1. Khái niệm giá trị và hệ giá trị
1.1. Khái niệm giá trị
Trong tự nhiên và đời sống xã hội, các sự vật, sự việc, hiện tượng có những giá trị nhất định. Giá trị sự vật, hiện tượng tự nhiên là do thiên tạo được con người nhận thức, phân định trong mối quan hệ với cuộc sống nhân loại. Giá trị của sự vật, sự việc nhân tạo là kết quả lao động, sáng tạo của con người trên cơ sở nhu cầu đời sống. Giá trị là thuộc tính quan trọng của một đối tượng, là điều kiện cho sự tồn tại và vai trò của nó trong đời sống. Thuật ngữ “giá trị” trong Khoa học giá trị (Axiology) có nguồn gốc tiếng Hy Lạp. “Axia” trong tiếng Hy Lạp là “điều tốt lành”, tức là có ý nghĩa tích cực với cuộc sống con người.
Vấn đề giá trị đã được ý thức từ thời cổ đại. Các nhà triết học cổ đại Hy Lạp – La Mã như Socrates, Plato, Aristotle… đã tranh luận về mối quan hệ giữa thực tế và phán đoán về giá trị thực tế của các sự vật, về tính khách quan và chủ quan của các giá trị. Mặc dù đã được ý thức và ứng dụng trong thực tế từ lâu nhưng Khoa học giá trị mới được thừa nhận và phát triển từ cuối thế kỷ XIX trước hết trong lĩnh vực kinh tế. Mối quan hệ giữa giá và giá trị là một vấn đề quan trọng bậc nhất trong kinh tế học, thể hiện đa dạng, sinh động trong kinh tế thị trường. Từ lĩnh vực kinh tế, khoa học giá trị được phát triển mở rộng trên nhiều lĩnh vực nghiên cứu xã hội và nhân văn.
Giá trị trước hết là tính chất của sự vật hiện tượng có ý nghĩa với cuộc sống con người. Nhà xã hội học người Mĩ J. H. Fichter khẳng định: “Tất cả những gì có ích lợi, đáng ham chuộng, đáng kính phục đối với con người hoặc nhóm người đều có giá trị”1. Trong mối quan hệ với con người, các giá trị được phát hiện, đánh giá; con người nhìn nhận thế giới qua lăng kính của những giá trị. Sự vật, hiện tượng có thể có giá trị vật chất hoặc tinh thần. Từ lăng kính giá trị mà các đối tượng được đánh giá là đẹp hay xấu, thiện hay ác, cao cả hay thấp hèn, vĩ đại hay tầm thường, có ích hay vô ích… Có những giá trị có trong sự vật, hiện tượng thiên tạo mà con người khám phá để phục vụ cho cuộc sống của mình; có những giá trị do con người lao động, sáng tạo ra trong hành trình lịch sử. Tất cả sản phẩm sáng tạo bền bỉ ấy đã tạo nên những giá trị văn hóa được lưu truyền từ đời này sang đời khác, làm giàu khách thể tinh thần của nhân loại. Giá trị không thể là sản phẩm mang tính chủ quan, do tưởng tượng của con người tạo ra mà trước hết là do thực tế khách quan quy định. Từ tính chất của đối tượng, con người khám phá, sáng tạo theo cách đánh giá chủ quan của cá nhân, của dân tộc và thời đại để hình thành các bậc thang giá trị. Từ cả bình diện khách quan và chủ quan, chúng ta nhận thấy nội hàm cốt lõi của khái niệm giá trị chính là ý nghĩa của sự vật, hiện tượng… đối với cuộc sống con người. Trong cuốn Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường tới tương lai, Trần Ngọc Thêm định nghĩa: “Giá trị là những đánh giá của con người về các hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng những cái đó là cần, là tốt, là hay, là đẹp, hay đó chính là những cái được con người cho là chân, thiện, mĩ, giúp khẳng định và nâng cao bản chất người. Một khi những nhận thức giá trị ấy đã hình thành và định hình thì nó chi phối cách suy nghĩ, niềm tin, hành vi, tình cảm con người”2.
Giá trị nằm trong bản chất của sự vật, hiện tượng và tư duy nhưng phải được nhìn nhận, đánh giá và sử dụng trong đời sống. Giá trị chỉ thực sự được thừa nhận khi có ý nghĩa với con người, trở thành chuẩn mực để con người vươn tới. Giá trị được thể hiện trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau của con người và mang tính lịch sử, tính dân tộc, tính hệ thống.
1.2. Khái niệm hệ giá trị
Các giá trị khi có mối quan hệ chặt chẽ trong một hệ thống thì tạo nên hệ giá trị (value system). Hệ giá trị bao gồm nhiều giá trị liên kết với nhau theo một hệ thống tầng bậc, đảm nhiệm những chức năng nhất định.
Chức năng của hệ giá trị được xem xét trong mối quan hệ với con người. Giá trị có nhiều chức năng khác nhau tùy theo từng lĩnh vực. Khi các tiềm năng vốn có của một đối tượng được con người sử dụng và phát huy thì lúc đó giá trị thể hiện thành các chức năng. Chức năng đầu tiên của giá trị là đánh giá vai trò, ý nghĩa của sự vật, hiện tượng đối với cuộc sống con người. Để đánh giá được thống nhất và khách quan, người ta thường xây dựng những tiêu chí hay chuẩn mực giá trị. Tiêu chí tuy được cá nhân hoặc cộng đồng đưa ra, tuy có tính chủ quan nhưng đã có sự đồng thuận rộng rãi. Từ các chuẩn mực được cộng đồng xây dựng, chức năng đánh giá được phát huy rộng rãi hơn trong cộng đồng. Khi hệ giá trị thâm nhập sâu rộng vào nhận thức của cộng đồng, nó sẽ tham gia điều tiết các hành vi của cá nhân. Mặt khác, khi hệ giá trị được xã hội đồng thuận, được thể chế hóa bằng nhiều hình thức, thì hệ giá trị sẽ phát huy chức năng điều chỉnh các hành vi xã hội, nhất là ứng xử văn hóa của con người trong cộng đồng.
Hệ giá trị vừa kết tinh kinh nghiệm thực tiễn vừa thể hiện khát vọng của con người vươn tới chân, thiện, mĩ cho nên chức năng xuyên suốt hệ giá trị là chức năng định hướng xã hội. Từ chuẩn mực của hệ giá trị, các thành viên trong cộng đồng xác định cho mình cách nghĩ, cách làm, cách sống để tìm ra ý nghĩa cao đẹp của cuộc đời. Một xã hội tốt đẹp, một đất nước hạnh phúc bao giờ cũng có niềm tin, khát vọng vươn tới cái đẹp, cái thiện, sự hài hòa. Trong hệ giá trị, việc sắp xếp các giá trị theo hệ thống nào, trật tự ưu tiên của các giá trị trong hệ thống cũng thường được đưa ra bàn bạc, xác định tùy thuộc vào từng cộng đồng. Vì vậy, bên cạnh khái niệm hệ giá trị còn có khái niệm giá trị cốt lõi (core value), tức là những giá trị cơ bản nhất, tạo nên bản sắc của cộng đồng. Chẳng hạn, hệ giá trị của người Nhật Bản được xác định: “1. Đoàn kết, 2. Kỷ luật, 3. Nhẫn nại, 4. Trung thành, 5. Trách nhiệm, 6. Lịch sự, 7. Tự chủ, 8. Tránh làm phiền người khác”. Trong khi đó, Malaysia lại đề cao 5 giá trị: “1. Tin vào Thượng đế, 2. Trung thành với nhà vua và đất nước, 3. Tuân thủ hiến pháp, 4. Cai trị bằng pháp luật, 5. Hành vi tốt, đạo đức tốt”3. Qua hai dẫn chứng đó, chúng ta cũng hiểu được định hướng lựa chọn giá trị cốt lõi của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng xã hội là khác nhau.
Hệ giá trị vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan. Hệ giá trị thể hiện niềm khát vọng, mơ ước, quan điểm của chủ thể trong cách nhìn nhận, đánh giá, định hướng các giá trị tốt đẹp cho cộng đồng nhưng giá trị trước hết xuất phát từ tính chất, phẩm chất vốn có của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, của con người trong đời sống xã hội. Kim loại vàng sở dĩ có giá trị trang sức và giá trị trao đổi vì nó quý hiếm và giàu tính thẩm mĩ, được con người ưa thích và sử dụng. Mỗi cá nhân, mỗi tầng lớp có thị hiếu, có quan niệm khác nhau và vì thế có những giá trị được ưu tiên ở tầng lớp này mà không được ưu tiên ở tầng lớp khác nhưng trên bình diện xã hội rộng lớn thì có những giá trị chung phù hợp với khát vọng của cả cộng đồng; mỗi dân tộc đều thể hiện bản sắc của mình trong quan niệm về hệ giá trị nhưng mặt khác có những giá trị phổ quát của nhân loại và tồn tại khách quan trong sự vật, hiện tượng.
Hệ giá trị được hình thành trong tiến trình lịch sử, mang dấu ấn của từng thời đại. Các quan niệm về giá trị bao giờ cũng xuất phát từ nhân sinh quan của thời đại, từ hệ thống quan điểm mĩ học của thời đại. Vì vậy, hệ giá trị mang tính lịch sử - xã hội rõ nét. Giá trị khi nhìn nhận từ các phương diện của đời sống con người, chúng ta nhận ra giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Cho nên hệ giá trị bao giờ cũng mang tính chất đa trị. Loài người không ngừng khai thác các giá trị phong phú trong tự nhiên đồng thời không ngừng sáng tạo ra những giá trị mới vô tận. Có thể nói nhân loại luôn sống trong các hệ giá trị, luôn phát hiện và sáng tạo ra giá trị. Trong thời đại chúng ta, mối quan tâm về hệ giá trị càng trở nên mãnh liệt, khẩn thiết hơn. Hơn một thập niên trở lại đây, Đảng ta đang chủ trương tiến hành xây dựng “hệ giá trị quốc gia”, “hệ giá trị con người Việt Nam”, “hệ giá trị văn hóa”, “hệ giá trị gia đình Việt Nam” nhằm đáp ứng công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
2. Hệ giá trị văn học, nghệ thuật
2.1. Giá trị thẩm mĩ và giá trị nghệ thuật
Khi xác định nội dung, đối tượng, phạm vi của giá trị nghệ thuật, trước hết chúng ta cần phân biệt giá trị thẩm mĩ và giá trị nghệ thuật. Cái thẩm mĩ tồn tại trong tự nhiên, trong đời sống con người và xã hội khiến cho con người xúc động, khơi dậy tình cảm và khát vọng hoàn thiện của con người. Giá trị thẩm mĩ bao giờ cũng được nhìn nhận, đánh giá trong mối quan hệ giữa đối tượng thẩm mĩ và chủ thể thẩm mĩ, thể hiện sự lĩnh hội của con người đối với hiện thực. Chỉ những sự vật, hiện tượng trong đời sống tự nhiên và xã hội làm cho con người xúc động, suy tư, chiêm nghiệm, khát vọng mới có giá trị thẩm mĩ. Giá trị thẩm mĩ không chỉ được thể hiện qua phạm trù cái đẹp mà còn ở các phạm trù khác như cái cao cả, cái bi, cái hài… Giá trị thẩm mĩ được xác định qua chủ thể thẩm mĩ là con người với nhiều thành tố đa dạng mà thống nhất trong một chỉnh thể. Đó là cảm xúc thẩm mĩ, biểu tượng thẩm mĩ, thị hiếu thẩm mĩ, tình cảm thẩm mĩ, hình tượng thẩm mĩ, lý tưởng thẩm mĩ, tất cả hợp thành ý thức thẩm mĩ, biểu hiện quan điểm thẩm mĩ của con người. Như vậy, giá trị thẩm mĩ không tồn tại tự nó mà tồn tại trong mối quan hệ với đời sống con người, được khám phá, cảm nhận, đánh giá, chiếm hữu bởi con người. Một bông hoa trong rừng thẳm có sắc màu rực rỡ là để thu hút ong bướm giúp việc thụ phấn vì lý do sinh trưởng của giống loài. Nó chỉ có giá trị thẩm mĩ khi con người nhìn ngắm, đánh giá vẻ đẹp của màu sắc, đường nét và sự quyến rũ của mùi hương. Quặng vàng trong lòng đất không có giá trị thẩm mĩ khi chưa được con người chế tác thành trang sức và được nhìn ngắm bởi đôi mắt con người. Trong quá trình khám phá các giá trị của tự nhiên, con người đã sáng tạo ra nhiều giá trị mới, làm giàu đời sống vật chất và tinh thần của mình, trong đó có giá trị nghệ thuật.
Nghệ thuật/ văn nghệ là một hình thái ý thức xã hội đặc thù, là một lĩnh vực điển hình của hoạt động thẩm mĩ, là một bộ phận quan trọng của văn hóa. Giá trị nghệ thuật nằm trong tổng thể của giá trị văn hóa, được thể hiện trong quá trình sáng tạo và tiếp nhận nghệ thuật. Giá trị nghệ thuật chỉ tồn tại trong sáng tạo và tiếp nhận nghệ thuật, là một bộ phận của giá trị thẩm mĩ. Xét trên bình diện này thì giá trị nghệ thuật “hẹp” hơn giá trị thẩm mĩ, giá trị nghệ thuật chỉ là một “bộ phận” của giá trị thẩm mĩ. Nhưng mặt khác, giá trị nghệ thuật không tồn tại một cách biệt lập; thông qua hoạt động của mình, nghệ thuật tổng hợp các giá trị khác như giá trị nhận thức, truyền bá khoa học, tôn giáo, giáo dục đạo đức, nhân đạo hóa con người. Những giá trị “ngoài giá trị thẩm mĩ” do thế giới nghệ thuật chuyển tải, ngưng kết đã tạo nên sức mạnh to lớn, giá trị lâu bền của nghệ thuật. Trong quá trình sáng tạo và tiếp nhận, giá trị nghệ thuật chuyển hóa vào các giá trị khác, tạo nên sức mạnh tổng hợp của nghệ thuật trong việc chuyển tải chủ nghĩa nhân văn, bản sắc văn hóa dân tộc, tư tưởng tiến bộ của thời đại. Xét về đặc trưng và bản chất của nghệ thuật thì giá trị nghệ thuật là tiêu chuẩn quan trọng hàng đầu của tác phẩm nghệ thuật. Một tác phẩm không hấp dẫn, không lay động được cảm xúc của người đọc, người xem, người nghe thì không thể nói đến các giá trị khác tiềm ẩn trong thế giới nghệ thuật. Cho nên nghiên cứu tính nghệ thuật của các loại hình nghệ thuật là nhiệm vụ không thể thiếu được của mĩ học và lý luận văn nghệ.
Tính nghệ thuật là một khái niệm không dễ minh định, nội hàm của nó biến đổi trong từng loại hình nghệ thuật, nhưng nhìn chung có thể nhận diện qua khả năng biểu cảm, sức tác động vào tình cảm, tư tưởng con người, là sự hài hòa giữa nội dung và hình thức… Tính nghệ thuật gắn liền với đặc trưng của nghệ thuật. Đặc trưng đầu tiên của nghệ thuật là khám phá, phản ánh, biểu hiện đời sống bằng thế giới hình tượng, tác động trực tiếp đến trực quan của con người hoặc khơi gợi trong tâm trí con người những hình ảnh cụ thể về thế giới hiện thực. Việc sử dụng các chất liệu như đường nét, màu sắc, hình khối, hình thể, âm thanh, hình ảnh chuyển động, ngôn từ… để sáng tạo thế giới nghệ thuật phong phú, sinh động là công việc của nghệ sĩ. Một nghệ sĩ tài năng là người sáng tạo ra những thế giới nghệ thuật phong phú, hấp dẫn, vừa giống vừa không giống thế giới hiện thực, một thế giới ảo mà chứa đựng những thông điệp sâu sắc về đời sống. Nghệ sĩ tưởng tượng và sáng tạo một thế giới mang tính ước lệ, ẩn dụ mà vẫn làm cho công chúng tiếp nhận say mê, xúc động, khóc cười cùng các nhân vật. Tất cả những vấn đề đó đã làm nên tính nghệ thuật và kết tinh thành giá trị nghệ thuật. Giá trị nghệ thuật vì thế cần phải xác định trong mối quan hệ không thể tách rời với người sáng tạo và người tiếp nhận. Giá trị nghệ thuật nhiều khi đến với người sáng tạo trước. Bởi sáng tạo nghệ thuật là nhu cầu của nghệ sĩ, họ muốn bằng sáng tạo nghệ thuật để bộc lộ tư tưởng, tình cảm, để nói lên “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng” (Nguyễn Du). Họ sẽ rất xúc động, hạnh phúc khi sinh thành ra những đứa con tinh thần mà chúng nói lên được một cách sinh động, chân thực những nỗi niềm trong tim và những suy ngẫm, day dứt về thế sự. Còn đối với người tiếp nhận? Họ đến với nghệ thuật là để hưởng thụ thẩm mĩ, để được đồng cảm, chia sẻ, để giải trí lành mạnh. Giá trị nghệ thuật chỉ được biểu hiện khi tác phẩm thực sự hấp dẫn, có khả năng tác động sâu sắc, mãnh liệt đến tình cảm và tư tưởng của con người. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chia sẻ với văn nghệ sĩ: “Quần chúng mong muốn những tác phẩm có nội dung chân thật và phong phú, có hình thức trong sáng và vui tươi. Khi chưa xem thì muốn xem, xem rồi thì có bổ ích”4. Giá trị nghệ thuật biểu hiện ở khả năng hấp dẫn, khiến cho khán giả “muốn xem” bởi tính “vui tươi” của tác phẩm. Nhưng tính nghệ thuật không có giá trị tự thân, mà quan trọng là “chuyên chở” các giá trị khác, hướng con người vươn tới chân, thiện, mĩ. Vì vậy khi nghiên cứu về giá trị của văn nghệ, cần đặt văn nghệ trong các mối quan hệ với các giá trị khác, mà trước hết là hệ giá trị văn hóa.
2.2. Hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị văn nghệ
Thuật ngữ văn hóa lần đầu tiên được Tylor định nghĩa trong cuốn Văn hóa nguyên thủy (Primitive Culture) xuất bản ở London, năm 1871: “Văn hóa, hiểu theo nghĩa rộng nhất của nó, là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và những khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội”.
Theo định nghĩa của UNESCO đưa ra năm 2002: “Văn hóa nên được đề cập như một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và cảm xúc của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, những phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ năm 1943 đã đưa ra định nghĩa về văn hóa một cách giản dị, dễ hiểu: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo, phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”5.
Các hoạt động văn hóa của con người đều nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Hoạt động sáng tạo và và tiếp nhận nghệ thuật cũng đáp ứng cả nhu cầu vật chất và tinh thần nhưng là nghệ thuật hoạt động đặc thù, chủ yếu thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người. Hoạt động nghệ thuật xuất phát từ nhu cầu bộc bộ tư tưởng, tình cảm một cách hồn nhiên, sinh động, mang tính thẩm mĩ. Nghệ thuật bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cho con người, làm cho con người biết ứng xử một cách văn hóa với tự nhiên và xã hội, đặc biệt biết định hướng phần “tự nhiên” trong bản thân mình cho những mục đích tốt đẹp. Nghị quyết 23-NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới đã nhấn mạnh vai trò và đặc trưng của văn học, nghệ thuật trong đời sống văn hóa: “Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa; là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mĩ của con người; là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam”6.
Nghệ thuật phản ánh hiện thực đời sống phong phú của con người, trong đó có đời sống văn hóa như tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục, lễ hội, các di sản văn hóa do con người sáng tạo. Nghệ thuật phản ánh và biểu hiện vẻ đẹp tâm hồn, tính cách dân tộc, những giá trị tinh thần kết thành truyền thống của dân tộc.
Trong quá trình phát triển của mình, loài người đã sáng tạo ra nhiều hệ thống ký hiệu phức tạp, đa dạng, có thể biểu đạt được suy nghĩ, cảm xúc phong phú của mình như đường nét, hình khối, màu sắc trong hội họa, điêu khắc; dùng hệ thống âm thanh, nhịp điệu trong âm nhạc; dùng ngôn ngữ cơ thể trong nhảy múa và ngôn từ trong văn chương. Ngôn ngữ là sản phẩm của văn hóa, con người sáng tạo ra ngôn ngữ để giao tiếp trong cuộc sống hằng ngày và sáng tác văn chương. Nhờ các thế hệ nhà văn mà ngôn ngữ dân tộc được trau dồi, ngày càng phong phú, giàu đẹp, biểu hiện được mọi trạng thái tình cảm và suy nghĩ của con người. Ngôn ngữ là tiếng nói của dân tộc, là một phương diện quan trọng thể hiện bản sắc dân tộc và thể hiện ý thức độc lập dân tộc. Tiếng Việt của chúng ta có tự ngàn xưa, trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc vẫn được bảo tồn. Tiếng nói ấy được gìn giữ và phát triển qua ca dao, dân ca, các truyện thần thoại, cổ tích và qua các tác phẩm thơ trữ tình, truyện thơ được viết bằng chữ Nôm và chữ quốc ngữ.
Cùng với sự phát triển ngôn ngữ là sự phát triển không ngừng của các mã văn hóa dân tộc. Mã là hệ thống ký hiệu dùng trong thông tin giao tiếp, là sự chuyển đổi từ phương thức thông tin thông thường sang hình thức thông tin mang tính quy ước (con số, chữ, biểu tượng, hình hiệu, hành vi…) để lưu giữ, chuyển tải, giao tiếp trong cộng đồng. Mã văn hóa (cultural code) là những ký hiệu có tính thẩm mĩ, tính đại diện, trong nó biểu hiện những đặc điểm, giá trị văn hóa của cộng đồng. Mã văn hóa được thể hiện qua các cổ mẫu, các biểu tượng, các motif, các hình tượng nghệ thuật và các phương thức chuyển nghĩa khác. Trong hoạt động văn hóa, mỗi dân tộc đều tạo nên loại mã văn hóa khác nhau, góp phần tạo nên bản sắc riêng. Vì vậy khi giải mã, chúng ta cần hiểu được bản sắc văn hóa dân tộc để hiểu được nội dung thông tin trong tác phẩm: ví dụ các biểu tượng tứ linh, tứ quý, biểu tượng con thuyền trong văn học Việt Nam.
Hệ biểu tượng là một trong mã trung tâm của văn hóa. Trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Jean Chevalier cho rằng cần phân biệt rạch ròi hình ảnh tượng trưng với tất cả những hình ảnh khác mà nó thường hay bị lẫn lộn như biểu hiệu, vật hiệu, phúng dụ, ẩn dụ… Những lối diễn đạt bằng hình ảnh như biểu hiệu, vật hiệu, phúng dụ, ẩn dụ đều là những dấu hiệu và không vượt quá mức độ của sự biểu nghĩa. Qua so sánh với các lối diễn đạt bằng hình ảnh trên đây, Jean Chevalier khẳng định: “Như vậy biểu tượng phong phú hơn là một dấu hiệu, ký hiệu đơn thuần: hiệu lực của nó vượt ra ngoài ý nghĩa, nó phụ thuộc vào cách giải thích và cách giải thích thì phụ thuộc vào một thiên hướng nào đó. Nó đầy gợi cảm và năng động. Nó không chỉ vừa biểu hiện, theo một cách nào đó, vừa che đậy; nó vừa thiết lập, cũng theo một cách nào đó, vừa tháo dỡ ra”7. Bản chất của biểu tượng khó xác định nhưng cần chỉ ra những đặc tính của biểu tượng như: diễn đạt một cách gián tiếp, bóng gió; nó gợi cảm và năng động, đồng thời gợi lên nhiều ý nghĩa; nó vừa ổn định vừa biến đổi; nó luôn có sự thâm nhập lẫn nhau và tồn tại “trên bè đệm hiện sinh của nó”.
Biểu tượng tồn tại trong đời sống văn hóa của các dân tộc và nhân loại, được con người sử dụng như một công cụ thông tin và giao tiếp mang tính tượng trưng. Biểu tượng văn hóa được các văn nghệ sĩ vận dụng sáng tạo trong tác phẩm văn nghệ và ngược lại văn nghệ có thể sáng tạo những biểu tượng mới làm phong phú kho tàng biểu tượng văn hóa nhân loại. Trong sáng tạo văn nghệ, hình ảnh là tiền đề xây dựng biểu tượng, nó là “cái biểu đạt” có quan hệ với “cái được biểu đạt”. Hình ảnh trước hết chứa đựng nghĩa tả thực (nghĩa hiển ngôn) và có thể biểu hiện nghĩa bóng (nghĩa hàm ngôn). Tác phẩm văn nghệ có rất nhiều hình ảnh nhưng chỉ những hình ảnh có tính tượng trưng thì mới trở thành biểu tượng. Tzvetan Todorov cho rằng trong biểu tượng diễn ra hiện tượng ngưng kết: “Chỉ một cái biểu đạt giúp ta nhận thức ra nhiều cái được biểu đạt; hoặc đơn giản hơn… cái được biểu đạt dồi dào hơn cái biểu đạt”8. Ví dụ, hình ảnh hoa sen trong bài ca dao: “Trong đầm gì đẹp bằng sen/ Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng/ Nhị vàng bông trắng lá xanh/ Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Hoa sen đẹp nhất trong đầm với “lá xanh, bông trắng, nhị vàng”: đây là nghĩa tả thực, là vẻ đẹp nhìn thấy của hoa sen. Nhưng hoa sen mọc trong bùn lầy mà vẫn thơm ngát, không bị hôi tanh: nghĩa biểu hiện phẩm chất của hoa sen là tiền đề tạo liên tưởng, tạo tính tượng trưng. Thông qua nghĩa biểu hiện của hình ảnh hoa sen, nội dung hàm ẩn được gợi lên: hoa sen là biểu tượng của vẻ đẹp thanh cao, tinh khiết. Vẻ đẹp thanh khiết của hoa sen có ý nghĩa gợi lên vẻ đẹp của con người trong hoàn cảnh xấu xa, đen tối (hàm ngôn). Hoa sen là một biểu tượng văn hóa có rất nhiều nghĩa. Trong Phật giáo, màu sắc trong trắng của hoa sen bừng nở trinh nguyên trên bùn nhơ của thế gian được hiểu theo nghĩa đạo đức, biểu tượng của sự cao quý, trong sạch, tượng trưng cho sự chân tu, thoát khỏi bùn nhơ, hệ lụy trần gian để có phẩm hạnh tốt đẹp. Hoa sen trong truyền thuyết Ấn Độ có tám cánh giống như không gian có tám hướng nên được coi là biểu tượng của sự hài hòa vũ trụ. Tùy theo ngữ cảnh sinh thái văn hóa tinh thần của các dân tộc và thời đại, biểu tượng hoa sen được khai thác theo những ý nghĩa khác nhau.
Với một ví dụ cụ thể, chúng ta thấy rằng biểu tượng trong văn nghệ gắn với hình ảnh nhưng có phần vượt khỏi hình ảnh cụ thể để vươn tới nghĩa hàm ẩn, nghĩa tượng trưng. Nó không đơn thuần là “cái biểu đạt” trong quan hệ với “cái được biểu đạt” ban đầu, mà vươn tới tầm khái quát cao, mang ý nghĩa trừu tượng, chứa đựng tính đa trị, đa nghĩa. Mỗi biểu tượng có một sức vang vọng và tự sinh, nó kích thích liên tưởng, tưởng tượng để sinh tạo ý nghĩa mới, không ngừng cách tân và bổ sung hàm nghĩa. Chẳng hạn biểu tượng mặt trời trong văn hóa cổ đại là một biểu tượng của thần linh, là con trai của Đấng Sáng Tạo, là gương mặt thần thánh. Trong văn hóa trung đại, mặt trời là biểu tượng của sự sống và sự bất tử, tượng trưng quyền lực thống trị của hoàng đế, của dương tính mạnh mẽ. Đến thời hiện đại, trong thơ ca cách mạng, mặt trời là biểu tượng chân lý cách mạng sáng soi. Nhà thơ Tố Hữu viết: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ/ Mặt trời chân lý chói qua tim” (Từ ấy) là để nói lên sự gặp gỡ lý tưởng cách mạng, lý tưởng đó soi sáng trái tim và trí tuệ nhà thơ. Trong biểu tượng nghệ thuật thường có sự hòa quyện giữa truyền thống và cách tân. Nhờ bảo tồn hàm nghĩa truyền thống mà biểu tượng có tính phổ quát, chuyên chở mã văn hóa trong tiến trình phát triển nhưng đi qua mỗi thời đại, biểu tượng được bổ sung nét nghĩa mới, nhiều khi trở thành yếu tố mang đậm phong cách cá nhân. Biểu tượng nghệ thuật vì thế luôn có sự thống nhất và đối lập giữa hai mặt: tính hiện thực và tính tượng trưng, nó vừa gợi lên những cái mơ hồ trừu tượng vừa giữ mối liên hệ với ý nghĩa nào đó của hiện thực, của đối tượng mà nó thay thế. Điều này càng khẳng định vai trò tượng trưng trong nghệ thuật, từ chất liệu ngôn từ và chân lý cuộc sống, nghệ thuật tạo nên một thế giới mang tính tượng trưng, ước lệ. Biểu tượng là hình ảnh tượng trưng góp phần tạo nên tính tượng trưng của giao tiếp nghệ thuật nhưng tượng trưng nghiêng về tính ổn định và nhiều khi trở thành ước lệ. Tượng trưng được biểu hiện trên nhiều cấp độ, từ biểu tượng đến phương thức chuyển nghĩa, từ phương thức chuyển nghĩa đến hình tượng và từ hình tượng đến tư duy nghệ thuật. Tượng trưng như là một phương diện đặc thù của sáng tạo nghệ thuật, nó là một phương thức khái quát đời sống một cách cụ thể, là công cụ giao tiếp đầy gợi cảm và ám thị, nó chứng minh cho bản chất của nghệ thuật là khám phá, biểu hiện chứ không phải là sao chép đời sống.
Từ nhận thức sâu sắc về mối quan hệ gắn bó giữa văn nghệ và văn hóa, chúng ta cần xác định việc xây dựng hệ giá trị văn nghệ phải gắn với xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam. Mục tiêu cuối cùng của phát triển văn nghệ là góp phần chấn hưng văn hoá, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; là góp phần xây dựng chuẩn mực con người Việt Nam trong thời đại ngày nay.
Chú thích:
1 J. H. Fichter (1973), Xã hội học, Hiện đại thư xã xuất bản, tr. 173.
2 Trần Ngọc Thêm (2016), Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường tới tương lai, NXB Văn hóa - Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 38.
3 Dẫn theo: Trần Ngọc Thêm, Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường tới tương lai, Sđd, tr. 263.
4 Hồ Chí Minh - Lê Duẩn - Trường Chinh - Phạm Văn Đồng - Võ Nguyên Giáp - Nguyễn Chí Thanh (1972), Về văn hóa, văn nghệ, NXB Văn hóa, tr. 64.
5 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3 (in lần thứ ba), NXB Chính trị quốc gia, tr. 458.
6 Nguồn: https://tulieuvankiendangcongsan.vn/ he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/nghi-quyetso-23-nqtw-ngay-1662008-cua-bo-chinh-tri-vetiep-tuc-xay-dung-va-phat-trien-van-hoc-nghethuat-trong-thoi-ky-269.
7, 8 Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới (nhiều người dịch), NXB Đà Nẵng, tr. XX, XXVII.