Nhìn lại lịch sử mười thế kỷ độc lập sau ngàn năm Bắc thuộc, chế độ phong kiến Việt Nam trải qua 10 triều đại, nhưng thời gian tồn tại của quá nửa các triều đại chỉ là hai con số. Lẫy lừng như triều đại nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê, Hồ, Tây Sơn không quá 30 năm (Trịnh - Nguyễn phân tranh, chia đôi đất nước 150 năm không được tính là triều đại, vì đều tôn Vua Lê). Có thể thấy 80 năm của chế độ mới, 50 năm đất nước độc lập và thống nhất là những đại lượng thời gian rất đáng trân trọng. Trong nửa thế kỷ thống nhất, đất nước đã trải qua 10 năm khó khăn với hai cuộc chiến lớn ở biên giới phía Tây Nam và phía Bắc, các hải đảo, nhưng việc xây dựng hòa bình vẫn được duy trì liên tục. Cơ đồ và vị thế đất nước hôm nay là điều ai cũng nhìn thấy. Chắc chắn chưa bao giờ trong lịch sử mấy ngàn năm, hầu hết bị bao vây, cô lập, bế quan tỏa cảng, bộ mặt nước ta đổi mới rõ và nhanh như thế. Chạnh nhớ câu thuyết minh của nhà báo Thép Mới viết trong phim Cây tre Việt Nam: “Nhưng hòa bình ngày nay không chỉ làm sống lại những cảnh thanh bình muôn thuở ấy”. Một nước Việt Nam hiện đại, hòa nhập với thế giới, làm bạn với mấy trăm quốc gia lớn nhỏ, không phân biệt chế độ chính trị mỗi nước; cái làm nên rõ nét nhất chưa phải là nền kinh tế hàng đầu, bộ máy điều hành tiên tiến, các vấn đề xã hội mẫu mực… mà là một nền văn hóa đậm đà bản sắc. Đây cũng là vấn đề còn cần được đầu tư nhiều trí và lực hơn nữa trong quá trình phát triển, để giữ được vị trí “Soi đường cho quốc dân đi” (Lời Chủ tịch Hồ Chí Minh).
Trong lịch sử hiện đại, khi khoa học - kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, loài người đang nhận thức lại nhiều điều, mà một thời kiêu ngạo ngây thơ ngỡ mình đã nắm chắc chân lý, lấy con người làm trung tâm (ở ta có khẩu hiệu: “Thay trời, đổi đất, sắp đặt lại giang sơn”; “Vắt đất ra nước, thay trời làm mưa”), đã dần biết tôn trọng sự phát triển của thế giới tự nhiên, của hệ sinh thái có tự ngàn đời. Họ tìm kiếm con đường mới để con người và tự nhiên quay trở lại cùng tham gia tạo dựng một thế giới hài hòa, tốt đẹp hơn, tìm kiếm cơ sở luận lý mới, nơi con người sử dụng văn hóa làm hình thành một thế giới quan bao dung hơn (đến sinh vật hoang dã cũng được bảo tồn, cấm săn bắt…). Trên cơ sở định vị lại vị trí con người trên trái đất, phải tính toán lại những lý thuyết cực đoan mang tính thực dụng, thiển cận, không chỉ đối với tự nhiên mà cả trong xã hội loài người. Những năm gần đây, loài người đã tận mắt thấy sự báo thù ghê gớm của tự nhiên khi con người liều lĩnh phá hoại môi trường. Biến đổi khí hậu và thời tiết cực đoan đe dọa hủy diệt những cộng đồng lớn, nhắc các quốc gia phải tính toán lại mọi quyết sách.
Về phương diện tinh thần, văn hóa, trong đó có đạo đức, lối sống, văn học, nghệ thuật cũng phải được coi là một hệ sinh thái có tính chất độc lập và bền vững hơn mọi thể chế chính trị - xã hội. Ra đời cùng với sự hình thành xã hội loài người, mỗi chế độ, thể chế, triều đại đều sử dụng văn hóa, trong đó có văn học, nghệ thuật, như một công cụ, với những định vị nội hàm nhất định. Nền văn hóa, văn nghệ mới ở nước ta ra đời và hình thành, phát triển trong tiến trình cách mạng và kháng chiến, một bộ phận được huy động vào các đoàn thể, tổ chức với định hướng rất rõ ràng: “Văn hóa, nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Dưới sự chỉ đạo ấy, chỉ trong vòng 30 năm, một nền văn nghệ mới đã ra đời, hình thành và phát triển vượt bậc, với rất nhiều tác phẩm xuất sắc, hình thành một đội ngũ đông đảo các nghệ sĩ-chiến sĩ, rất nhiều tài năng nổi trội, tác phẩm của họ không chỉ góp phần xuất sắc động viên quân dân ta trong suốt những năm tháng chiến tranh, nhiều tác phẩm đến nay vẫn có giá trị lan tỏa trong đời sống tinh thần của người Việt. Những năm qua, Nhà nước đã có nhiều hình thức đánh giá và tôn vinh những tác phẩm và tác giả xuất sắc đã làm nên gương mặt chính của nền văn học, nghệ thuật cách mạng. Lớp văn nghệ sĩ chống Mĩ còn là lực lượng sáng tạo chủ lực cho đến những năm đầu thế kỷ XXI.
Nét mới của nửa thế kỷ đất nước bước ra khỏi chiến tranh, trong những cuộc kháng chiến và cách mạng buộc phải tiêu diệt đối phương, để không bị đối phương tiêu diệt, lựa chọn dứt khoát giữa thắng/ thua, sống/ chết, đúng/ sai, ta/ địch, trung thành/ phản bội… Chiến thắng đã tạo điều kiện cho chúng ta lựa chọn sự hòa hợp, hòa giải: “Chút rượu hồng đây xin rưới xuống/ Giải oan cho cuộc biển dâu này” (Tô Thùy Yên). Thực hiện ý tưởng này trong thực tiễn không hề giản đơn, bởi tư duy chiến tranh ăn sâu thành tiềm thức tự nhiên của đại bộ phận người dân từng nhiều năm thuộc về hai chiến tuyến, dù vốn xuất thân trong một gia đình, trong nhiều văn kiện, nghị quyết không ghi thời gian hết hiệu lực: “Thù muôn đời muôn kiếp không tan”, “Kẻ thù truyền kiếp…”. Nhưng trong hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật, lại thấy rõ nhất thành tựu của tiến trình trở lại thời hòa bình trên cả nước. Với thế giới quan bao dung hơn, hệ sinh thái văn hóa đã được mở rộng, công nhận những giá trị nguyên sinh, nằm ngoài vùng trung tâm của dòng văn nghệ công cụ - văn nghệ cách mạng: “Văn dĩ tải đạo”, “Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”, “Nay ở trong thơ nên có thép/ Nhà thơ cũng phải biết xung phong”… Nhờ thế, hệ sinh thái văn hóa nước ta trên đường hòa nhập vào quỹ đạo chung của văn hóa nhân loại văn minh. Cùng với việc mở cửa, mở lòng tiếp nhận những giá trị khác nhau của quốc tế, trong nội bộ đất nước, nhiều giá trị một thời bị coi rẻ, vùi dập, thậm chí cấm kỵ cả trong đời sống, trong luật pháp, nay đã được cấp quyền tồn tại. Nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật trước Cách mạng, trong lòng Hà Nội thời Pháp tạm chiếm, ở Miền Nam thời Việt Nam Cộng hòa, nhiều tác phẩm từng bị cấm lưu hành ở Miền Bắc, sáng tác của người Việt ở nước ngoài, nhiều loại hình thuộc văn hóa dân gian, văn hóa tâm linh được khôi phục, thậm chí phát triển. Chúng ta đã bảo tồn tài sản đa dạng của các hệ sinh thái văn hóa của các dân tộc trong cộng đồng. Hòa bình đã tạo điều kiện lý tưởng cho nhân đạo hóa hoàn cảnh.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế tư nhân, dần chiếm một thị phần lấn át kinh tế tập thể, quốc doanh. Trong lĩnh vực văn hóa, cũng có tình trạng tương tự. Tác phẩm văn học, nghệ thuật vốn là của cá nhân, nhưng khi đưa vào cuộc sống, một thời nằm hoàn toàn trong các tổ chức thuộc quyền Nhà nước do Đảng lãnh đạo. Sự đổi mới của chính sách, luật pháp, cộng với sự phát triển của thời đại kỹ thuật số, đã cho phép ra đời của những tổ hợp tư nhân trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, các đơn vị nghệ thuật ca, múa, kịch, các nhà sách, các hãng phim tư nhân, các công ty truyền thông đa phương tiện. Mạng xã hội cũng là nền tảng kỹ thuật cho nhiều cá nhân và tổ hợp công bố tác phẩm thuộc nhiều loại hình. Nhân lực trẻ, hầu hết được đào tạo cơ bản, bộ máy tổ chức gọn nhẹ là những lợi thế cạnh tranh. Các cơ quan truyền thông của Nhà nước Trung ương và địa phương, các đoàn thể chính trị - xã hội, sau những năm phát triển, nhờ sự độc quyền cả trong nội dung chương trình cũng như quảng cáo cho các doanh nghiệp, đang ngày càng bị cạnh tranh bởi mạng xã hội và nền kinh tế còn nhiều khó khăn. Ở không ít địa phương và đoàn thể, báo và tạp chí phải ngưng phát hành vì thiếu nhân sự phụ trách đủ tiêu chuẩn hoặc cạn nguồn kinh phí. Truyền hình, nhà hát, rạp chiếu phim hiện đại đang mất dần vị trí khi điện thoại thông minh trở thành nơi tích hợp thông tin làm thỏa mãn mọi nhu cầu tinh thần của đại bộ phận dân chúng, không chỉ riêng lớp trẻ. Thiếu nhân lực (và cả tài lực) sản xuất các chương trình lấp đầy cái dạ dày không đáy của thời lượng và các kênh đã đăng ký, hầu hết các đài đều thành nơi chuyển tải các chương trình chất lượng rất có hạn của các tổ hợp tư nhân và nhiều hơn là của nước ngoài, mà không phải nơi đâu cũng có tác phẩm chất lượng tốt. Ở một số đài, thời lượng này lấn lướt, tạo cơ hội cho một cuộc xâm lăng văn hóa không rào cản. Biện pháp ở đây chỉ có thể là nâng cao chất lượng và số lượng các sản phẩm văn hóa, văn nghệ nội địa, để thu hút công chúng về phía mình. Quy luật sơ đẳng của kinh tế thị trường là việc gì sinh lợi nhiều hơn người ta sẽ lao vào ngành đó. Có thể tìm thấy hiện tượng này qua số tiền tác quyền mà VCPMC – Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam, do nhạc sĩ Phó Đức Phương sáng lập – hằng năm thu cho các tác giả. Số thu cao nhất là tiền tỉ có lẽ thuộc về các nhạc sĩ chuyên viết bolero, đa số ở Miền Nam trước đây. Trong khi các nhạc sĩ thuộc dòng nhạc chính thống, mà tác phẩm thường xuyên có mặt trong các kênh nhà nước, không nhiều người đạt được hai con số tiền triệu. Tất nhiên nguồn thu là từ người thưởng thức nhạc phẩm. Nhưng con số này còn giúp ta nghĩ đến nhiều vấn đề thiết yếu khác, khi nhà nước muốn khuyến khích, cổ vũ và cần loại tác phẩm văn học, nghệ thuật nào.
Hệ sinh thái văn hóa thời bình được mở rộng cho mọi tìm tòi sáng tạo đáp ứng nhu cầu giải trí ngày càng đa dạng, có sự phân hóa trên một dải băng rộng của các giai tầng, các lớp tuổi trong xã hội. Công nghệ mới giúp phát triển vô biên của tưởng tượng trong sáng tạo các loại hình tác phẩm. Cái nào được công chúng đông đảo quan tâm thì sống, thậm chí sống tốt nếu thị trường chấp nhận. Dân số đạt 100 triệu là một thị trường lý tưởng cho mọi sáng tạo văn học, nghệ thuật. Trước khi mơ tới những đỉnh cao giải thưởng của quốc tế, hãy tìm cách chiếm lĩnh tình yêu, sự quan tâm của công chúng vốn vẫn dành nhiều thiện cảm cho những gì mà họ đang thiếu, đang cần. Sách của Nguyễn Nhật Ánh và vài tác giả khác mỗi lần phát hành lên tới hàng trăm nghìn bản, các bộ phim của Trấn Thành thu hàng bốn năm trăm tỉ, một số ca sĩ mỗi lần tổ chức show có cả mấy vạn người xem… là những người đã đạt được giấc mơ làm văn học, nghệ thuật nhiều thời. Chỉ tiếc là số đó còn quá hiếm. Quyên góp cho nạn nhân cơn bão Yagi vừa qua, mấy trăm nhà văn hội viên và bạn bè gộp lại không bằng ca sĩ Sơn Tùng M-TP. Thậm chí, nhờ những bản rap mà Đen Vâu đã quyên góp cho các trẻ em khó khăn cũng đã đạt được số tiền lên tới hàng tỉ đồng.
Trong thế giới tự nhiên, nước ta hiện chỉ còn 0,25% rừng tự nhiên, cho thấy sự tàn phá khủng khiếp của 50 năm qua. Còn lại là rừng phòng hộ tự nhiên 4,64 triệu ha, trong đó có một phần là rừng trồng. Rừng đặc dụng bao gồm: 33 vườn quốc gia, 57 khu bảo tồn thiên nhiên, 14 khu bảo tồn loài và sinh cảnh, 54 khu bảo vệ cảnh quan, 9 khu thực nghiệm khoa học. Mỗi loại rừng có mục đích sử dụng và cách bảo tồn khác nhau. Hệ sinh thái văn hóa phải chăng cũng cần một sự phân định rõ ràng khu vực bảo tồn văn nghệ truyền thống (trung ương và địa phương, của trung ương đặt ở địa phương), văn nghệ truyền thống vùng miền, văn nghệ các dân tộc thiểu số, khu vực Nhà nước Trung ương, khu vực các địa phương cấp tỉnh, thành, vùng, miền. Khu vực tư nhân đang phát triển và là nơi đang sản xuất phần lớn các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật nhiều loại hình cũng cần có những chế tài thích hợp để tạo điều kiện cho họ hoạt động đúng hướng. Hoạt động văn hóa quần chúng (trong đó có các câu lạc bộ, hội thơ ca) cần được khuyến khích. Cũng như trong thiên nhiên, chính họ sẽ tạo nên một đông đảo công chúng yêu văn hóa, văn nghệ, vừa tạo nên lớp “thực bì” nuôi dưỡng những tài năng mới.
Có những bài học về tổ chức văn nghệ trong thời chiến, trong những năm cả nước đồng lòng, cần được vận dụng linh hoạt trong hoàn cảnh xã hội mới, khi rất nhiều cấu trúc xã hội đã thay đổi. Xem ra văn học, mà cách tiếp cận chủ yếu qua kênh đọc, đang bị thu hẹp lãnh địa. Số lượng mỗi ấn bản các tác phẩm (có nội dung tử tế) vẫn ở một mức khiêm tốn. Truyện ngôn tình, ấn phẩm nặng về giải trí có thể khá hơn nhưng những nỗ lực vận động xem ra chưa thay đổi được nhiều tình thế trước mắt. Sự xuống cấp của đạo đức xã hội trên diện rộng có trách nhiệm ở việc chưa đặt đúng vị trí của văn hóa trong quá trình xây dựng và phát triển của đất nước. Những chuẩn mực của con người Việt Nam hiện đại đã hình thành trên lý thuyết nhưng chưa hiện thực hóa vào thực tiễn xã hội. Không thể không thấy vai trò của thể chế, điểm nghẽn quan trọng mà Tổng Bí thư Tô Lâm đã mạnh dạn chỉ ra. Còn nhớ từ gần 200 năm trước, Fukuzawa Yukichi, người cha trí tuệ của văn minh Nhật Bản, mà tư tưởng của ông đã là nền tảng cho sự canh tân nước Nhật, trong nhiều tác phẩm đã phân tích sự trì trệ của các nước phương Đông chạy theo Nho giáo. Ông sớm nhận ra, với một thể chế kiểu nào đó, “con người là sâu mọt của xã hội”. Trong tự truyện của mình, ông từng tự nhận, dưới triều Mạc Phủ 300 năm, hầu hết những người biết chữ bằng mọi giá, để có một chân nào đó trong hệ thống hành chính. Khi vào rồi thì nghĩ tiền là của công nên tìm mọi cách vơ vét mà không hề cảm thấy xấu hổ, dù trước đó đã được dạy những đạo lý khác: “Như vậy, tôi đã làm một việc hết sức đáng bị khinh bỉ và không còn gì để biện minh. Tôi làm việc đó mà không hề biết xấu hổ, không hề cho rằng đây là việc xấu, mà chỉ nghĩ nếu không lấy thì chỉ thiệt mà thôi… Thế mới thấy con người là sâu mọt của xã hội… Tình hình xã hội mà luôn ở một trạng thái ổn định thì sâu mẹ sẽ đẻ sâu con và cứ như thế đến vô tận. Để thay đổi bộ mặt của những con sâu, tức những nô lệ của thói tục cũ đó, xã hội cần có một cuộc cải cách lớn”1. Những con sâu đục khoét không thương xót tiền của Nhà nước, thực ra cũng là của dân, thời gian qua mà Đảng và Nhà nước liên tục vạch mặt chỉ tên, nhiều người từng là những nhà tuyên truyền cho đạo đức xã hội, chính là sản phẩm của một thể chế còn nhiều kẽ hở. “Người ngoài hành tinh” Elon Musk coi đó là những người bị đồng tiền điều khiển. Ông còn nói, mọi người đều giàu thì sẽ không có ai làm việc. Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ năm 1945 đã xác định: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh, nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công việc xây dựng nước nhà”2.
Nét mới nhất từ thời Đổi mới là thoát ra khỏi cơ chế bao cấp, từ miếng cơm, manh áo, công ăn, việc làm (sổ gạo, tem phiếu các loại…), người dân đã có ý thức độc lập, tự lo cho cuộc sống của mình. Chính ý thức tự lập này đã trở thành nền tảng vững chắc cho nền độc lập của một quốc gia. Nhiều thành tựu kinh tế, xã hội mà chúng ta đạt được ngày nay là nhờ vào sự chuyển đổi mạnh mẽ của ý thức tự lập đó. Nó đã tạo nên khí chất mới cho một dân tộc nhiều năm chịu cảnh nô lệ, đói nghèo. Vẫn theo Fukuzawa Yukichi: “Khí chất này là thứ không bán được, cũng chẳng mua được. Lại không phải là thứ dùng sức người mà tạo ra được. Khí chất thâm nhập dòng chảy đời sống của dân chúng, biểu hiện rộng khắp trên các dấu tích của đất nước nhưng lại không nhìn thấy được bằng mắt và khó mà biết nó tồn tại nơi đâu”3. Nền tảng văn minh này thể hiện khá rõ trong những sáng tạo văn học, nghệ thuật những năm gần đây. Từ giã những dàn đồng ca, phấn đấu hòa mình vào số đông, dấu ấn cá nhân đã dần được tôn trọng, bảo vệ. Văn học, nghệ thuật đã biết lấy những cái khác làm tài nguyên cho sáng tạo. Phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa nhiều năm được định danh trong rất nhiều nghị quyết, chỉ thị, huấn thị không ghi thời gian hiệu lực đã lặng lẽ nhường cho việc giới thiệu, thực hành nhiều lý thuyết nghiên cứu và sáng tác xuất hiện nhiều thời điểm, ở nhiều nước trên thế giới. Hiện thực không còn là thước đo duy nhất cho giá trị các tác phẩm. Văn học theo hướng tự do, tự phát, với những tìm tòi, thể nghiệm đa chiều được công bố rộng rãi. Cùng với đó, những lý thuyết về thi pháp, tiếp nhận văn học, cấu trúc, ký hiệu học, hậu hiện đại, về diễn ngôn và trình diễn, văn bản, đa văn bản, cấu trúc luận, hiện tượng luận, phân tâm học… Rồi con người tự nhiên, con người cá nhân, con người tập thể, con người ý thức, con người vô thức, coi sự khác biệt là tài nguyên, xác định lại những chức năng của văn hóa, văn học, nghệ thuật. Một số khái niệm về vai trò, đặc trưng của văn học, nghệ thuật xem ra không còn thích hợp… Cập nhật thực tiễn này cho thế hệ lãnh đạo, quản lý, tham mưu về văn hóa, văn học, nghệ thuật hiện nay là việc không thể không làm. Phương thức tổ chức và lãnh đạo văn hóa, trong đó có văn học, nghệ thuật, trong giai đoạn trước mắt cần được xác định sao cho phù hợp với thực tiễn đang đổi thay nhanh chóng trong thời đại kỹ thuật số. Lịch sử văn học, nghệ thuật, giáo trình giảng dạy trong nhà trường các cấp cần được viết lại để có một bức tranh đầy đủ, công bằng hơn về những đóng góp vào văn hóa, văn học, nghệ thuật của nhiều thế hệ.
Trong kỷ nguyên mới, với chiến lược công nghiệp văn hóa, Nhà nước nhận thức văn hóa không chỉ là một nguồn thu kinh tế triển vọng nếu phát triển tốt mà còn định vị hình ảnh và linh hồn Tổ quốc, bảo vệ và quảng bá những giá trị vật chất và tinh thần làm nên một nước Việt Nam “sánh vai cùng các cường quốc năm châu” (Hồ Chí Minh). Điều đó đòi hỏi phải tổ chức để có một lực lượng sáng tạo mới trẻ trung, được đào tạo bài bản, được tổ chức khoa học và linh hoạt ở nhiều khâu, để sản xuất ra ngày càng nhiều sản phẩm văn hóa đa dạng, giàu có về nội dung, hấp dẫn về hình thức, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và phức tạp của công chúng. Văn nghệ không còn là món hàng xa xỉ, chỉ bày trong vài nhà hàng đặc sản, phục vụ một nhóm người được chọn lọc, mà cần có mặt trong mọi nơi mọi lúc của con người hiện đại, người có nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng lớn. Lúc đó, văn hóa sẽ làm nên linh hồn của nền kinh tế nước nhà.
Nhiều người ngạc nhiên tự hỏi: Tại sao trong chiến tranh, trong xây dựng xã hội chủ nghĩa buổi đầu, nghề nào, địa phương nào cũng có những bài hát xúc động lòng người: Bài ca xây dựng, Em đi làm tín dụng, Tôi là người thợ lò, Cô gái mở đường, Bài ca người lái xe, Bài ca người thủy thủ, Bài ca người giáo viên nhân dân, Ba cô đi cấy chăng dây, rồi Bài ca năm tấn, Quảng Bình quê ta ơi, Dáng đứng Bến Tre…, hàng trăm bài hát đồng ca, hành khúc, mà sao bây giờ, nơi đâu cũng khu công nghiệp, đường cao tốc, sân bay hiện đại, cao ốc tràn ngập mà không thấy có bài hát nào được chú ý? Không mấy nơi còn hát đồng ca? Câu hỏi ngây thơ, đơn giản nhưng trả lời cho đầy đủ, thuyết phục chính là tìm ra đáp án khả dĩ cho vai trò văn hóa, văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới.
Năm 2025 là thời điểm các hội văn học, nghệ thuật tiến hành Đại hội. Hi vọng mỗi hội sẽ tìm ra đáp án chuẩn xác để các ngành văn học, nghệ thuật và văn nghệ sĩ tiếp tục có những đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới.
Chú thích:
1 Phúc Ông tự truyện (Phạm Thu Giang dịch, 2018), NXB Thế giới, tr. 430-431.
2 Báo Cứu quốc, ngày 4/10/1945.
3 Nhiều người dịch (2018), Khái lược văn minh luận, NXB Thế giới, tr. 45.