnh lịch sử dựa trên các quan hệ xã hội và tâm thế của nhà văn. Vì vậy, đây là phương pháp phê bình khách quan và khoa học, có khả năng làm sáng tỏ những vấn đề mà nhà văn giãi bày, mô tả trong tác phẩm. Đóng góp quan trọng của phê bình Marxist từ góc độ thực tiễn là với hàng trăm công trình nghiên cứu tiêu biểu, những nhà phê bình Marxist đã phân tích, chỉ ra được cơ sở xã hội, bối cảnh lịch sử thời đại chi phối nội dung tư tưởng của nhiều tác phẩm, tác giả trong lịch sử văn học, đặc biệt là những tác phẩm viết theo khuynh hướng tả thực. Những biểu hiện đề cao cái được phản ánh, tuyệt đối hóa vai trò của nội dung tư tưởng chỉ xuất hiện tùy lúc, tùy người. Các tác giả phê bình thường hướng người đọc đến sự cảm nhận đầy đủ chủ đề của tác phẩm để hiểu chiều sâu tư tưởng của nhà văn. Chính các nhà phê bình Marxist là những người phát hiện và khẳng định tư tưởng nhân đạo, tư tưởng yêu nước trong nhiều tác phẩm văn học Việt Nam trung đại và hiện đại.
Nhìn một cách tổng thể và cụ thể, phê bình văn học ở Việt Nam sau 1975, đặc biệt từ Đổi mới (1986) đến nay, đã có sự phát triển vượt bậc về chất và lượng. Việc nhanh nhạy chiếm lĩnh các lý thuyết phê bình hiện đại của thế giới cùng với năng lực cảm thụ tác phẩm của đội ngũ những nhà phê bình giàu kinh nghiệm và tinh tế (trong đó có những nhà phê bình trẻ) đã góp phần kiến tạo một nền phê bình văn học đậm tính học thuật ở Việt Nam sau 1975.
Chú thích:
1 Chẳng hạn: Nguyễn Minh Châu cảnh báo “văn nghệ minh họa”, Hoàng Ngọc Hiến soi xét “văn học phải đạo”.
2 Dựa vào quan điểm của Hippolyte Taine – nhà sử học, nhà phê bình văn học và triết học thuộc trường phái văn hóa - lịch sử ở Pháp.
3 Chẳng hạn: Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật (Đỗ Lai Thúy biên soạn với sự phối hợp của nhiều dịch giả), NXB Văn hóa - Thông tin, 2000; Nguồn gốc của văn hóa và tôn giáo (S. Freud, Lương Văn Kế dịch), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000; Jung đã thực sự nói gì? (E. A. Bennet, Bùi Lưu Phi Khanh dịch), NXB Văn hóa - Thông tin, 2002; Phân tâm học và tâm linh (Đỗ Lai Thúy biên soạn), NXB Văn hóa - Thông tin, 2002; Phân tâm học và tình yêu (Đỗ Lai Thúy và các dịch giả), NXB Văn hóa - Thông tin, 2003; Freud và phân tâm học (Phạm Minh Lăng), NXB Văn hóa - Thông tin, 2004; Các bài viết về giấc mơ và giải thích giấc mơ (S. Freud), NXB Thế giới, 2005; Phân tâm học và tính cách dân tộc (Đỗ Lai Thúy biên soạn), NXB Tri thức, 2007…
4 Sau này, Hải Triều đính chính lại là “vị nhân sinh”.
5 Nguyễn Ngọc Thiện (biên soạn, 2001), Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX, tập 2, NXB Lao động, tr. 572.