LÝ LUẬN, PHÊ BÌNH VĂN NGHỆ SAU 50 NĂM ĐẤT NƯỚC THỐNG NHẤT: THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN

Bài viết tổng kết quá trình phát triển của lý luận, phê bình văn nghệ Việt Nam sau 50 năm thống nhất đất nước, làm rõ những thành tựu, hạn chế; đề xuất định hướng đổi mới, phát triển nền lý luận, phê bình văn nghệ nước nhà.

   Từ chiến thắng mùa Xuân 1975, đất nước thống nhất, hòa bình, non sông về một mối, văn học, nghệ thuật Việt Nam cũng thống nhất hòa hợp trên hành trình xây dựng và phát triển. Nhìn lại tiến trình vận động của văn học nói chung và lý luận, phê bình văn học nói riêng trong 50 năm qua, chúng tôi muốn phác thảo những thành tựu, hạn chế, rút ra bài học kinh nghiệm, góp phần định hướng phát triển lý luận, phê bình văn nghệ nước ta trong chặng đường tới.

   1. Sự thống nhất về tư tưởng và sự mở rộng biên độ tư duy lý luận văn nghệ

   Lý luận Marxist đã được truyền bá vào Việt Nam từ những năm ba mươi của thế kỷ trước qua những bài báo của Hải Triều, được thể hiện tập trung qua Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 của Đảng, qua công trình Văn học khái luận của Đặng Thai Mai và được truyền bá ngày càng sâu rộng sau Cách mạng Tháng Tám. Trong những năm sau hòa bình lập lại trên Miền Bắc, các nhà khoa học ở các viện nghiên cứu và trường đại học đã khẩn trương dịch tài liệu lý luận văn nghệ Marxist từ tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Đức và soạn thảo các giáo trình, chuyên luận về lý luận văn học, nghệ thuật để giảng dạy và hướng dẫn sáng tác.

   Từ năm 1975, lý luận văn nghệ Marxist tiếp tục giữ định hướng cho đường lối phát triển văn nghệ cả nước, phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa vẫn được tiếp tục đề cao. Với tinh thần thống nhất trong tư tưởng văn nghệ, trong giáo dục thẩm mĩ, tất cả sinh viên Ngữ văn cả nước đều được học theo giáo trình lý luận văn học thống nhất do các giảng viên Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và Trường Đại học Sư phạm Hà Nội biên soạn. Các trường phái nghệ thuật phương Tây tiếp tục bị phê phán; lý luận văn nghệ giai đoạn 1954-1975 trong vùng đô thị Miền Nam cũng bị phê phán khá nặng nề.

   Bên cạnh xu hướng duy trì tư tưởng lý luận Marxist một cách kiên định như trên là xu hướng mềm mại và cởi mở hơn trong tư duy lý luận. Quan điểm kết hợp dân tộc với quốc tế, dân tộc và hiện đại đã phần nào được thể hiện trong các công trình lý luận văn nghệ và giáo trình lý luận ở các trường đại học. Tính đảng trong văn nghệ không còn được đề cập tới còn tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc tiếp tục được trình bày uyển chuyển hơn. Chức năng giao tiếp lần đầu tiên được trình bày bình đẳng với các chức năng nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ.

   Cùng với sự chuyển biến của lý luận văn học Liên Xô, lý luận văn học Việt Nam giai đoạn 1975-1985 cũng có những chuyển biến mới, vừa theo quán tính của giai đoạn trước vừa có sự rộng mở hơn về biên độ tư duy nghệ thuật. Các vấn đề chủ thể sáng tạo và phong cách nhà văn được chú ý hơn trước, quan niệm về phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa cũng mở rộng. Đại hội nhà văn Liên Xô lần thứ năm (1971), Viện sĩ D. Markov đề xuất phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa là hệ thống mở. Tính tượng trưng, ước lệ được chấp nhận, đặc trưng của nghệ thuật được chú trọng hơn. Từ đó, lý luận Marxist ở Liên Xô dần dần đỡ cứng nhắc và giáo điều, các cuốn sách lý luận văn học đã mở rộng vấn đề sang chủ thể sáng tạo, tính nghệ thuật của văn học, vấn đề tiếp nhận văn học. Các nghiên cứu về hình thức nghệ thuật ngôn từ, thi pháp học, ký hiệu học, phong cách học được tập trung nghiên cứu nhiều hơn trước.

   Trước những chuyển biến trong lý luận văn học ở Liên Xô, giới lý luận, phê bình văn học Việt Nam đã nhanh chóng dịch các cuốn giáo trình mới biên soạn nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu ở Việt Nam. Mối quan tâm của lý luận văn học từ bình diện phản ánh chuyển sang bình diện biểu hiện, từ mối quan hệ giữa văn học và hiện thực sang mối quan hệ giữa văn học và chủ thể sáng tạo. Nhờ vậy mà cá tính sáng tạo và phong cách nghệ thuật của nhà văn được chú trọng hơn, văn bản văn học được coi là trung tâm, là cơ sở để khám phá thế giới nghệ thuật, tính nghệ thuật của ngôn từ trở thành một phương diện nghiên cứu của khoa văn học, tâm lý học sáng tạo văn học cũng được quan tâm hơn trước. Những bước khởi động ấy là tiền đề quan trọng chuẩn bị cho công cuộc đổi mới văn học từ sau năm 1986.

   2. Những giới hạn của lý luận văn nghệ giai đoạn 1975-1985 và nhu cầu đổi mới văn học, nghệ thuật

   Lý luận văn học Việt Nam giai đoạn 1975-1985 vận động và phát triển trong hoàn cảnh vừa có chiến tranh vừa hòa bình. Mọi hoạt động văn học, nghệ thuật trước hết phục vụ cho sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng đất nước theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Cơ sở tư tưởng của lý luận văn nghệ nước ta là chủ nghĩa Marx - Lenin. Đường lối văn nghệ do Đảng trực tiếp xây dựng và chỉ đạo, nhà văn là người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, nghệ thuật; văn nghệ là vũ khí đấu tranh, là phương tiện tuyên truyền, cổ vũ quần chúng thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Nhà văn luôn luôn phải quán triệt sâu sắc tính đảng, tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc trong sáng tác văn học. Những vấn đề mang tính nguyên tắc ấy đã tạo nên một nền văn nghệ mang tính dân tộc và đại chúng, góp phần không nhỏ vào cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và thống nhất đất nước.

   Trong thời kỳ này, lối tư duy đối lập nhị nguyên như đối lập giữa khách thể/ chủ thể, tồn tại/ ý thức, bản chất/ hiện tượng, nội dung/ hình thức, cái chung/ cái riêng, tư sản/ vô sản… đã dẫn đến hiện tượng máy móc, giáo điều trong việc vận dụng phản ánh luận và học thuyết đấu tranh giai cấp vào lý luận văn nghệ. Điều đó khiến cho nền văn nghệ của ta hơi nghèo nàn, đơn điệu trong tư tưởng và nghệ thuật. Cũng do có lúc quá tả khuynh trong đấu tranh giai cấp mà đã xảy ra những vụ án văn nghệ quá nặng nề, những quy kết không đáng có khiến cho một số nhà văn mất hết tâm huyết sáng tạo văn học. Mặt khác, do hoàn cảnh đất nước bị chia cắt trong hơn hai mươi năm mà lý luận văn nghệ cũng bị ngăn cách, phân hóa theo những xu hướng khác nhau, thậm chí là đối lập nhau. Sau khi đất nước thống nhất, việc phê phán tư tưởng văn nghệ trong vùng đô thị Miền Nam vẫn tiếp diễn và sang những năm tám mươi mới dần hòa hợp trong ngôi nhà chung và có sự ảnh hưởng hai chiều, chuyển biến theo chiều hướng cởi mở hơn, đa dạng hơn. Đó là nhân tố quan trọng đã chuẩn bị cho một thời kỳ mới của lý luận văn nghệ sẽ mở ra từ sau năm 1986.

   3. Những thành tựu cơ bản của lý luận, phê bình văn nghệ từ Đổi mới

   3.1. Tiếp thu và ứng dụng các thành tựu lý luận văn nghệ hiện đại nước ngoài

   Trong bối cảnh giao lưu hội nhập văn hóa mở rộng, những trào lưu tư tưởng văn hóa, nghệ thuật của các nước phương Tây cũng được dịch và giới thiệu rộng rãi. Các công trình lý luận văn học của Nga và phương Tây được dịch nhiều hơn và đa dạng hơn. Với sự nỗ lực của đội ngũ đông đảo các dịch giả, các nhà lý luận văn nghệ mà lý luận văn nghệ nước ta đã từng bước tiếp thu và hội nhập ngày sâu rộng hơn với lý luận văn nghệ thế giới đương đại, có những đổi mới đáng ghi nhận.

   Nhờ việc giới thiệu mĩ học Marxist phương Tây với những đại diện tiêu biểu như G. Lukács, J. P. Sartre, C. Caudwell, L. Goldmann, P. Bourdieu, R. Garaudy… mĩ học Marxist được bổ sung hoàn thiện hơn. Các trường phái lý luận hiện đại của thế giới tiêu biểu như trường phái hình thức Nga, thi pháp học, tự sự học, phân tâm học, mĩ học tiếp nhận, văn học so sánh, ký hiệu học, chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa hậu cấu trúc và lý thuyết liên văn bản, lý thuyết diễn ngôn, chủ nghĩa hậu hiện đại, nữ quyền luận, phê bình sinh thái, lý thuyết địa văn hóa… được tiếp nhận dù muộn màng nhưng góp phần quan trọng hiện đại hóa lý luận văn học nước nhà.

   Những vấn đề lý thuyết về văn học hậu hiện đại cũng được nhiều nhà nghiên cứu văn học quan tâm. Nhìn lại những ấn phẩm về lý luận, phê bình văn học thế giới được dịch thuật, giới thiệu và nghiên cứu trong mấy chục năm qua, chúng ta phải thừa nhận rằng, giới lý luận, phê bình văn nghệ nước ta đã có những nỗ lực rất lớn trong quá trình hội nhập. Tuy nhiên quá trình tiếp nhận chưa có tính hệ thống, còn mang tính một chiều, yếu về tính đối thoại, chưa chỉ ra được những giới hạn và số phận lịch sử của các trường phái lý luận văn nghệ hiện đại.

   3.2. Tiếp thu và ứng dụng tinh hoa mĩ học cổ điển thế giới

   Tinh hoa mĩ học cổ điển phương Đông và phương Tây được dịch và giới thiệu một cách hệ thống hơn và đa dạng hơn. Về mĩ học cổ điển phương Đông mà chủ yếu là mĩ học cổ điển Trung Hoa với những kiệt tác như Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp (Phan Ngọc dịch, 1996), Tùy viên thi thoại của Viên Mai (Nguyễn Đức Vân dịch, 1999) được dịch và khảo cứu công phu. Trước đó, năm 1994, NXB Giáo dục cho xuất bản công trình Lý luận văn học, nghệ thuật cổ điển Trung Quốc của Khâu Chấn Thanh (Mai Xuân Hải dịch). Công trình Đại cương lịch sử mỹ học Trung Quốc của Diệp Lang được Nguyễn Quang Hà dịch (NXB Thế giới, 2014) đã nghiên cứu công phu hệ thống mĩ học Trung Quốc từ cổ điển đến hiện đại. Đặc biệt, công trình Thi học cổ điển Trung Hoa do Phương Lựu chủ biên (NXB Đại học Sư phạm, 2016) đã tổng quan được các học phái, phạm trù và mệnh đề cơ bản trong mĩ học Trung Hoa. Gần đây, cuốn Mỹ học cổ điển Nhật Bản của Onishi Yoshinori được Nguyễn Lương Hải Khôi lược dịch (NXB Đại học Sư phạm, 2021) cung cấp những tri thức cơ bản về văn hóa, thẩm mĩ và nghệ thuật cổ điển Nhật Bản. Đặc biệt cuốn sách đề xuất được một phương pháp luận giải bản sắc dân tộc Nhật Bản trong sự đối sánh với các dân tộc khác ở phương Đông và phương Tây.

   Mĩ học cổ điển phương Tây từ lâu đã được các nhà lý luận văn học Việt Nam quan tâm. Cuốn Nghệ thuật thơ ca của nhà triết học, mĩ học lỗi lạc Hy Lạp cổ đại Aristote lần đầu tiên được Lê Đăng Bảng, Thành Thế Thái Bình, Đỗ Xuân Hà, Thành Thế Yên Bảy dịch và NXB Văn hóa – nghệ thuật Hà Nội in năm 1964; đến năm 1999, Đoàn Tử Huyến hiệu đính và in lại cùng Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp (NXB Văn học, 1999). Cũng trong năm này, bộ Mĩ học của Heghen (do Phan Ngọc dịch) được ra mắt độc giả1. Việc dịch và giới thiệu có hệ thống lịch sử tư tưởng và mĩ học nhân loại là cơ sở quan trọng để các nhà nghiên cứu lý luận văn nghệ có được bề dày văn hóa, có điểm tựa triết – mĩ trong tiếp nhận và kiến tạo tri thức lý luận văn nghệ. Trong thời gian qua, chúng ta đã có nhiều nỗ lực trong công tác dịch thuật, giới thiệu, nghiên cứu về lý luận văn nghệ nhân loại nhưng còn có nhiều khoảng trống cần được bù lấp, nhất là mĩ học Ấn Độ và khu vực Trung, Nam Á.

   3.3. Chuyển đổi hệ hình lý luận, phê bình văn nghệ Việt Nam theo hướng hiện đại

   3.3.1. Nhìn nhận lại một số quan điểm giáo điều, máy móc trong thời bao cấp

   Đổi mới tư duy trong lý luận văn học thường xuất phát từ việc đổi mới tư duy triết học, tư tưởng mĩ học. Một thời kỳ dài lý luận văn học chúng ta chỉ dựa trên nền tảng mĩ học Marx – Lenin được truyền bá từ Liên Xô, Trung Quốc. Những giới hạn của lý luận văn nghệ Marx – Lenin xuất phát từ sự nhìn nhận văn nghệ trong hai mối quan hệ chủ yếu là: văn nghệ và thực tại xã hội, văn nghệ và các hình thái ý thức xã hội khác. Trong quan hệ văn nghệ với thực tại, các nhà lý luận dựa vào phản ánh luận của Lenin, lấy chân lý đời sống làm thước đo chân lý nghệ thuật và quy giá trị hàng đầu của tác phẩm nghệ thuật là tính chân thực. Trong quan hệ với các hình thái xã hội khác, văn nghệ không được đặt ở vị thế bình đẳng mà thường bị coi là phương tiện, là công cụ của các hình thái ý thức. Các mối quan hệ khác của văn nghệ như văn nghệ và chủ thể sáng tạo, văn nghệ với chủ thể tiếp nhận, văn nghệ với phương thức thể hiện của từng loại hình nghệ thuật chưa được chú ý đúng mức.

   Trong không khí dân chủ hóa của xã hội và trong đời sống tư tưởng những năm cuối thập niên cuối thế kỷ XX, hàng loạt vấn đề cốt yếu của lý luận và thực tiễn văn học đã được đưa ra bàn thảo, tranh luận sôi nổi, như các vấn đề văn nghệ và chính trị, văn học phản ánh hiện thực, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, các chức năng của văn học, đánh giá nền văn học cách mạng thời kỳ vừa qua… Trong đó, có những vấn đề trước đây dường như là nguyên tắc bất di bất dịch, không thể nghi ngờ hay bàn cãi, thì nay cũng được đặt lên bàn tròn tranh luận. Bên cạnh vấn đề “văn nghệ và chính trị”, các vấn đề như “văn nghệ và hiện thực”, quan hệ giữa tác giả và tác phẩm cũng được đề nghị xem xét lại. Vấn đề chủ thể sáng tạo đang dần được quan tâm và nhờ đó các chức năng như giãi bày bộc lộ, giao tiếp của văn học mới được thừa nhận. Bình diện chủ quan trong phản ánh hiện thực được thừa nhận như một quy luật của phản ánh nghệ thuật.

   3.3.2. Đổi mới lý luận theo hướng hiện đại hóa và dân tộc hóa

   Trong những thập niên đầu thế kỷ XXI, lý luận, phê bình nghệ thuật tiếp tục đổi mới theo hướng hiện đại hóa và dân tộc tộc hóa. Các văn nghệ sĩ đề cao tinh thần nhân văn mới và nỗ lực cách tân nghệ thuật theo hướng hiện đại. Trong lĩnh vực lý luận, phê bình, các nhà lý luận, phê bình bắt đầu nói nhiều hơn đến những phương pháp tiếp cận giá trị văn học từ bản chất nghệ thuật đặc thù của nó. Trên cơ sở mĩ học Marxist và tư tưởng văn nghệ Hồ Chí Minh cùng với sự tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn nghệ thế giới, lý luận văn nghệ Việt Nam đã góp phần vào việc xây dựng và phát triển nghệ thuật nước nhà.

   Hiện đại hóa lý luận trước hết được thể hiện ở việc mở rộng không gian tư duy nghiên cứu văn nghệ. Nếu trước đây, chúng ta thiên về quan hệ bên ngoài, tức là quan hệ giữa văn nghệ và các hình thái ý thức xã hội và hiện thực đời sống thì hiện nay chúng ta đã chú ý hơn về bản thân hoạt động văn nghệ như bản chất thẩm mĩ, bản chất văn hóa, bản chất ký hiệu, tâm lý sáng tạo nghệ thuật. Kết hợp giữa khuynh hướng hướng ngoại và khuynh hướng hướng nội trong lý luận, phê bình văn nghệ và sáng tạo văn nghệ.

   Giải quyết khá thỏa đáng mối quan hệ giữa lý luận cổ điển, lý luận hiện đại thế giới và lý luận truyền thống dân tộc. Trong mấy chục năm qua, các lý thuyết văn nghệ thế giới từ cổ điển đến hiện đại đã được giới thiệu và ứng dụng vào nghiên cứu, phê bình ở Việt Nam góp phần đổi mới tư duy và hướng tiếp cận của các nhà lý luận, phê bình. Quá trình dung hợp giữa lý luận cổ điển và hiện đại, giữa dân tộc và nhân loại đã gạt bỏ quan niệm về chân lý tuyệt đối, tính độc quyền về tư tưởng và phương pháp, chấp nhận tính đa dạng, tính đối thoại, tính dân chủ trong lý luận, phê bình văn nghệ.

   3.3.3. Đổi mới phương pháp luận phê bình góp phần nâng cao chất lượng hoạt động sáng tạo nghệ thuật

   Phê bình văn nghệ trong những năm qua đã góp phần phát hiện, giới thiệu đến công chúng nhiều tác giả, tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị; phát hiện cái hay, cái đẹp về nội dung và hình thức của tác phẩm nghệ thuật; hướng dẫn công chúng thưởng thức nghệ thuật; tạo cầu nối giữa văn nghệ sĩ với công chúng; khích lệ những tìm tòi, sáng tạo mới. Từng bước khắc phục lối phê bình cảm tính, xã hội học dung tục, võ đoán, quy chụp chính trị. Thông qua sinh hoạt phê bình, một số vấn đề liên quan đến chuẩn mực giá trị văn học, nghệ thuật và hệ thống lý luận mĩ học đã bước đầu được soi chiếu, điều chỉnh. Phê bình văn nghệ đã tham gia tích cực trong đấu tranh với những hiện tượng sai trái, xu hướng cực đoan, hình thức chủ nghĩa… góp phần vào sự phát triển lành mạnh của đời sống văn nghệ.

   Đổi mới lý luận, phê bình văn nghệ không thể chỉ dừng ở sự đổi mới quan niệm phê bình, mà quan trọng và cốt yếu chính là sự đổi mới phương pháp phê bình văn học, mở ra những hướng tiếp cận mới để khám phá mọi bình diện và tầng bậc của văn nghệ đương đại. Các hướng tiếp cận mới như thi pháp học, tự sự học, phân tâm học, nữ quyền luận, phê bình giới, phê bình ký hiệu học, phê bình sinh thái, lý thuyết địa văn học… được ứng dụng và bước đầu có những thành tựu đáng trân trọng.

   3.4. Lý luận, phê bình văn nghệ của người Việt Nam ở nước ngoài

   3.4.1. Về đội ngũ

   Trước năm 1975 đã có gần 20 vạn người Việt Nam định cư ở nước ngoài, sau năm 1975 đến nay số lượng người Việt Nam sinh sống, làm việc ở nước ngoài tăng lên rất nhanh, gần 6 triệu người. Trong số đó có khá nhiều người hoạt động sáng tác, biểu diễn, phê bình văn học, nghệ thuật. Họ định cư chủ yếu ở các khu vực châu Âu, Bắc Mĩ, châu Úc… Riêng lĩnh vực lý luận, phê bình văn học, có thể kể đến những cây bút như Đặng Tiến, Thụy Khuê, Hoàng Ngọc Tuấn, Bùi Vĩnh Phúc, Nguyễn Vy Khanh, Đặng Phùng Quân, Đoàn Cầm Thi, Nguyễn Đức Tùng, Trương Hồng Quang… Từ khi công nghệ thông tin phát triển nhanh chóng, cộng đồng mạng ngày càng đông đúc, sự kết nối của người Việt Nam ở nước ngoài thuận lợi hơn thông qua một số website văn học. Lý luận, phê bình văn học của người Việt Nam ở nước ngoài phát triển với nhiều khuynh hướng đa dạng, có những đóng góp nhất định cho quá trình hội nhập và hiện đại hóa nền lý luận văn nghệ nước nhà.

   3.4.2. Các khuynh hướng và thành tựu lý luận, phê bình

   Trong môi trường văn hóa, nghệ thuật phương Tây hiện đại, những người viết văn người Việt Nam có điều kiện giao lưu, hội nhập quốc tế, hướng tới cộng đồng văn chương nhân loại. Cũng từ những môi trường khác nhau và điều kiện tiếp xúc học thuật khác nhau mà hình thành những khuynh hướng lý luận, phê bình khác nhau.

   Khuynh hướng xã hội học văn học và chú giải học được thể hiện khá phổ biến trong các công trình tổng thuật, biên khảo về văn học sử của Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Vy Khanh, Luân Hoán, Khánh Trường. Ngoài ra có thể kể đến các bài viết mang tính tổng thuật về văn học người Việt Nam ở nước ngoài của các tác giả Thụy Khuê, Nguyễn Mộng Giác, Bùi Vĩnh Phúc… Những bài viết của họ đã cố gắng tôn trọng tính lịch sử cụ thể, tính chính xác của tư liệu nhưng khi phân tích, đánh giá mang đậm sự cảm nhận chủ quan của người viết.

   Khuynh hướng phê bình hình thức và thi pháp học văn học được các nhà phê bình, nghiên cứu ứng dụng khá thành công. Người tiên phong cho khuynh hướng này là Đặng Tiến. Ông đã giới thiệu thi pháp học của Roman Jakobson, của Claude Lévi–Strauss và ghi nhận những đóng góp của nhà ngôn ngữ học Nguyễn Tài Cẩn đối với nền thi học Việt Nam, nghiên cứu các trường hợp cụ thể như thơ của Nguyễn Trãi, Tản Đà, Hàn Mặc Tử, Thế Lữ, Xuân Diệu, Đinh Hùng, Bùi Giáng, Văn Cao, Quang Dũng, Lê Đạt… Nhìn chung, Đặng Tiến đã ứng dụng thi pháp học từ bình diện ngữ học khá hiệu quả, mỗi nhà thơ, tập thơ, ông đều có những kiến giải độc đáo, thuyết phục. Ngoài những đóng góp của Đặng Tiến cho nghiên cứu thi pháp thơ Việt Nam còn có những bài phê bình, nghiên cứu theo hướng thi pháp học của Bùi Vĩnh Phúc, Thụy Khuê, Đoàn Nhã Văn, Nguyễn Đức Tùng, Đoàn Cầm Thi…

   Khuynh hướng phê bình cấu trúc với những tên tuổi như R. Barthes, T. Todorov, J. Culler… được Thụy Khuê, Đoàn Cầm Thi… tiếp nhận và ứng dụng trong phê bình, nghiên cứu văn học. Nhà phê bình Thụy Khuê đã kết hợp cả phê bình cấu trúc và tiếp cận thi pháp học để nghiên cứu các tác giả văn học Việt Nam hiện đại như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà…

   Phê bình văn hóa học văn chương là một khuynh hướng nghiên cứu được các nhà lý luận, phê bình văn học đặc biệt quan tâm hiện nay. Khi xu hướng liên ngành trở thành một đặc điểm nổi bật của thời đại 4.0 thì việc tiếp cận văn chương từ văn hóa học là tất yếu. Phê bình văn hóa học văn chương là nghiên cứu văn chương trong mối quan hệ chặt chẽ với môi sinh văn hóa, lý giải cách hiện tượng văn chương từ cội nguồn văn hóa, như là một biểu hiện của văn hóa. Trên diễn đàn phê bình nghiên cứu văn chương người Việt Nam ở nước ngoài có một số nhà phê bình như Nguyễn Hưng Quốc, Phạm Thị Hoài, Hoàng Ngọc Tuấn… viết phê bình văn chương từ văn hóa học. Tinh thần phản biện văn hóa được đề cao, gay gắt phê phán mặt trái trong văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên vì cách nhìn, chỗ đứng và mặc cảm lưu vong khiến cho những công trình trên có những nhận định cực đoan, phiến diện, thiếu thiện chí.

   4. Những hạn chế, thách thức và định hướng phát triển

   4.1. Về đội ngũ lý luận, phê bình và quản lý văn nghệ

   Những năm gần đây, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ lý luận, phê bình văn nghệ sĩ kế cận được quan tâm, chú trọng hơn. Tuy nhiên chưa có những chính sách đột phá trong đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng những người có năng lực phù hợp với công tác quản lý văn nghệ. Số lượng những người làm công tác lý luận, phê bình văn nghệ khá đông nhưng phân bố không hợp lý về thế hệ, lĩnh vực chuyên môn. Hiện đang có sự hụt hẫng về thế hệ, đặc biệt trong lĩnh vực lý luận, phê bình âm nhạc, sân khấu, điện ảnh... Các cơ sở đào tạo tiến hành rà soát, chỉnh sửa chương trình đào tạo theo hướng phù hợp với thực tiễn vận động của đời sống văn học, nghệ thuật, nhưng vẫn chưa thu hút được sinh viên, học viên đăng ký học về lý luận, phê bình văn nghệ.

   Việc sắp xếp, bố trí những người làm công tác quản lý văn hóa, văn nghệ có lúc, có nơi không hợp lý. Không ít người làm công tác quản lý văn nghệ nhưng chuyên môn được đào tạo ít liên quan đến văn hóa, văn nghệ, không hiểu đặc trưng của hoạt động văn nghệ nên gặp khó khăn trong việc nắm bắt các hiện tượng văn hóa, văn nghệ cũng như định hướng phát triển văn hóa, văn nghệ.

   4.2. Về nội dung hoạt động lý luận, phê bình văn nghệ

   Lý luận văn nghệ vẫn chậm đổi mới so với yêu cầu thực tiễn sáng tạo. Việc dịch thuật giới thiệu lý luận văn nghệ nước ngoài còn thiếu tính hệ thống, mang tính tự phát, có lúc hiểu chưa đúng bản chất và giới hạn lịch sử của các lý thuyết văn nghệ. Nhiều vấn đề lý luận văn nghệ được đặt ra nhưng không được bàn bạc đến cùng và kết luận dứt khoát, có những vấn đề lý luận văn nghệ còn bỏ ngỏ (vấn đề trào lưu phương pháp nghệ thuật ở Việt Nam, cách tiếp thu lý luận Marxist phương Tây ra sao…). Chưa xây dựng được hệ thống lý luận văn nghệ Việt Nam thời kỳ mới theo định hướng dân tộc, khoa học, hiện đại, dân chủ, nhân văn.

   Chưa xây dựng được hệ giá trị văn nghệ để định hướng sáng tác và phê bình văn nghệ. Hoạt động phê bình trầm lắng, thiếu những tranh luận đối thoại trước các hiện tượng văn học, nghệ thuật đương đại. Nhiều bài phê bình mang tính quảng bá, điểm sách, chưa có khả năng định hướng thẩm mĩ của công chúng. Một số phương pháp phê bình mới của nước ngoài được giới thiệu nhưng ứng dụng còn có lúc khiên cưỡng, áp đặt, thiếu thuyết phục.

   4.3. Về công tác quản lý hoạt động văn hóa, văn nghệ

   Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng về văn hóa, nghệ thuật chưa được thể chế hóa, cụ thể hóa trong hoạt động của nhà nước, của các hiệp hội, của chính quyền địa phương. Chính sách đầu tư công cho văn hóa, văn nghệ chậm đổi mới, chưa tương xứng với yêu cầu phát triển văn hóa nghệ thuật ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Công tác quản lý hoạt động của văn nghệ trên mạng xã hội chưa được quan tâm đúng mức và chưa tìm ra biện pháp quản lý hiệu quả. Tình trạng nhạc phẩm, phim ảnh, tranh truyện, văn học mạng truyền đi lan tràn, chưa có phương thức quản lý làm ảnh hưởng đến thị hiếu giới trẻ.

   Gần nửa thế kỷ qua, lý luận văn nghệ Việt Nam đã có bước tiến dài chưa từng thấy trong tiến trình lịch sử văn nghệ dân tộc. Những di sản lý luận truyền thống văn nghệ dân tộc được nghiên cứu, kế thừa; những tri thức kinh điển lý luận văn nghệ nhân loại được nghiên cứu và tiếp nhận; những lý thuyết mới về văn nghệ của nước ngoài được giới thiệu và ứng dụng. Tuy nhiên việc tiếp nhận các lý thuyết văn nghệ và ứng dụng vào phê bình, nghiên cứu còn hạn chế. Việc dịch thuật các công trình lý luận nước ngoài thiếu tính hệ thống, mang tính tự phát của cá nhân. Nhiều lý thuyết đã lỗi thời, số phận lịch sử của nó đã chấm dứt nhưng chúng ta vẫn chưa nhận ra những giới hạn của nó, chưa hiểu đúng bản chất và giá trị cốt lõi của các lý thuyết, vì thế ứng dụng không hiệu quả, nhiều lúc khiên cưỡng, không có giá trị khoa học.

   4.4. Định hướng phát triển lý luận, phê bình văn nghệ thời kỳ tới

   Từ thành tựu và hạn chế của lý luận văn nghệ trong hành trình 50 năm qua, chúng ta có thêm những bài học bổ ích và thiết thực. Để phát triển lý luận trong thời kỳ mới, chúng ta luôn kiên trì quan điểm kế thừa và cách tân, dân tộc và hiện đại để góp phần xây dựng nền văn nghệ Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giàu tính nhân văn, khơi dậy sức mạnh và khát vọng vươn mình của dân tộc, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên hưng thịnh, hạnh phúc. Để thực hiện được những mục tiêu đó, chúng tôi xin đề xuất một vài giải pháp như sau:

   Thứ nhất, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, thể chế hóa đường lối bằng pháp luật, phát huy mọi nguồn lực xã hội, đặc biệt là kinh tế tư nhân đầu tư có hiệu quả vào hoạt động chấn hưng văn học, nghệ thuật; đẩy mạnh giao lưu văn hóa nghệ thuật với các quốc gia, tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển ngành công nghiệp văn hóa, văn nghệ.

   Thứ hai, nhà nước cần đầu tư kinh phí thích đáng để đào tạo đội ngũ lý luận, phê bình văn nghệ từ các quốc gia tiên tiến nhất để họ có chuyên môn cao, có năng lực nghiên cứu khoa học và nắm bắt thực tiễn sáng tạo văn nghệ. Sử dụng những người có uy tín chuyên môn cao, tâm huyết, có lập trường chính trị vững vàng tham gia quản lý văn hóa, văn nghệ ở các cấp.

   Thứ ba, tăng cường giao lưu trao đổi với giới lý luận, phê bình văn nghệ nước ngoài để khảo sát, học tập cách xây dựng hành lang pháp lý và cơ chế quan lý, khuyến khích phát triển văn hóa, văn nghệ ở các nước tiên tiến trên thế giới.

   Thứ tư, khẩn trương xây dựng hệ giá trị văn học, nghệ thuật tiên tiến, khoa học, phù hợp với thực tiễn văn nghệ dân tộc và khuynh hướng phát triển của thời đại.

   Thứ năm, tìm cơ chế quản lý, kiểm soát các sản phẩm văn hóa, văn nghệ trên không gian mạng; lập các diễn đàn văn học, nghệ thuật trên không gian mạng để kịp thời cung cấp quan điểm, hướng tiếp cận, phương pháp mới cho văn nghệ sĩ và đội ngũ lý luận, phê bình; tạo điều kiện cho cộng đồng mạng được tranh luận một cách dân chủ, lành mạnh về các hiện tượng văn học, nghệ thuật trong nước và trên thế giới, qua đó định hướng sáng tác và tiếp nhận văn học, nghệ thuật đúng đắn, lành mạnh.

 

 

 

Chú thích:
1 Heghen (Phan Ngọc dịch và giới thiệu, 1999), Mĩ học, tập 1, tập 2, NXB Văn học.

Bình luận

    Chưa có bình luận