Về phê bình văn học hôm nay, ngay cả chỉ là hình dung sơ bộ cũng đã là rất khó. Khó vì những biến động quá lớn trong thực trạng và các tiêu chí đánh giá. Đó là tình hình hoàn toàn khác biệt với tất cả các giai đoạn trước mà tôi được biết và chứng kiến, cho đến thập niên cuối thế kỷ XX.
Chẳng hạn thời kỳ 1930-1945, tôi muốn xem là thời kỳ hoàn thiện diện mạo hiện đại của đời sống văn học; thời kỳ văn học gặt hái được một mùa màng ngoạn mục nhất, trong đó có thành tựu của nghiên cứu, lý luận, phê bình. Chỉ trong 15 năm, nếu thành tựu sáng tác là rất nổi bật trên cả ba trào lưu văn học lãng mạn, hiện thực và cách mạng thì thành tựu phê bình cũng được kết tinh trên nhiều tác gia, tác phẩm tiêu biểu như của Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Lê Thanh, Trương Chính, Trần Thanh Mại, trong đó có những tên sách có giá trị thế kỷ như Phê bình và Cảo luận, Thi nhân Việt Nam, Nhà văn hiện đại...
Sau 1945 cho đến thời Đổi mới, bắt đầu từ nửa sau thập niên 1980, đời sống văn học đi vào một quỹ đạo mới, thành tựu của nghiên cứu, lý luận, phê bình hướng vào quỹ đạo của “Đường lối cách mạng” và “Đường lối văn nghệ” của Đảng. Sau những chuẩn bị “nhận đường” ban đầu theo ba phương châm: Dân tộc, Đại chúng, Khoa học và mục tiêu phục vụ công - nông - binh, lý luận văn học Marxist về văn học, nghệ thuật dần dần hình thành và hoàn thiện vào những năm 1960, trên Miền Bắc, qua các văn kiện của Đảng và các hội nghề nghiệp, trong các ý kiến phát biểu của những người lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước như Hồ Chủ tịch, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Tố Hữu... Từ đây, “văn hóa, nghệ thuật cũng là một mặt trận”. Từ đây, tính Đảng phải được xem là linh hồn của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Từ đây, trong mọi thứ tính làm nên phẩm chất của văn học mới thì tính chiến đấu phải được xem là biểu hiện tập trung nhất của công tác phê bình; cao hơn cả, “lý luận, phê bình là một phương thức chỉ đạo của Đảng trên mặt trận văn nghệ”1.
Từ nhận thức trên, công tác lý luận, phê bình luôn được đặt ở vị trí tiền tiêu và người làm công việc phê bình phải được sự tin cậy cao nhất của Đảng. Do vậy mà nhìn vào đội ngũ thì số lớn, nếu không nói là tất cả, đều là những người được Đảng giao trách nhiệm nắm giữ những vị trí then chốt trong các cơ quan tuyên huấn, báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ... Những gì họ viết hoặc nói đều được xem là những phát ngôn chính thống để giữ cho văn học, nghệ thuật không được xa rời hoặc chệch ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng – nó là cái lỗi nặng nhất trong mọi thứ lỗi. Dễ hiểu những tên bài, tên sách trong cả một thời dài đều có một khuôn chung, đó là: Dưới ánh sáng đường lối văn nghệ của Đảng, Noi theo đường lối văn nghệ Marx–Lenin của Đảng, Phấn đấu sáng tạo theo đường lối văn nghệ của Đảng, Mãi mãi đi theo đường lối văn nghệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Luyện thêm chất thép cho ngòi bút, Trên mặt trận văn học, Căn bản vẫn là vấn đề lập trường – tư tưởng, Đường lối văn nghệ của Đảng – vũ khí, trí tuệ, ánh sáng...
Tình hình trên kéo dài cho đến hết nửa đầu thập niên 1990.
Từ nửa sau thập niên 1990 đến nay là thời kỳ đời sống văn học phát triển trong xu thế hội nhập với tác động của cuộc cách mạng thông tin và nền kinh tế thị trường. Một thời kỳ diễn ra trên dưới 25 năm, tính cho đến nay, với sự đồng hành của 4 (hoặc 5) thế hệ viết – kể từ thế hệ 3X đến 9X; trong đó thế hệ vào nghề viết hoặc được sinh ra sau 1975 đang dần dần đóng vai trò chủ đạo. Diện mạo phê bình cũng theo đó mà thay đổi.
Khi thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa không còn xuất hiện và yêu cầu về tính Đảng ít được nhắc đến thì lực lượng phê bình lãnh đạo cũng không còn tồn tại, sau sự ra đi (hoặc ngừng hoạt động) của các tên tuổi chính – tiêu biểu làm nên gương mặt phê bình suốt từ giữa thập niên 1950, sau kết thúc cuộc chiến chống Nhân văn - Giai phẩm cho đến đầu 1990.
Do sự phát triển của báo chí lên đến nhiều trăm tờ, thuộc đủ các loại: báo in, báo hình, báo mạng, thì mặc nhiên phê bình báo chí được đưa lên hàng đầu. Dẫu chuyên hoặc không chuyên, việc thông tin về hoạt động văn học, nghệ thuật cũng là một nhu cầu chung, phổ biến của xã hội; do vậy, cũng là đối tượng cho các loại báo chí quan tâm. Điều đó khiến cho các ông chủ báo, các nhà báo và các biên tập viên báo chí bỗng trở thành các vai diễn quan trọng trong đời sống phê bình. Phải qua họ hoặc nhờ vào họ mà một tác giả hoặc một tác phẩm nào đó mới đến được với công chúng qua kênh truyền thông, trước khi có sự bàn bạc, thẩm định của giới chuyên môn. Là báo chí nên bài vở thường phải ngắn và nội dung được đề cập chủ yếu là những vấn đề thích hợp với đời sống chính trị, xã hội nhiều hơn là đời sống văn chương. Việc bàn thảo chung quanh một tác phẩm hay hoặc có chuyện để bàn, do vậy bỗng trở nên rất hiếm – kể cả trên các báo của các hội nghề nghiệp hoặc các viện nghiên cứu... Đó chính là nguyên cớ cho sự im ắng, tẻ nhạt của đời sống phê bình.
Như vậy, có thể nghĩ đây là thời phê bình báo chí làm nên gương mặt chủ đạo, có tác dụng thay thế hoặc lấn át phê bình chuyên nghiệp. Nhưng phê bình chuyên nghiệp là ai và ở đâu thì cũng rất khó tìm. Ngoài các ông chủ báo và biên tập viên báo chí, xuất bản, những người viết tự do (cho các báo chí) thì đó là sự xuất hiện lẻ tẻ, rời rạc dăm mười tên tuổi ở một số viện nghiên cứu hoặc các khoa văn, khoa văn hóa, khoa học xã hội ở các trường. Chăm viết hoặc không, họ vẫn còn nhiều việc khác để làm, bởi đó là nơi họ ăn lương và cũng có thể họ còn tham gia vào một số dự án nghiên cứu trong các chương trình nghiên cứu của cơ quan. Như vậy thì cái gọi là chuyên nghiệp lại rất đáng hồ nghi... Còn các thế hệ đi trước họ, thế hệ có một lịch sử viết gắn với các giai đoạn trước, nhiều người vừa có thẻ hội viên Hội Nhà văn vừa có học hàm Giáo sư hoặc Phó Giáo sư thì số lớn, theo tôi, họ đã không xuất hiện hoặc không xuất hiện trong tư cách người phê bình bởi các thế hệ sáng tác đồng hành với họ số lớn cũng đã lên lão cả rồi. Ai cũng chỉ có một thời sung sức, ở tuổi ngoài 20, 30 hoặc muộn lắm là 50, 60. Nếu có kéo dài thêm thì chỉ nên xem là người đồng hành chứ không thể, không nên là chủ lực, bởi sự bất cập của họ và khoảng cách về nhiều phương diện giữa họ và các thế hệ trẻ hôm nay là quá rộng, quá xa. Vai trò chủ lực, làm nên diện mạo và thành tựu chung của phong trào phải dành cho các thế hệ sau. Còn họ, nếu ai còn sức, còn có điều kiện để hành nghề thì lùi vào bình diện nghiên cứu lịch sử để làm một cái cầu nối cho các thế hệ sau đừng quên lịch sử, bởi phê bình chính là sự nối dài của lịch sử, trước khi trở thành lịch sử.
Nếu có một đội ngũ phê bình ở các viện, các trường – mà ta quen gọi là phê bình hàn lâm, thì cũng cần lưu ý đến một khu vực được làm rất thường xuyên – đó là việc viết và chấm các luận văn Thạc sĩ, luận án Tiến sĩ. Ở đây, đời sống văn học đương đại rất được cập nhật; mỗi năm trên khắp các trường (thuộc khối văn hóa - nghệ thuật, khoa học xã hội - nhân văn) có sự xuất hiện của hàng trăm luận án, luận văn, qua đó diện mạo văn học hiện đại, kể cả những khu vực áp sát vào thời sự nhất vẫn được bàn và bình, khen và chê... Đó chính là nơi diễn ra hoạt động phê bình, chỉ có điều công chúng rộng rãi ít biết đến, trừ các hội đồng chấm luận văn, luận án, và đôi khi, trực tiếp hoặc gián tiếp, có sự góp mặt của tác giả, rồi sau đó vào ngủ yên trong các kho của thư viện. Đây là hiện tượng trước thời đổi mới chưa hề có.
Như vậy, theo tôi, thực trạng phê bình hiện nay gắn bó trực tiếp với hoạt động báo chí. Còn phê bình trong đời sống nghiên cứu và giảng dạy ở các viện và học đường thì ít có tác động đến công chúng bạn đọc. Ngoài hai loại đó, không biết cái gọi là phê bình chuyên nghiệp nằm ở đâu?
Vào cái thời tất cả mọi ngành nghề đều hướng tới chuyên nghiệp hóa thì với phê bình lại theo chiều ngược lại. Thế nhưng chính vào lúc phê bình yếu tính chuyên nghiệp nhất thì đời sống sáng tác lại bề bộn, nhiều màu vẻ nhất. Không thể đếm xuể biết bao cuộc thi đã được tổ chức trên mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề cùng với bấy nhiêu hội đồng chấm giải, từ nhỏ đến lớn, từ thấp lên cao. Không thể đếm xuể số lượng thơ, truyện, tiểu thuyết, phê bình - tiểu luận... được in ra. Cái in ra thì nhiều nhưng đến được với bạn đọc là bao nhiêu? Cái in ra vừa để biếu vừa để bán, và cả cái bán và biếu có được đọc không? Chưa thấy có một điều tra xã hội học nào để đo đếm tác động của văn học, nghệ thuật đối với đời sống xã hội.
Nhìn vào các lĩnh vực nghệ thuật như hội họa, âm nhạc, điện ảnh mới thấy “thương” cho văn học, khi mỗi quyển sách được in ra chỉ là 300, 500 hoặc 1000 bản, nhiều lắm là 2000 bản mà vẫn khó bán trên tỉ lệ cả trăm triệu dân2. Cố nhiên, nếu là sách hay (số này rất hiếm, thường là sách dịch) và được quảng cáo tốt thì được in nhiều hơn. Tính số đầu sách được in, với số đầu sách được giới thiệu trên báo – nhờ vào các mối quan hệ thân quen hoặc vị nể – thì tỉ lệ là vô cùng bất cập. Có nghĩa là sách chìm trong im lặng. Một im lặng đến mênh mông. Thậm chí nếu có được giới thiệu ở một góc hoặc nửa trang, một trang nào đó của một tờ báo chuyên hoặc không chuyên thì cũng đâu dễ gây được sự chú ý – kể cả các giải này, giải nọ.
Viết đến đây, tôi không tránh được ý nghĩ bi quan về vai trò và vị trí của văn học nói chung trong đời sống, trước sức mạnh áp đảo của các nhu cầu tăng trưởng kinh tế, vai trò của các lợi ích vật chất và giá trị của đồng tiền. Trong bối cảnh đó, con người hôm nay đến với văn học, nghệ thuật trước hết như một nhu cầu giải trí (nhìn vào đời sống âm nhạc, điện ảnh ta sẽ thấy rất rõ điều này) và như vậy thì mục đích của phê bình cũng chỉ giới hạn ở nhu cầu thông tin, quảng bá... Nó có mạnh hơn lên hoặc yếu đi, có thực hiện đúng với chức năng hay không thì sách in ra vẫn ế – như cách nói của một nhà thơ gần đây.
*
Tiếp tục quan sát bầu khí quyển chung của đời sống hôm nay – một đời sống mà áp lực của kinh tế, của sinh hoạt vật chất, của thương mại và giải trí đang tràn ngập – khiến cho mọi hoạt động khác của đời sống tinh thần không thể không thay đổi hoặc biến dạng. Có lẽ rồi cũng phải quen với việc một số lượng khá đông bạn trẻ không ngại bỏ ra nhiều triệu đồng để mua một vé xem trình diễn của các sao, trong và ngoài nước, nhưng lại ngần ngại bỏ ra dăm chục ngàn đồng cho một cuốn sách, chưa hẳn đã là văn học mà là sách dạy kỹ năng sống, nghệ thuật kinh doanh, làm đẹp hoặc truyện tranh.
Trở lại với đời sống văn học – gồm cả sáng tác và phê bình, với thực trạng như trên, nếu có gây nên hoang mang thì cũng là phải. Chọn tiêu chí nào cho hoạt động sáng tác và phê bình vào lúc này khi thực trạng là thế, ngoài ba khái niệm quen thuộc: chân, thiện, mĩ? Trong khi trước đây, kể từ đầu thế kỷ XX cho đến 1990, rồi 2000, tiêu chí đó gần như không thay đổi hoặc có cùng một cách hiểu.
Gần một thế kỷ, mục tiêu số 1 là độc lập và thống nhất cho dân tộc và thắng trong hai (hoặc ba) cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, không phải kết thúc ở thời điểm 1975 mà còn kéo dài cho đến hết thập niên 1980; đồng thời là thoát đói và nghèo bằng con đường xây dựng và đi lên chủ nghĩa xã hội, tức là con đường xóa bỏ giai cấp (hữu sản) và xây dựng chế độ công hữu toàn dân và tập thể. Ngoài định hướng ấy không có con đường nào khác.
Còn bây giờ, khi đất nước bước vào hội nhập và xã hội chủ nghĩa chỉ còn là định hướng thì có quá nhiều con đường cho ta tìm. Mọi sự đang diễn ra trong tìm tòi. Nếu cả xã hội là thế thì văn học, nghệ thuật cũng là thế. Cả nghệ thuật văn chương và khoa học văn chương cũng là thế!
Nếu trước đây, trong chiến tranh, mỗi cuốn sách in ra chỉ riêng trên Miền Bắc cũng đến hàng vạn bản là điều tự nhiên, vì ngoài sách ra không có gì khác cho con người hưởng thụ xét trên ba chức năng: nhận thức, giáo dục và thẩm mĩ3 thì bây giờ chỉ cần trung bình 1.000 bản cho cả trăm triệu dân là đã đủ – trừ một số ngoại lệ, bởi ngoài sách ra, có quá nhiều phương tiện cho con người thỏa mãn các nhu cầu của mình. Văn hóa đọc sau nhiều trăm năm có ngôi vị, bây giờ phải chia sẻ hoặc nhường ngôi cho các văn hóa khác, cũng nên xem là tự nhiên chứ không nên quá lo lắng để nghĩ cách chấn hưng. Cố nhiên chấn hưng được ở mức độ nào hoặc khu vực nào thì đó là điều mừng. Nhưng phải thấy đó là điều khó. Văn hóa đọc phải tồn tại trong cạnh tranh với văn hóa nghe - nhìn là lẽ đương nhiên. Cuộc cạnh tranh này càng khó khăn khi văn hóa mạng lên ngôi. Có nghĩa là một cuộc soán ngôi đang diễn ra khi con người đang dần dần từ bỏ bút sắt (hoặc các loại bút bi) và chuyển sang bàn phím để tiếp cận với cả một thế giới trong thu nhỏ mà ta quen gọi là thế giới phẳng. Có nghĩa là nếu cuộc chuyển ngôi từ bút lông sang bút sắt đã tạo nên rất nhanh chóng một chuyển đổi mô hình triệt để vào đầu thế kỷ XX để cho ra đời văn học hiện đại thay cho văn chương trung đại kéo dài hàng nghìn năm thì cuộc chuyển đổi mô hình vào đầu thế kỷ XXI này sẽ còn chóng vánh và quyết liệt hơn bởi nó diễn ra trong cuộc toàn cầu hóa lần thứ ba (gắn với kỷ nguyên thông tin), rồi cách mạng 4.0, khiến cho sự phân biệt và cách biệt giữa Đông và Tây như trong hai cuộc toàn cầu hóa trước đây là không còn nữa.
Cứ nghĩ như vậy thì lại thấy cần bình tâm trước các hiện tượng đang diễn ra, trong đó có hiện tượng văn hóa phê bình theo nghĩa cổ điển đang thu hẹp lại. Không phải giới phê bình kém người tài. Tôi tìm thấy nhiều người tài trong các bạn trẻ, ở các báo, các trường và viện, các cơ quan văn hóa, văn nghệ, với ý nghĩ nếu mình còn đồng hành được với họ cũng đã là hạnh phúc... Không phải vì sáng tác kém hay, không có cái hay. Vẫn có và ngày càng nhiều cái hay trong đội ngũ ngày càng đông với các tên sách, tên người thuộc thế hệ 7X trở về sau, gồm cả hội viên và không là hội viên Hội Nhà văn. Với đội ngũ này, không cần đến giới phê bình thì họ vẫn có nhiều cách đến với người đọc khi công nghệ thông tin và văn hóa mạng làm được rất nhanh và rất rộng việc giới thiệu, quảng bá cho một tên tuổi nào đấy, không kể khi tác giả đã là một thương hiệu. Vậy thì nếu phê bình là việc không cần thiết nữa hoặc không cần thiết lắm, khi phê bình chỉ là hoặc nên là một giao hảo tri kỷ giữa người viết và người đọc, một quan hệ Bá Nha - Tử Kỳ thời hiện đại, thì phê bình tự nó phải biến đổi hoặc biến dạng cho thích hợp với tình thế mới.
Như vậy là nếu chăm chú quan sát thế giới và nắm được yêu cầu mới của thời đại thì việc viết sách hay làm báo, sáng tác truyện, thơ hay viết tiểu luận - phê bình cũng cần chuyển đổi mục tiêu và phương thức cho nó để tồn tại mà làm nên gương mặt mới cho cuộc chuyển đổi mô hình lần thứ hai của văn chương - học thuật Việt Nam, sau khoảng cách hơn 100 năm. Nhìn vào toàn bộ lực lượng viết trong và ngoài Hội Nhà văn, nhất là ngoài Hội Nhà văn, với tỉ lệ khá đông lực lượng trẻ, kể từ 8X và 9X trở đi, tôi nghĩ là cuộc chuyển động ấy đang diễn ra gấp gáp. Hãy chờ xem những gì sẽ diễn ra, gồm những dự báo và cả những gì chưa hề có trong dự báo, với tỉ lệ hi vọng nhiều hơn thất vọng. Hãy ngược về đầu thế kỷ trước – thế kỷ XX để đứng về phía ủng hộ Tản Đà và Hoàng Ngọc Phách mà thương cho Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Tú Xương... Rồi đứng về phía Hàn Mặc Tử và Xuân Diệu, Vũ Trọng Phụng và Nam Cao để đưa cả Nguyễn Khuyến, Tú Xương cùng Tản Đà và Hoàng Ngọc Phách vào một ngôi vị cao trong ngôi đền văn học sử. Ba mươi năm đầu thế kỷ XX đã có những cuộc chuyển ngôi ngoạn mục như thế. Ba mươi năm đầu thế kỷ XXI hẳn sẽ diễn ra những gì còn ngoạn mục hơn gấp nhiều lần, tôi mong và tin như thế. Một hình dung cụ thể về gương mặt của sáng tác và phê bình văn học trong tương lai là khó nhưng chắc chắn chức năng và phương thức thể hiện của cả hai sẽ phải thay đổi và tác động qua lại giữa chúng cùng những ranh giới để phân biệt sẽ không còn như cũ.
Chú thích:
1 Trường Chinh: “Về phê bình văn nghệ”, Tạp chí Văn học, số 11/1969.
2 Trừ một trường hợp đặc biệt, đó là Nguyễn Nhật Ánh (sinh năm 1955), người luôn luôn hiện diện và đồng hành với nhiều thế hệ thiếu nhi suốt hơn ba thập niên qua, với một danh mục viết cho thiếu nhi gồm nhiều chục quyển, quyển nào cũng nhận được sự đón đợi nồng nhiệt của các độc giả trẻ. Đây là hiện tượng đặc sắc hiếm có, kể từ sau Dế mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài.
3 Cho đến đầu thập niên 1980, chức năng giải trí mới được nói đến một cách dè dặt.