VAI TRÒ CỦA GIỚI TRẺ TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP VĂN HOÁ Ở VIỆT NAM

Bài viết phân tích vai trò giới trẻ trong phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam, so sánh với quốc tế. Từ đó, nhấn mạnh cần chính sách hỗ trợ, giáo dục và sáng tạo để phát huy tiềm năng, đưa văn hóa thành nguồn lực kinh tế bền vững.

   1. Giá trị văn hoá và những giá trị văn hoá của Việt Nam

   Giá trị văn hóa là kết quả sáng tạo, tích lũy của cộng đồng, được phản ánh trong các di sản, tài sản văn hóa vật thể, phi vật thể, được cộng đồng lựa chọn, thừa nhận và khao khát hướng tới, thông qua sự trải nghiệm lịch sử. Mỗi dân tộc đều có nền văn hoá với những truyền thống mang đậm bản sắc riêng để phân biệt giữa dân tộc này với dân tộc khác.

   Dân tộc Việt Nam trải qua một bề dày lịch sử lâu đời đã hình thành và xây dựng nên một nền văn hoá phong phú mang đậm bản sắc dân tộc. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; là lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; là đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; là sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống… Đặc biệt, lòng yêu nước là giá trị văn hóa nổi bật, bao trùm và xuyên suốt lịch sử dân tộc, làm nên sức mạnh bất diệt của con người Việt Nam. Đây là giá trị hàng đầu trong mọi giá trị văn hóa, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong chiều dài lịch sử. Lòng yêu nước, tự hào dân tộc không chỉ là thứ tình cảm tự nhiên mà được hun đúc qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, thấm sâu vào tình cảm, vào tư tưởng của mỗi người dân Việt Nam trong mọi thời đại, tạo nên một sức mạnh bền vững, to lớn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã được phát triển lên thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng, thực hiện những sứ mệnh cao cả như đánh đuổi kẻ thù xâm lược, thống nhất đất nước, đưa đất nước đi vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa yêu nước cũng là cơ sở để phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ hội nhập.

   1. Vai trò của văn hoá trong quá trình hội nhập quốc tế

   1.1. Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội

   Trong quá trình tồn tại và phát triển của lịch sử, cơ sở vật chất và cơ sở tinh thần luôn hỗ trợ nhau, mối quan hệ giữa nền tảng vật chất và nền tảng tinh thần là mối quan hệ biện chứng. Nền tảng vật chất là điều kiện, là cơ sở cho sự phát triển nền tảng tinh thần và ngược lại, nền tảng tinh thần là động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Chừng nào nền tảng tinh thần của xã hội suy yếu thì chừng ấy xã hội sẽ lâm vào khủng hoảng, các tệ nạn xã hội sẽ xuất hiện và sự phát triển kinh tế sẽ gặp nhiều khó khăn.

   Ý nghĩa nền tảng tinh thần của văn hóa Việt Nam còn là toàn bộ ý chí, khát vọng phấn đấu vì chủ quyền đất nước, vì sự sinh tồn và phát triển của dân tộc, vì một Việt Nam thịnh vượng, nêu cao truyền thống độc lập, tự chủ, tự cường, đoàn kết gắn bó keo sơn, muôn người như một, gắn kết gia đình - làng xã - Tổ quốc mà ông cha ta đã kỳ công gây dựng nên trong hơn 4000 năm lịch sử và đang tiếp tục phát triển qua các thời đại. Lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam đã chứng minh vai trò đặc biệt của văn hóa với tư cách là nền tảng tinh thần đã tạo nên sức mạnh kỳ diệu giúp dân tộc ta sinh tồn và phát triển. Chẳng hạn như tinh thần và khát vọng độc lập tự chủ, tự cường, bảo vệ cương vực lãnh thổ của Vương triều nhà Lý (bài thơ Thần tương truyền của Lý Thường Kiệt); hào khí Đông A chống giặc ngoại xâm, tinh thần “Sát Thát” của Vương triều nhà Trần (Hịch tướng sĩ - Trần Hưng Đạo); tinh thần “đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”, quyết chiến quyết thắng chống quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn (Đại cáo bình Ngô - Nguyễn Trãi)…

   Trong thời kỳ hội nhập, tinh thần ấy cần phải được tiếp tục phát huy. Điều này cũng đã được Đảng và Nhà nước thể hiện rõ trong Văn kiện Đại hội XIII: “Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hoá, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững”1.

   1.2. Văn hóa là động lực thúc đẩy phát triển bền vững đất nước

   Trên cơ sở kế thừa và phát huy các giá trị của dân tộc, văn hóa có khả năng tiếp thu và cải biến các yếu tố văn hóa từ bên ngoài thành nội lực, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Để khai thác có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, nhất là nguồn lực tự nhiên thì phải phát huy nguồn lực bên trong con người – năng lực bản chất người, nhất là năng lực sáng tạo, tính cộng đồng. Hai quá trình này thống nhất với nhau.

   Với tính cách là hệ giá trị và chuẩn mực xã hội, văn hóa đóng vai trò hệ điều tiết của phát triển, nó phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của các nhân tố khách quan và chủ quan, của các điều kiện bên trong và bên ngoài, đảm bảo cho kinh tế - xã hội được cân đối và bền vững.

   Thông qua các giá trị, chuẩn mực xã hội và truyền thống, văn hóa đóng vai trò định hướng và làm nền tảng cho sự lựa chọn mô hình phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Mọi hoạt động văn hóa góp phần vào xây dựng môi trường văn hóa sản xuất kinh doanh lành mạnh. Kinh tế chỉ có thể phát triển bền vững trong môi trường văn hóa lành mạnh và ngược lại. Môi trường văn hóa lành mạnh là tiền đề và là động lực để phát triển kinh tế bền vững.

   Như vậy, văn hóa không phải là yếu tố đứng ngoài quá trình phát triển kinh tế - xã hội, lại càng không phải là kết quả thụ động của kinh tế, mà trái lại là nguồn lực nội sinh, là nền tảng tinh thần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.

   Văn hóa không chỉ đóng vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, mà văn hóa còn là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội.

   3. Công nghiệp văn hoá và vai trò của giới trẻ trong việc phát triển công nghiệp văn hoá ở Việt Nam

   3.1. Ngành công nghiệp văn hoá ở Việt Nam và các nước châu Á

   Theo UNESCO “Công nghiệp văn hóa là một thuật ngữ chỉ các ngành công nghiệp mà có sự kết hợp giữa sáng tạo, sản xuất và khai thác các nội dung có bản chất phi vật thể và văn hóa. Các nội dung này thường được bảo vệ bởi Luật Bản quyền và thể hiện dưới dạng các sản phẩm hay dịch vụ”2.

   Ở Việt Nam, công nghiệp văn hoá là một thuật ngữ khá mới mẻ. Tuy nhiên, thời gian gần đây, nhận thấy rõ về xu thế tất yếu phải phát triển công nghiệp văn hóa, Văn kiện Đại hội XIII đã xác định rõ nhiệm vụ: “Khẩn trương triển khai có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hoá Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hoá, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới”3. Đây sẽ là tiền đề cho ngành công nghiệp văn hoá ở Việt Nam phát triển, giúp những giá trị tốt đẹp của văn hoá Việt Nam sẽ đến được với thế hệ trẻ của đất nước và với các bạn bè quốc tế.

   Việt Nam là một quốc gia có nguồn lực sức mạnh mềm văn hoá vô cùng đa dạng và đặc sắc. Đó là hệ thống các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, là hệ thống các danh lam, thắng cảnh trải dài trên khắp đất nước Việt Nam. Dân tộc Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã sáng tạo ra một kho tàng các di sản văn hóa, đó là thứ tài sản vô giá của dân tộc. Trong những năm gần đây, vốn di sản văn hóa phong phú, đặc sắc của Việt Nam bắt đầu được phục hồi và ghi nhận bởi các tổ chức quốc tế. Hiện nay, chúng ta đã có hơn 25 di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, truyền khẩu của nhân loại (Quần thể cố đô Huế, Hoàng thành Thăng Long, Thánh địa Mỹ Sơn, Thành nhà Hồ, Vịnh Hạ Long, Danh thắng Tràng An… Quan họ Bắc Ninh, Ca trù Thăng Long, hát Then đàn Tính, Dân ca ví giặm Nghệ Tĩnh, Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, Đờn ca tài tử…). Tất cả những di sản văn hóa độc đáo đó cũng như những di sản văn hóa khác nữa đã tạo nên nhiều lợi thế và tiềm năng trong quá trình phát triển ngành công nghiệp văn hóa. Đó chính là vốn văn hóa để phát triển và để cạnh tranh với các sản phẩm văn hóa ngoại lai.

   Với một nguồn lực tài nguyên văn hóa như thế, nếu chúng ta khai thác được hết để phát triển bền vững đất nước nói chung và phát triển công nghiệp văn hóa nói riêng, nó có thể trở thành hàng hoá tạo nên thương hiệu quốc gia, mở đường cho kinh tế phát triển.

   Đây là điều mà các quốc gia trong khu vực đã làm rất tốt.

   Một ví dụ điển hình cho việc quảng bá văn hoá dân tộc đến thế hệ trẻ trong nước và bạn bè quốc tế thông qua ngành công nghiệp này là đất nước Hàn Quốc. Bắt đầu từ năm 1972, khi Đạo luật khuyến khích văn hoá và nghệ thuật được ban hành, Hàn Quốc bước vào hành trình xây dựng ngành công nghiệp văn hoá như một chiến lược vừa phát triển kinh tế vừa xây dựng bản sắc văn hoá dân tộc, phát triển văn hoá nghệ thuật, nâng cao chất lượng đời sống văn hoá của nhân dân. Thực tế cho thấy Hàn Quốc đã đạt được những thành tựu kỳ diệu cả về kinh tế lẫn văn hoá chiến lược này. Về kinh tế, sau hơn hai thập kỷ tập trung phát triển, ngành công nghiệp văn hoá đã mang về cho quốc gia này khoảng 120 tỉ USD. Về văn hoá, “tại Hàn Quốc, công nghiệp văn hoá có vai trò khôi phục và bản tồn văn hoá của dân tộc… Các sản phẩm văn hoá giải trí chuyển tải một cách sinh động và sáng tạo các nội dung truyền thống, nguyên gốc giúp cho người dân Hàn Quốc hiểu biết về truyền thống, nâng cao dân trí và làm phong phú thêm đời sống của nhân dân… Mọi người dân Hàn Quốc đều được thưởng thức, nghe, nhìn và cảm nhận về văn hoá, về giá trị truyền thống và hiện đại của dân tộc. Từ đó, người dân Hàn Quốc hiểu biết hơn, có ý thức hơn, tự hào hơn về văn hoá của dân tộc mình”4.

   Một ví dụ khác là Nhật Bản - quốc gia rất chú trọng phát triển ngành công nghiệp văn hoá. Tương tự Hàn Quốc, ngành công nghiệp này đã mang lại cho Nhật Bản những giá trị khổng lồ về kinh tế và văn hoá. Thông qua đó, văn hoá Nhật Bản đã ảnh hưởng sâu rộng tới văn hoá thế giới. “Trên thực tế, các sản phẩm của công nghệ văn hoá Nhật Bản (như truyện tranh, phim hoạt hình, trò chơi công nghệ cao, thời trang, âm nhạc, ẩm thực…) trở nên quen thuộc ở hầu hết các quốc gia trên thế giới”5.

   Hai ví dụ trên đã cho thấy vai trò của nền công nghiệp văn hoá đối với nền kinh tế và việc quảng bá những giá trị văn hoá.

   Ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam đang trên đà phát triển với sự tham gia của các lĩnh vực như phim ảnh, âm nhạc, xuất bản, thiết kế, thời trang và du lịch văn hóa. Tuy nhiên, so với các quốc gia phát triển trong khu vực, Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn đầu tư cơ bản và xây dựng nền tảng. Muốn phát triển được ngành công nghiệp này, cần phải thấy được vai trò của giới trẻ và tạo điều kiện để họ phát huy được những năng lực và ưu thế của mình để góp phần hiệu quả vào quá trình phát triển ngành công nghiệp này.

   3.2. Vai trò của giới trẻ trong việc phát triển ngành công nghiệp văn hoá ở Việt Nam

   Thế hệ trẻ là thế hệ tương lai của đất nước, thế hệ được thụ hưởng nhiều giá trị của văn hóa, đồng thời cũng là những người có khả năng sáng tạo lớn nhất, tiềm năng nhất, đông đảo nhất tạo ra những sản phẩm văn hóa mang đậm đà bản sắc dân tộc. Thực tế cho thấy, trong thời gian vừa qua, có rất nhiều hoạt động văn hoá gây được nhiều tiếng vang trong xã hội mà lực lượng chính của những hoạt động ấy là giới trẻ. Có thể kể ra một số hoạt động như: “Tinh hoa Bắc Bộ” – show diễn thực cảnh đầu tiên ở Việt Nam với số lượng diễn viên lớn tới hơn 200 người, trong đó hơn một nửa là những nghệ sĩ trẻ tài năng. Thông qua các phần trình diễn, show diễn đã tái hiện văn hóa, tín ngưỡng và tinh thần của người Việt góp phần duy trì và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống cũng như quảng bá những giá trị ấy đến bạn bè quốc tế; phong trào phục dựng và mặc cổ phục Việt Nam cũng thu hút nhiều bạn trẻ đã quan tâm và tham gia vào việc phục dựng trang phục cổ truyền của Việt Nam. Các dự án như “Đại Việt cổ phong” được thành lập bởi các bạn trẻ đam mê văn hóa Việt, đã nhận được sự hưởng ứng và tương tác đông đảo, góp phần lan tỏa giá trị văn hóa Việt đến cộng đồng trong và ngoài nước; hai chương trình truyền hình thực tế về âm nhạc đình đám là “Anh trai say hi” và “Anh trai vượt ngàn chông gai” cũng cho thấy sự hoà nhập của giới trẻ Việt đang ngày càng linh hoạt trong việc tiếp nhận và “Việt hoá” các xu hướng toàn cầu. Những chương trình này là minh chứng cho sự sáng tạo, óc hài hước và khả năng thích nghi nhanh của giới trẻ Việt Nam trong thời đại số.

   Tuy nhiên, với sự bùng nổ của công nghệ, bên cạnh việc mang lại những lợi thế cho sự phát triển ngành công nghiệp văn hoá là những mặt trái của nó. Dòng chảy công nghệ sẽ vô tình cuốn người trẻ vào cơn lũ số hóa, khiến họ quên mất những giá trị văn hóa truyền thống và trách nhiệm giữ gìn bản sắc dân tộc của chính mình, có thể khiến người trẻ thờ ơ với những giá trị truyền thống dẫn đến việc không thật sự hiểu đúng, đầy đủ và sâu sắc về quá khứ, về di sản, văn hóa dân tộc sẽ dễ rơi vào trạng thái hoang mang khi đứng trước các dòng văn hóa khác nhau. Nó giống như người mê đi lạc giữa cuộc đời mà không biết mình là ai và đến từ đâu. Hiển nhiên quá khứ không nắm rõ sẽ chẳng có sự kiến tạo và xây dựng tương lai nào một cách đúng đắn và lâu dài. Chính vì thế, việc khơi dậy ở thế hệ trẻ những giá trị văn hoá truyền thống là điều vô cùng cần thiết. Không chỉ dừng lại ở việc khơi dậy mà còn phải để người trẻ thấy được vai trò, trách nhiệm của mình trong việc phát huy những giá trị ấy. Để làm được điều ấy, cần phải có những giải pháp thực sự thiết thực và hiệu quả. Một trong những giải pháp quan trọng là đầu tư vào cơ sở hạ tầng như xây dựng trung tâm sáng tạo, hỗ trợ công nghệ, phát triển các không gian nghệ thuật; ban hành các chính sách khuyến khích sáng tạo, giảm thuế hoặc tài trợ cho các dự án văn hóa. Đặc biệt, cần tập trung cho những giải pháp liên quan đến giáo dục và đào tạo ngành công nghiệp văn hoá là vô cùng cần thiết. Ví dụ xây dựng chương trình giáo dục chuyên sâu về công nghiệp văn hóa bằng cách tích hợp công nghiệp văn hóa vào hệ thống giáo dục. Cụ thể, đưa nội dung về văn hóa, nghệ thuật, sáng tạo và kinh doanh văn hóa vào chương trình học từ cấp phổ thông; khuyến khích học sinh tham gia các hoạt động trải nghiệm, sáng tạo liên quan đến văn hóa, nghệ thuật, và công nghệ. Kết hợp giữa đào tạo lý thuyết và thực hành qua các chương trình thực tập tại các công ty sản xuất phim, hãng thu âm hoặc tổ chức sự kiện văn hóa. Ngoài ra, cần nâng cao nhận thức cộng đồng về giá trị của ngành công nghiệp văn hóa giáo dục từ sớm, tăng cường các chương trình ngoại khóa về văn hóa và nghệ thuật cho học sinh ở cấp tiểu học và trung học, trao giải thưởng và học bổng cho các cá nhân có đóng góp nổi bật trong các lĩnh vực văn hóa…

   4. Kết luận

   Sự phát triển của công nghiệp văn hóa là một xu hướng tất yếu trên toàn cầu, khi văn hóa không chỉ là bản sắc dân tộc mà còn trở thành nguồn lực kinh tế và công cụ ngoại giao mạnh mẽ. Ở Việt Nam, công nghiệp văn hóa đang từng bước khẳng định vị trí, đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối giá trị truyền thống với nhu cầu hiện đại. Với tiềm năng văn hóa đa dạng và nguồn nhân lực trẻ sáng tạo, Việt Nam có cơ hội lớn để phát triển ngành công nghiệp này thành một lĩnh vực kinh tế mũi nhọn, góp phần thúc đẩy tăng trưởng bền vững và khẳng định thương hiệu văn hóa trên trường quốc tế. Để phát huy tối đa tiềm năng này, cần có sự hỗ trợ đồng bộ từ các chính sách giáo dục, đầu tư cơ sở hạ tầng và tạo môi trường khuyến khích sáng tạo. Khi được trao quyền và cơ hội, giới trẻ không chỉ thúc đẩy sự phát triển bền vững của công nghiệp văn hóa trong nước mà còn nâng tầm văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế.

   

 

 

Chú thích:
1, 3 Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 145.
2 UNESCO, Các ngành công nghiệp văn hóa - Tâm điểm của văn hóa trong tương lai, website: http:// portal.unesco.org/culture/en/ev, truy cập ngày 27/2/2024.
4, 5 Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thị Thắm, Hạ Thị Lan Phi (2016), Công nghiệp văn hoá ở Nhật Bản và Hàn Quốc, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8 (105).

Bình luận

    Chưa có bình luận