NHO SĨ LÀM BÁO VĂN CHƯƠNG TRONG TÌNH THẾ MỚI: TRƯỜNG HỢP ''VĂN HỌC TẠP CHÍ'' (1932-1935)

Bài viết chỉ ra sự chuyển đổi của ''Văn học tạp chí'' từ nhãn quan luân lý Nho gia sang kết hợp các yếu tố văn chương hiện đại và Âu hóa để đáp ứng nhu cầu mới của độc giả thành thị. So sánh với ''Tân Thanh tạp chí'' và ''Đông Thanh tạp chí'', bài viết cũng cho thấy các tờ báo Nho học như ''Văn học tạp chí'' đã không thể thực hiện các cải cách triệt để, dẫn đến đình bản và sự suy giảm vị thế của nhà Nho trong xã hội đầu thập niên 1930.

   Văn học tạp chí (1932-1935) là tờ báo văn chương do ba anh em nhà Dương Phú Thị chủ trương - Dương Tụ Quán (chủ nhiệm), Dương Bá Trạc (chủ bút) và Dương Quảng Hàm (phụ trách) - có thời gian tồn tại gần như trùng khít với thời gian tồn tại của tờ Phong Hóa (1932-1936) của Tự lực văn đoàn. Đều là các tuần báo văn chương, tồn tại song hành với nhau, được chăm sóc bởi các nhóm văn học ít nhiều có tính gia đình nhưng Văn học tạp chí Phong Hóa ở vào hai đối cực hoàn toàn khác nhau. Trong khi Phong Hóa là tờ báo tán dương các tư tưởng cải cách Âu hóa, do các nhà Tây học trẻ tuổi khởi xướng, thì Văn học tạp chí là tờ báo cổ xúy Nho học, chủ trương tồn cổ, tồn tại như một Nam Phong kéo dài, do các nhân vật Nho sĩ hoặc xuất thân Hán học cầm trịch. Do tác động nổi trội của Tự lực văn đoàn đối với báo giới và người đọc tiếng Việt ngay sau khi Phong Hóa bộ mới (từ số 14, 22/9/1932) ra đời, khi mô tả sự xuất hiện của tính hiện đại trong văn chương Việt Nam, người ta dễ có xu hướng chỉ đóng khung vào các hoạt động của nhóm văn học này thay vì đặt nó trong một ngữ cảnh rộng hơn nơi có sự tranh chấp giằng co của các tiếng nói, các vị thế và các thị hiếu văn chương khác biệt trong nửa đầu thập niên 1930. Sức hút của Tự lực văn đoàn trong tư cách một biểu tượng của hiện đại và khai sáng ở Việt Nam dễ khiến người quan sát mô tả hiện tượng này như một sự chuyển dịch và thắng thế hoàn toàn trơn tru của tính hiện đại và các ý niệm phổ quát phương Tây mà không gặp phải cản lực nào của cái địa phương. Trong khi đó, trên thực tế sự tồn tại của các tờ báo văn chương do giới Nho sĩ chủ trương mà Văn học tạp chí là một đại diện sẽ cho thấy một tình thế hiện đại hóa phức tạp hơn, trong đó cái địa phương, cái có tính cách Khổng giáo tìm cách bảo lưu, phản kháng, thậm chí tìm cách thích nghi và thương thỏa với các nhân tố phương Tây. Mặc dù rốt cuộc các Nho sĩ sẽ thất thế và nhường vị trí trung tâm của đời sống văn chương cho các nhân vật tân học nhưng thời gian tồn tại của các tờ báo của giới Nho sĩ như Văn học tạp chí cho thấy rằng sự chuyển đổi trạng thái sang hiện đại ở Việt Nam đầu thập niên 1930 cho dù có gấp rút đến đâu cũng phải trải qua một giai đoạn tranh chấp, giằng co với cái bản địa để đi đến một chung cục ngã ngũ. Bài viết lựa chọn Văn học tạp chí làm một nghiên cứu trường hợp để quan sát phản ứng và nỗ lực tồn tại của giới Nho sĩ người Việt trước áp lực phải hiện đại hóa văn chương và xã hội, từ đó thấy được tính chất chuyển tiếp không đơn giản của câu chuyện Âu hóa ở Việt Nam đầu thập niên 1930. Để có một cái nhìn bao quát hơn, bài viết cũng sẽ đặt Văn học tạp chí trong bối cảnh có sự tồn tại đồng thời của các tờ báo văn chương của Nho sĩ như Đông Thanh tạp chí (1931-1933) và Tân Thanh tạp chí (1932-1935) - các tờ báo cùng với Văn học tạp chí được coi như những cố gắng cuối cùng của giới Nho sĩ người Việt trước tình thế chuyển đổi nhanh chóng của văn chương và thị trường xuất bản những năm đầu thập niên 1930.

   1. Từ nhãn quan Nho gia và phong cách của Nam Phong tạp chí

   Văn học tạp chí ra số 1 (1/5/1932), chạy liên tục trong vòng ba năm và đình bản ở số 75 (13 và 20/4/1935). Báo ban đầu ra một tháng một số, sau chuyển sang bán nguyệt san và cuối cùng duy trì ổn định trong hình thức tuần báo cho đến khi kết thúc. Dù có những biến động về mặt hình thức nhưng nhìn vào nội dung, các mục bài và chủ trương của nhóm dễ thấy Văn học tạp chí là một tờ báo khảo cứu rập khuôn phong cách khảo cứu của Nam Phong tạp chí. Dưới tiêu đề lớn “Văn học tạp chí” ở trang nhất, báo tự xưng là “cơ quan chuyên khảo cứu, bàn soạn và giảng giải về quốc văn”. Lời phi lộ của tờ báo - mà chúng tôi cho là do Dương Bá Trạc chấp bút - cho thấy một nỗ lực và một kỳ vọng lớn của những người cầm trịch “đem hết tâm tư, hết tinh lực, dùng hết các phương pháp” ngõ hầu kiến thiết một thứ “quốc văn” mà theo các tác giả là “riêng hẳn đặc sắc của dân tộc mình”. “Quốc văn” ở đây hiểu theo nghĩa mà các trí thức Nam Phong tạp chí từng hô hào, ám chỉ cả “văn tự” và “văn chương”. Trong bản tuyên ngôn của Văn học tạp chí, người chấp bút đã tiếp nối một cách trung thành và nhiệt huyết khẩu hiệu “bảo tồn quốc túy” mà Nam Phong khởi xướng từ năm 1917. Bảo tồn “quốc hồn quốc túy” là một diễn ngôn dân tộc chủ nghĩa đặc trưng mà thế hệ Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác xây dựng nên trong tiếng Việt1 đã lôi kéo một bộ phận đông đảo Nho sĩ người Việt đi theo ủng hộ và khuếch trương trên các diễn đàn công luận. Điều đáng lưu ý là đường lối phục cổ này tiếp tục được những thành viên thế hệ Nam Phong như Dương Bá Trạc duy trì với một niềm tin không hề thoái lui, bất chấp thực tế rằng tình thế Nam Phong đã sa sút và vị chủ nhiệm của tờ báo, Phạm Quỳnh, đã từ bỏ tạp chí để tham gia hoạt động chính trị ở Huế.

   Một biểu hiện khác cho thấy tính chất mô phỏng Nam Phong là các số báo đều có hình thức của những cuốn sách, được đánh số trang nối tiếp nhau để độc giả có thể đóng thành các tập sách thống nhất khi mua gộp, một dạng tạp chí - sách định kỳ theo kiểu học thuật mà Nam Phong tạp chí và trước đó Đông Dương tạp chí từng là những mẫu mực. Trong năm số đầu tiên khi phát hành theo thể nguyệt san, báo chạy với dung lượng khoảng 120 trang cho mỗi số, gần như tương ứng với dung lượng trang của một số Nam Phong. Dưới dạng bán nguyệt san 60 trang mỗi số ở giai đoạn sau, báo vẫn duy trì hình thức đánh số trang theo kiểu các cuốn sách khảo cứu và hình thức này kéo dài cho đến tận số 33 (1/4/1934). Về mặt lực lượng, tương tự Nam Phong, các cây bút xuất thân Nho học trên Văn học tạp chí chiếm số lượng áp đảo. Ngoài ba cây bút chính quản lý tờ báo về mặt nội dung vốn xuất thân từ gia đình Nho học và thạo Hán văn, các trợ bút của Văn học tạp chí xét về tuổi đời hoặc là các Nho sĩ lớp trước (Bùi Trình Khiêm, Tản Đà, Trần Tuấn Khải, Phan Khôi, Nguyễn Đăng Cư) hoặc là các nhà Hán học trẻ tuổi sinh vào đầu thế kỷ XX (Dương Tự Nguyên, Nguyễn Tường Phượng, Ngô Văn Triện, Đông Hồ). Những nhân vật này cùng với ba anh em nhà Dương Phú Thị đã tham gia vào các chuyên mục khảo cứu dính dáng đến cổ văn sâu đậm nhất, đặc biệt là giai đoạn đầu của tạp chí: dịch Hán văn Trung Hoa, Việt Nam, chú giải điển tích văn học, lược khảo lịch sử văn học, bình giảng thơ văn cổ, đăng tải các giai thoại văn chương. Thông qua các chuyên mục này, nhiều nhân vật văn chương tiền hiện đại của người Việt được đưa lên mặt báo và không ít nhân vật như thế được nhắc đi nhắc lại với tần suất cực kỳ lớn (Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Phan Thanh Giản, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Cao Bá Quát). Riêng chủ bút Dương Bá Trạc, ngoài phụ trách xã luận và tham gia vào các chuyên mục khảo cứu, ông còn cho đăng tiểu thuyết Hoa Lư kết nghĩa hầu như liên tục ở mỗi số, một tiểu thuyết lịch sử mà tính chất của nó là một dạng khảo cổ nhân vật Đinh Bộ Lĩnh kết hợp giữa sử liệu và tưởng tượng văn chương. Một điều đáng chú ý là chủ trương phục cổ của tòa soạn đã sàng lọc và khống chế sự hiện diện của các cây bút thường được coi là các nhân vật hiện đại chủ nghĩa, trong đó có các nhân vật ở vị thế đối thủ của tòa soạn. Tạp chí đã cho in lại một đoạn truyện Giấc mộng Từ lâm trong tập Người quay tơ của Nhất Linh, một tác phẩm có hơi hướng “Nho phong” in năm 1927, giai đoạn Nhất Linh vẫn còn vướng víu với các ràng buộc của cựu học. Khái Hưng xuất hiện trên Văn học tạp chí không phải là Khái Hưng của Hồn bướm mơ tiênNửa chừng xuân mà là một Khái Hưng có hơi hướng nệ cổ, tác giả của các khảo cứu văn chương và tư tưởng Á Đông2. Vũ Trọng Phụng không chỉ đăng các vở kịch và truyện ngắn trên Văn học tạp chí mà còn là tác giả của một khảo cứu rất đáng chú ý: “Cụ Đào Duy Từ” (số 54, 15/9/1934). Lê Tràng Kiều - một trí thức trẻ tuổi được lựa chọn để làm tờ báo của Dương Bá Trạc vào giai đoạn sau - không chỉ là cây bình luận văn chương Pháp mà còn thường xuyên tham gia viết khảo cứu, sao lục thơ văn cổ, tường thuật tiểu sử của các nhân vật văn học quá khứ, thậm chí còn phản đối Thơ mới để đề cao thơ Đường luật. Có thể thấy những yếu tố phi hiện đại đã hoặc đang tồn tại một cách phức hợp đan xen trong tư tưởng của các ký giả Tây học đã được các nhân vật Khổng giáo của Văn học tạp chí khai thác và trưng dụng để phục vụ cho chủ đích khảo cổ, đi tìm “quốc túy, quốc hồn” theo kiểu Nam Phong tạp chí.

   Việc các cây bút của tạp chí theo đuổi đường lối của Nam Phong, nhấn mạnh bổn phận của người viết trong việc kiến tạo các giá trị quốc gia trong văn chương và văn hóa, rõ ràng gắn liền trong chiều sâu với ý thức hệ Khổng giáo, theo đó giới tinh hoa nhân danh cộng đồng luôn đề cao nghĩa vụ xã hội và trách nhiệm hướng đạo dẫn dắt dân chúng. Nhìn vào các xã luận tiêu biểu của Dương Bá Trạc trên Văn học tạp chí, dễ thấy các phát ngôn đặc trưng của giới Nho sĩ trong nỗ lực kiến thiết sự đồng thuận đạo đức, áp đặt các chuẩn mực xã hội và văn chương trên không gian công luận tiếng Việt. Những phê phán xã hội dựa vào các chuẩn mực luân lý (phê phán tự do ái tình, tự sát, ly dị, phong hóa suy đồi, lễ giáo luân thường băng hoại) tồn tại trong tư cách những diễn ngôn kiểm soát xã hội của ý hệ Khổng giáo, xuất hiện thường xuyên trên các nhật báo tiếng Việt thập niên 1920. Đây là giai đoạn khoa cử Hán học vừa mới kết thúc, các Nho sĩ tuy không nhận được những hỗ trợ về mặt thiết chế từ phía nhà nước thuộc địa nhưng vẫn là một nhóm xã hội đông đảo, có vị thế trung tâm trong việc xây dựng sự đồng thuận xã hội và xác lập niềm tin về các giá trị (luân lý, quốc hồn quốc túy) trên các diễn đàn công luận bằng tiếng Việt. Khổng giáo tuy không còn là ý thức hệ của nhà nước nhưng vẫn tồn tại như những phân mảnh trong nhiều lĩnh vực đời sống và vẫn bám trụ ở các mức độ khác nhau trong thế giới tinh thần của các Nho sĩ cuối cùng cũng như thế hệ trí thức người Việt nối tiếp sau đó trong giai đoạn thuộc địa3. Bất chấp thực tế lực lượng Nho sĩ đã giảm sút về số lượng và giảm dần vị thế xã hội vào thập niên 1930, những Nho sĩ cuối cùng như Dương Bá Trạc vẫn bảo lưu một cách nguyên vẹn niềm tin về các giá trị luân lý khi bình luận các hiện tượng xã hội. Luân lý, vận hành trong tư cách quyền lực của cái chuẩn mực, quy định đồng thời cái nhìn xã hội và thị hiếu văn chương của nhà Nho, thể hiện ở hành động định giá và phân hạng cao - thấp, chính đáng - không chính đáng, chuẩn - phi chuẩn cho các hiện tượng văn học. Trên xã luận “Cái hại đọc văn nhảm” (số 35, 28/4/1934), Dương Bá Trạc bày tỏ sự kỳ thị với các tác phẩm mà ông cho là “văn nhảm”, tức các cuốn sách “chiều theo cái thị dục xấu xa mà múa bút vẽ ra những câu văn khêu gợi dục tình, cổ động thói xấu”. Ông quy kết nguyên nhân lưu hành nạn tự sát và ly dị trong nữ giới - đối tượng mà nhà Nho cho cần phải phòng phạm và răn đe nhất thay vì nam giới - cho tiểu thuyết ái tình, vì “ăn phải cái bả tiểu thuyết tình mà đến thế”. Ngược lại với hành động gán cho tiểu thuyết ái tình địa vị thấp kém, dung tục, nguy hại là việc đề cao một thứ văn chương “chính đáng”, “trong sạch”, cụ thể là văn chương “có ích về đường đức dục, trí dục”, có tính cách giáo dục, soi sáng4. Theo đó, văn chương giải trí, khôi hài mà Phong Hóa hay tuần báo Loa chủ trương ngay lập tức bị những nhân vật của giới Nho sĩ như Dương Bá Trạc coi là những hiện tượng phạm luật, lệch lạc, tấn công vào các chuẩn mực từng giữ vị thế thống trị của họ. Tiếng cười trẻ trung, mới mẻ mà các văn nhân hiện đại trên các tờ báo này tạo ra bị trục xuất khỏi bảng giá trị của nhà Nho vốn xem cái đạo lý nghiêm trang và văn chương “có ích”, “vị đời” làm tiêu chuẩn.

   Những phê phán nói trên của Dương Bá Trạc nhằm vào văn chương của các văn nhân trẻ tuổi là những hiện tượng rất tiêu biểu cho thấy sự chuyển dịch không hề trơn tru của tính hiện đại trong hoàn cảnh Việt Nam thuộc địa khi các thị hiếu văn chương địa phương đã tồn tại lâu dài trong quá khứ xung đột với các thị hiếu văn chương hiện đại. Ở đây, cái có tính cách Khổng giáo trong văn chương xuất hiện như một nỗ lực phản kháng cưỡng chống sự xâm nhập của những yếu tố hiện đại xa lạ có tính chất đe dọa và lật đổ vừa mới trỗi dậy. Sự công kích càng trở nên gay gắt khi người công kích, vốn là một thành viên kỳ cựu của giới Nho sĩ, có nhu cầu bảo vệ một cách mạnh mẽ bản sắc của thế hệ khi đứng trước nguy cơ sắp bị gạt sang bên lề. Một nỗ lực phản kháng đồng thời cũng là nỗ lực cứu vãn cuối cùng trước khi bị thế chỗ. Sự xung đột này phản ánh sự xung đột giữa các vị thế trong tình thế văn chương, nghệ thuật có cội rễ từ phương Tây đang trên đường trở thành một thế lực độc lập tách khỏi đạo lý. Từ chỗ là một nhóm xã hội có địa vị trung tâm trên không gian công luận tiếng Việt và gần như nắm giữ độc quyền trong việc xác lập các giá trị cốt lõi cho cộng đồng thập niên 1920, các Nho sĩ trong đó có Dương Bá Trạc - trong tình thế hiện đại hóa gấp rút đầu thập niên 1930 - trở thành những nhân vật có nguy cơ bị loại bỏ, lỗi thời và bị thay thế bởi những thanh niên Tây học đang dần chiếm lĩnh vị thế trung tâm trong đời sống báo chí và văn chương ở Việt Nam đầu thập niên 1930.

   2. Đối diện với sự lật đổ và nỗ lực thích nghi trong thị trường báo chí

   Trước khi Phong Hóa mở những cuộc công kích liên tục nhằm vào các nhân vật cựu học bắt đầu từ cuối 1932, trước đó không lâu, nhà bình luận văn chương trẻ tuổi Thiếu Sơn trên Phụ nữ tân văn tuy chưa phải hạ bệ thế hệ cũ một cách quyết liệt nhưng đã nói tới câu chuyện “ý nghĩa văn học phải sai lạc đi” khi “văn học chỉ có khảo cứu để dạy đời” và “dạy dỗ quần chúng”. Ông cũng thảo luận về sự sinh thành một chuẩn mực văn chương mới, văn chương như một ý niệm về mĩ thuật thay vì “có ích” theo nhãn quan Nho gia: “Ta không nên chỉ có cái quan niệm công lợi, mà còn phải có cái quan niệm mĩ thuật. Ta không được chỉ nói: Sách này có ích gì cho người đời không? Ta còn phải hỏi: Sách này viết có hay không”5. Nhưng phải đến Phong Hóa bộ mới, các nhân vật văn chương của Tự lực văn đoàn mới thực sự nối tiếp Thiếu Sơn thực hiện những công việc có tính chất lật đổ, được tiến hành một cách có hệ thống nhằm đưa cái hiện đại tiến vào trung tâm sinh hoạt văn chương của người Việt thành thị: một mặt kiến tạo các chuẩn mực văn chương mới (cái mĩ thuật và giải trí) bằng đăng tranh biếm họa, ủng hộ Thơ mới, chạy tiểu phẩm khôi hài, sáng tác văn xuôi dựa vào kỹ thuật tự sự phương Tây, mặt khác, không kém phần quan trọng, tấn công trực diện bằng tiếng cười chế giễu vào các đại diện của thế hệ cũ trong đó có các Nho sĩ đã thành danh6. Đây là một sự phế truất có lựa chọn, nhằm vào các giá trị biểu trưng đã được vinh danh trong quá khứ, trong đó có thể kể đến nhiều cái tên: Tản Đà - thi sĩ số một của thơ cũ, nhà Nho Hoàng Tăng Bí - người viết xã luận quan trọng nhất của tờ Trung Bắc tân văn, Phạm Quỳnh chủ nhiệm Nam Phong tạp chí, Dương Bá Trạc chủ bút Văn học tạp chí và Nguyễn Văn Vĩnh - nhà canh tân đang ít nhiều vướng víu vào cựu học vào đầu thập niên 1930. Cuộc hạ bệ tập thể bằng tiếng cười trào phúng này không chỉ được thực hiện như một chiêu thức nhà nghề nhằm thu hút độc giả, tăng lợi nhuận cho một tờ báo trẻ chưa có vốn liếng kinh tế - như cách mà Trần Huy Liệu thú nhận, trước kia từng cố ý gây hấn với báo giới Nam Kỳ để tăng sức hút cho tờ Đông Pháp thời báo - mà trước hết gắn với chiến lược kép của một nhóm văn chương trẻ tuổi càng ngày càng ý thức được vị thế tiên phong của mình trong công cuộc canh tân về văn chương và xã hội. Đó là chiến lược hạ bệ dự án dân tộc chủ nghĩa của giới Nho sĩ và các nhà khảo cứu mà Nhất Linh gọi là bảo tồn “những quốc hồn quốc túy viển vông”, nhằm “làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không còn hợp thời nữa”, từ đó dọn đường cho sự du nhập các chuẩn mực văn nghệ mới và sự trưởng thành của nền văn học hiện đại đang thành hình. Trong hàng loạt các nhân vật tiếng tăm bị chế giễu, nhóm tác giả của Văn học tạp chí mà tập trung nhất là Dương Bá Trạc được đưa vào tầm ngắm một cách thường xuyên từ các số đầu của Phong Hóa bộ mới cho đến khi Văn học tạp chí đình bản. Theo thống kê sơ bộ của chúng tôi, Văn học tạp chí bị đem làm đối tượng chế giễu trên 26 số báo rải rác trên Phong Hóa, trong đó có đến 15 số đề cập tới chủ bút Dương Bá Trạc, một tần suất thuộc vào nhóm cao nhất trong số các nhân vật bị châm chọc. Các đoạn châm biếm này chủ yếu xuất hiện trên các mục “Từ cao xuống thấp”, “Cuộc điểm báo” hoặc nằm trong một số bài báo hay thơ châm biếm riêng lẻ. Có khi cùng một mục tác giả Phong Hóa dành đến hai đoạn châm biếm Dương Bá Trạc. Phong Hóa cũng chế giễu văn chương già nua kén độc giả của Văn học tạp chí: “Thơ ông cử Trạc đầy văn Hán/ Truyện bác Lan Khai rặt giọng mường/ Nhắn những ai ai dùng thuốc ngủ/ Mua Văn học đọc một vài trang”. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả lật đổ toàn diện hơn, cũng có lúc tác giả Phong Hóa từ bỏ phương pháp khôi hài bông đùa để phê bình trực tiếp Dương Bá Trạc và tòa soạn của ông. Để tranh luận lại bài báo “Tình hình báo chí ở nước ta” mà Dương Bá Trạc cho đăng dưới bút danh “Một người muốn bỏ làm báo” trên Văn học tạp chí số 57 (6/10/1934), Tứ Ly đã công bố một bài báo dài chất vấn và phê phán nhà Nho này ở từng điểm cụ thể. Vin vào luận điểm ca ngợi văn chương “hữu ích” theo quan niệm nhà Nho của Dương Bá Trạc, đồng thời để bảo vệ đường hướng văn chương của Phong Hóa, Tứ Ly lập luận rằng Dương Bá Trạc và tòa soạn Văn học tạp chí chỉ “bàn những truyện viển vông xa xôi, những vấn đề quá thâm thúy hay mơ mộng, những truyện đạo đức suông nhạt phèo như nước ốc” và ông quy kết văn chương trên tờ báo của Dương Bá Trạc “chẳng có ích cho ai cả”. Tứ Ly tiếp tục lập luận rằng để “có ích” báo chí phải là “cơ quan truyền bá tư tưởng cho nhiều người”, “phải gần phần đông dân chúng” và “phải điều hòa sự vui và sự có ích” thay vì “đạo mạo, bàn đạo lý suông để cho một mình mình nghe và để ru ngủ thiên hạ”. Sau khi tán dương Phong Hóa như là cơ quan phát ngôn cho cái hiện đại và tân tiến nhằm đối lập với Văn học tạp chí như là tiếng nói già nua, phản tiến bộ, Tứ Ly đi đến kết luận rằng “Ông [tức Dương Bá Trạc - LNA] với ông Tản Đà, với cụ bảng Hoàng, chúng tôi cho là tiêu biểu cho cái cũ, cái cũ mà chúng tôi muốn đạp đổ” (Phong Hóa, số 120, 19/10/1934, bài “Ông Cử Dương”). Như thế có thể thấy Dương Bá Trạc, cùng với Tản Đà và Hoàng Tăng Bí, được Tự lực văn đoàn coi là những nhân vật chính yếu và có tính đại diện nhất cho thế hệ Nho sĩ cũ cần phải phế truất và đẩy vào quá khứ. Sự tấn công này được thực hiện bằng một thái độ cực đoan buổi đầu của những nhà văn trẻ tuổi - thể hiện qua những tổ hợp từ dứt khoát như “đạp đổ”, “bỏ quách đi”, “quả quyết bỏ hết”, “đoạn tuyệt” trong các bài báo hoặc tác phẩm giai đoạn Phong Hóa - đang sốt sắng gây ấn tượng và nỗ lực xác lập bản sắc của nhóm. Một tham vọng tuy ít nhiều có tính chất ảo tưởng (ảo tưởng có thể loại trừ dứt khoát các yếu tố truyền thống) nhưng hiệu ứng phê phán mà nó tạo ra đã có một vai trò rõ rệt trong việc đẩy nhanh các sản phẩm văn chương Khổng giáo thành những hiện tượng lỗi thời, buộc các tờ báo văn chương của Nho sĩ phải tìm cách thay đổi để thích nghi và tồn tại.

   Tác nhân dẫn đến sự thay đổi để thích ứng của các tờ báo văn chương của Nho sĩ trong đó có Văn học tạp chí ngoài sự phê phán của các tác giả Tự lực văn đoàn, sự thành công về mặt nội dung và thương mại của những tờ báo có tính cách văn chương và giải trí như Phong Hóa, tất yếu phải nói đến sự hình thành một tầng lớp độc giả mới trong tư cách những khách hàng mới của văn chương. Sự phát triển của đời sống đô thị thuộc địa kéo theo sự đa dạng của các nhu cầu đọc (đặc biệt là nhu cầu giải trí, thưởng ngoạn văn chương nghệ thuật, đọc tin vắn, phóng sự), sự mở rộng thành phần độc giả (sự gia tăng của phụ nữ và thanh thiếu niên), buộc các tờ báo muốn tồn tại về mặt kinh tế phải nương theo nhu cầu của đại chúng, của số đông thay vì chỉ đáp ứng thị hiếu của một thiểu số độc giả có tính cách thượng lưu như Nam Phong tạp chí. Người viết báo giờ đây không chỉ là người tạo tác các thị hiếu (tastemaker) mà còn chịu sự quy định bởi thị hiếu của đám đông độc giả thành thị, những người trả tiền để nuôi sống các tờ báo. Người viết báo từ bỏ vị thế phát ngôn của nhà đạo đức đứng trên dân chúng để truyền dạy và uốn nắn công luận, trở thành người lắng nghe, đối thoại với công chúng và làm ra “các món hàng mà độc giả đang ưa”. Mặt khác, do không còn sống dựa vào sự bảo trợ của nhà nước hay sự tài trợ của các nhà tư bản giàu có như thập niên 1920, báo chí phải tồn tại độc lập bằng nguồn tiền tự xoay sở và buộc phải tuân theo quy luật cung cầu của thị trường, tức phải “săn sóc đến dư luận, đến thời sự, phải là những bức tranh hoạt động của xã hội trước mắt [...] viết về những vấn đề có liên quan đến một số đông người” như cách Tự lực văn đoàn tự khẳng định việc họ đã tạo ra một loại hình báo chí mới nhân dịp kỷ niệm 3 năm ra mắt báo Phong Hóa (Phong Hóa, số 154, 20/9/1935, bài “Kỷ niệm ngày báo ra”). Trong tình thế thay đổi đó các tờ báo khảo cứu kén độc giả kiểu Nam Phong tạp chí phải đối diện với tình trạng chật vật do người mua hạn chế. Phong cách nghị luận trang nghiêm, chú trọng các khuôn mẫu đạo lý, hứng thú với khảo cứu tìm về “quốc túy” không còn mấy hấp dẫn với số đông độc giả trẻ tuổi đang có những nhu cầu đọc khác biệt. Có thể thấy một phần thực tế đó qua việc Lê Tràng Kiều trên Văn học tạp chí từng nói đến tình trạng “ế chảy ra” của bộ Nho giáo của Trần Trọng Kim trong khi “những tiểu thuyết ngôn tình, trinh thám [...] in ra bao nhiêu cũng hết” (số 59, 20/10/1934). Trong bài báo “Tình hình báo chí ở ta” của Dương Bá Trạc, với giọng đầy than vãn, ông chủ bút Văn học tạp chí cũng than phiền về tình trạng “độc giả ưa vui, các báo đứng đắn không sao sống nổi nữa”. Ở đây, “các báo đứng đắn” mà Dương Bá Trạc nói đến ám chỉ các tờ báo có tính chất khảo cứu kế thừa phong cách Nam Phong tạp chí. Tình trạng già nua, lỗi thời về mặt nội dung và chật vật về mặt tiêu thụ buộc các tờ báo như Văn học tạp chí phải tìm cách thay đổi để thích nghi. Điều này đã dẫn đến một hiện tượng đáng chú ý là sự pha loãng dần các nội dung khảo cứu và sự hấp thu ở một chừng mực nhất định các nhân tố trẻ trung, có tính chất hiện đại mà ta có thể thấy rõ qua các biểu hiện nội dung và hình thức của Văn học tạp chí ở giai đoạn sau.

   Dường như ý thức được tính chất nghiêm trang nặng nề và thiếu sức hút của hình thức một số báo dày theo kiểu “sách Nam Phong”, Văn học tạp chí dù vẫn duy trì tính cách tồn cổ nhưng đã tìm cách giảm dần số trang mỗi số vào giai đoạn sau. Từ 120 trang xuất bản hàng tháng trong 4 số đầu, báo giảm còn 60 trang trong hình thức bán nguyệt san từ số 5 (10/1932) đến số 33 (1/3/1934) và giảm xuống 20 trang ở định dạng tuần báo từ số 34 (21/4/1934) cho đến số 74 là số cuối cùng (30/3 và 6/4/1935). Sự thu gọn số trang này tất yếu dẫn đến sự bỏ bớt các nội dung và các mục bài khảo cứu, khiến cho hình dạng của một cuốn sách ở mỗi số dần biến mất. Bản thân việc đánh số trang theo dạng sách (để độc giả khi mua gộp có thể tập hợp lại thành một tập sách), như chúng tôi đã đề cập đến, cũng chấm dứt từ số 34, trả tạp chí về hình thức một tờ báo thông thường. Sự thay đổi để mềm hóa và bớt nghiêm trang hơn cũng được tòa soạn bước đầu tính đến sau khi chấm dứt loại 120 trang, thông qua việc bổ sung một số mục mới để tạp chí “có phần vui vẻ và hoạt động, lại có nhiều tranh ảnh để có vẻ mỹ quan hơn”, như lời “Kính cáo độc giả” ở số 4 (8-9/1932) cho biết. Song, những thay đổi đáng kể hơn của Văn học tạp chí phải tính từ thời điểm đầu 1934 trở đi. Một ví dụ tiêu biểu là tiêu đề trên manchette của tờ báo: “Cơ quan chuyên khảo cứu, bàn soạn, giảng giải về quốc văn” mặc dù xuất hiện liên tục ở 29 số đầu trong hai năm 1932, 1933 nhưng đã biến mất đột ngột trong nửa đầu 1934, từ số 30 (1/1/1934) cho đến số 38 (19/5/1934) - một sự vắng mặt dường như cho thấy dấu hiệu của sự chối bỏ và nhu cầu điều chỉnh. Thậm chí, bắt đầu từ số 39, tòa soạn cho in tiêu đề bằng tiếng Pháp thay thế cho tiêu đề tiếng Việt cũ trên manchette: “Hebdomadaire d’information, d’opinion et de vulgarisation littéraire & artistique” (“Tuần báo chuyên trách tin tức, dư luận, phổ thông văn chương và mỹ thuật”). Có thể thấy ở đây một sự dịch chuyển về đường hướng: báo chuyển sang đưa tin, chú trọng công luận, mĩ thuật, xoay quanh văn chương nói chung thay vì chỉ khảo cứu “quốc văn”. Mặc dù, thực chất các bài báo khảo cứu vẫn hiện diện ở các số nhưng sự thay đổi ở hình thức thông báo này cho thấy thực tế rõ ràng rằng tòa soạn đã thực sự ý thức được tính chất kém hấp dẫn của các nội dung khảo cứu nghiêm trang hướng về quá khứ và sự cần thiết phải gia cố các nội dung văn chương mới mẻ, cập nhật hướng về cái đương thời để giữ chân độc giả. Các nội dung được tăng cường bắt đầu từ 1934 đã chứng thực cho sự dịch chuyển này: kịch hiện đại bắt đầu xuất hiện, truyện ngắn ra mắt và gia tăng theo thời gian, văn học Pháp bắt đầu được dịch, giới thiệu và bình luận, phê bình văn học được chú trọng, hướng tới các hiện tượng văn chương đương thời (Thơ mới, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn). Sự dịch chuyển để đa dạng hóa các mục bài cũng làm thay đổi diện mạo và phong cách của đội ngũ tác giả. Các cây viết trước kia chỉ chuyên công việc khảo cứu quốc văn như Dương Tụ Quán giờ đây tham gia giới thiệu cả Goethe, Tagore. Sự xuất hiện của Lê Tràng Kiều và những người bạn cùng trang lứa cộng tác với tờ báo càng góp phần khiến Văn học tạp chí giảm bớt sự quan tâm vào các nội dung có tính khảo cổ mà xuất hiện nhiều hơn các bài vở bình luận văn chương hiện đại và văn chương Pháp. Với vai trò tăng lên của các cây bút trẻ được đào tạo Tây học như Lê Tràng Kiều, Nguyễn Tiến Lãng, đặc biệt là Vũ Trọng Phụng, tạp chí đã tạo ra sắc thái hiện đại nhất định ở giai đoạn cuối của nó. Truyện ngắn của Nguyễn Tiến Lãng, các tiểu luận của Lê Tràng Kiều về văn chương lãng mạn và tượng trưng Pháp cùng các vở kịch của Vũ Trọng Phụng tồn tại song song bên cạnh các nội dung khảo cứu còn sót lại đã thể hiện tính chất điều hòa, thích nghi với văn chương Âu hóa ở một mức độ nhất định của một tờ báo từng rập khuôn theo mẫu hình Nam Phong. Sự thay đổi của thị trường báo chí và sự lên ngôi của các thị hiếu mới ở độc giả buộc tờ báo phải điều chỉnh nếu không muốn nhanh chóng chịu số phận chết yểu. Điều này thể hiện nỗ lực duy trì sự tồn tại của tờ báo và của vị chủ bút trước sức ép phải hiện đại hóa văn chương và xã hội ở Việt Nam đầu thập niên 1930.

   Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là những điều chỉnh để thích ứng nói trên vẫn không thể giúp cho Văn học tạp chí thu hút được một lượng độc giả đủ lớn để nuôi sống tờ báo và kéo dài sự tồn tại của nó. Dương Bá Trạc buộc phải thừa nhận “báo chí đứng đắn”, trong đó có tờ báo của ông, “không sao sống nổi nữa” khiến ông phải chán nản “muốn bỏ nghề báo”. Việc tờ báo buộc phải đình bản sau những nỗ lực cứu vãn không thành có thể lý giải trước hết ở những giới hạn không thể phá vỡ của nhà Nho khi đối diện với sự chuyển đổi và áp lực hiện đại hóa. Dù đã gạt bỏ đi khá nhiều tính chất sùng cổ và tăng thêm các yếu tố văn chương và đời sống đương đại ở giai đoạn sau nhưng về cơ bản tờ báo của nhà Nho Dương Bá Trạc vẫn bảo lưu nội dung khảo cứu và vì vậy, không thể trở thành một tờ báo văn nghệ hay giải trí có sức hút lớn với độc giả. Hơn nữa, vị chủ bút phụ trách các bài xã luận của tờ báo trước sau vẫn giữ nguyên cái nhìn luân lý nghiêm trang và phong cách giáo huấn răn đời khi bình phẩm các hiện tượng văn chương và xã hội. Vốn văn hóa và thế giới quan nhà Nho không tạo điều kiện cho Dương Bá Trạc trở thành một người ủng hộ hoàn toàn văn chương và tiếng cười hiện đại trên không gian công luận mặc dù ông và tòa soạn Văn học tạp chí đã cố gắng thay đổi và thích nghi để đến gần hơn các thị hiếu văn chương mới của độc giả. Sự thay đổi của Văn học tạp chí chỉ là nới rộng các giới hạn để chấp nhận những yếu tố có thể tương thích ở chừng mực cho phép mà không phá vỡ các giới hạn đã tồn tại. Sự thay đổi có tính chất nửa chừng đó khiến cho sản phẩm văn chương của tòa soạn không thể cạnh tranh nổi với các tờ báo “theo mới” và biết chiều theo độc giả như tuần báo Phong Hóa. Sự đình bản của Văn học tạp chí vì thế là kết cục tất yếu, phản ánh không những giới hạn của nhà Nho mà rộng hơn cả sự suy giảm vị thế xã hội của họ trong tình thế Âu hóa nhanh chóng ở Việt Nam đầu thập niên 1930.

   3. Đôi lời kết luận

   Dù ít nhiều khác nhau về thời gian tồn tại, nội dung, lực lượng cầm bút nhưng các tờ báo văn chương do giới Nho sĩ người Việt cầm trịch vào đầu thập niên 1930 đều có một số phận chung và những đặc điểm chung mà nhìn vào đó chúng ta có thể thấy rõ hơn câu chuyện của Văn học tạp chí. Hai tờ báo văn chương của Nho sĩ cần phải nhắc ở đây là Tân Thanh tạp chí Đông Thanh tạp chí. Cả hai đều là các tờ văn chương có dấu ấn đặc biệt của nhà Nho, rập khuôn ở các mức độ khác nhau đường hướng khảo cứu và “bảo tồn quốc túy” của Nam Phong tạp chí. Trong khi Tân Thanh tạp chí chủ trương “chấn chỉnh quốc văn”, “khảo các cổ văn cổ tích”, “bảo tồn quốc túy” và “giữ gìn đạo đức người Việt Nam” thì Đông Thanh tạp chí tự coi là một “phòng thí nghiệm hàng cổ, lựa chọn hàng cổ, đem cái cổ hữu dụng ra để cho công chúng dùng”. Có thể thấy kỳ vọng không nhỏ của các tờ báo này trong việc xây dựng chúng thành các trường học quốc văn, hướng đến các quy phạm đạo đức cho dân chúng như Nam Phong trước đây. Cùng với Văn học tạp chí, hoạt động của những tờ báo khảo cứu này cho thấy sự hiện diện không thể bỏ qua của Nho sĩ trong tư cách một lực lượng xã hội đang nỗ lực duy trì bản sắc của thế hệ trong tình thế chuyển tiếp và thay thế các giá trị những năm đầu thập niên 1930. Vẫn có một bộ phận các trí thức Hán học có nhu cầu mạnh mẽ muốn phát ngôn bảo vệ các giá trị luân lý cho cộng đồng mặc dù tốc độ hiện đại hóa gấp rút và sự trưởng thành nhanh chóng của thế hệ trí thức mới đã khiến họ không còn là người phát ngôn nắm độc quyền trên không gian công luận. Sự tồn tại của các Nho sĩ và sự bảo lưu nhãn quan xã hội, văn chương ở họ đã dẫn đến tình thế xung đột với các yếu tố hiện đại và các thị hiếu văn chương mới xuất hiện. Có thể thấy rõ điều này qua các xã luận của Dương Bá Trạc trên Văn học tạp chí hay Nguyễn Tử Siêu trên Tân Thanh tạp chí: cả hai cùng xuất phát từ nhãn quan đạo đức Nho gia bày tỏ sự kỳ thị và chống đối trước tiểu thuyết ái tình. Song sự áp đặt cái nhìn luân lý và duy trì phong cách nghiêm trang cũng nhanh chóng khiến các tờ báo Nho sĩ nhận ra thực tế bị lỗi thời khi độc giả đại chúng ở thành thị ngày càng mở rộng và cần những “hàng hóa tinh thần” mới mẻ, có tính cách văn chương, mĩ thuật hoặc khôi hài.

   Trước tình thế mới của văn chương và báo chí, các tờ báo của Nho sĩ đã nỗ lực tìm cách điều chỉnh để tiếp cận nhu cầu đọc mới của khối độc giả đại chúng. Các tờ báo này đã dần dần thay đổi về nội dung và hình thức, gia tăng các yếu tố giải trí, văn chương hoặc hình họa để tăng thêm sức hút nhằm giữ chân độc giả. Có thể thấy rõ nhất hiện tượng này ở Văn học tạp chíTân Thanh tạp chí giai đoạn sau. Thậm chí có thể nói tới hiện tượng bị “hút” về phía Phong Hóa7 trong trường hợp của Tân Thanh khi Nguyễn Kim Hoàn được điều về làm chủ bút từ số 71 (22/8/1933), biến tạp chí thành một tờ báo giải trí và nhiều tranh vẽ thay thế hoàn toàn tính chất một tờ báo của giới cựu học. Sự thành công về thương mại và sức hút của mô hình Phong Hóa đối với báo chí ở các mức độ khác nhau đã khiến các tờ báo của Nho sĩ phải điều chỉnh, mặc dù sự điều chỉnh có thể không dẫn đến sự phá vỡ những giới hạn trong tư tưởng của nhà Nho, như trường hợp Văn học tạp chí cho thấy. Do nỗ lực điều chỉnh để thích ứng, không khó hiểu khi Văn học tạp chí, dù đã tồn tại chật vật ở giai đoạn sau, vẫn duy trì được 3 năm với 74 số và Tân Thanh tạp chí trong vòng hơn 2 năm với 80 số. Trong khi đó, do hầu như chỉ duy trì tính chất một tờ báo khảo cứu thuần túy mà không có bất cứ thay đổi nào về nội dung và hình thức để gia tăng sức hút, Đông Thanh tạp chí chỉ chạy được 37 số, thậm chí phải ngừng in trong vòng một năm trời (cả năm 1934) trước khi trở lại trong hình thức rất èo uột để rồi chết yểu chỉ sau vài số cầm chừng, chiếu lệ. Tuy vậy, dù cố định như Đông Thanh tạp chí hay tìm cách thích nghi với thị trường báo chí như Văn học tạp chí hay Tân Thanh tạp chí, các tờ báo văn chương của Nho sĩ nhìn chung chỉ thõa mãn nhu cầu đọc của một thiểu số độc giả cũ còn sót lại mà không có tác động nào đáng kể đối với khối độc giả bình dân đa dạng đang bỏ tiền để đọc các tờ báo có nhiều phóng sự, tranh biếm họa, chuyện khôi hài và tiểu thuyết như Báo Loa hay Phong Hóa. Những cải cách nửa vời như Văn học tạp chí hay chỉ hiện diện trong thời gian ngắn như Tân Thanh tạp chí không đủ sức lôi kéo sự chú ý của độc giả phổ thông thành thị. Nhà Nho vẫn là những nhân vật không dễ dàng rời bỏ những khuôn mẫu và thị hiếu văn chương đã định hình trong quá khứ. Sự đình bản của Văn học tạp chí cũng như các tờ báo văn chương có tính cách khảo cứu cùng thời cho thấy sự dừng lại của thế hệ Nho sĩ cuối cùng trước ngưỡng cửa văn chương hiện đại.

 

 

 

Tài liệu tham khảo:
1. Bourdieu, Pierre (2018), Quy tắc của nghệ thuật - Sự sinh thành và cấu trúc của trường văn chương (Phùng Ngọc Kiên, Nguyễn Phương Ngọc dịch), NXB Tri thức.
2. Đông Thanh tạp chí, sưu tập của Thư viện Thông tin Khoa học Xã hội.
3. Phong Hóa, sưu tập số hóa (http://ndclnhmytho-usa.org/KhoChuaSachCu.htm).
4. Thiếu Sơn: “Phải quan niệm văn học như thế nào”, Phụ nữ tân văn, số 142, 14/6/1932, tr. 1.
5. Tân Thanh tạp chí, sưu tập của Thư viện Quốc gia Việt Nam.
6. Văn học tạp chí, sưu tập số hóa của Thư viện Quốc gia Pháp (https://gallica.bnf.fr/).

Chú thích:
1 Các khái niệm “quốc hồn”, “quốc túy” đã du nhập từ Hán văn vào Việt Nam từ quãng 1905-1906, nhưng khái niệm “bảo tồn quốc túy” cùng với dự án văn hóa mang tên nó thì phải nhờ đến vai trò của Nam Phong tạp chí. Theo chúng tôi Nam Phong đã lấy cảm hứng từ chủ trương của phái quốc túy ở Trung Quốc hồi cuối vãn Thanh đầu Dân quốc với cơ quan phát ngôn là tờ Quốc túy học báo (1905-1912) do Chương Thái Viêm cầm trịch.
2 Như các bài “Ảnh hưởng của Lão giáo tới thi ca nước ta”, số 5, 15/10/1932; “Văn chương và thân thế hai cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Công Trứ”, số 6, 1/11/1932.
3 Sự bám trụ của Nho giáo trong đời sống tinh thần của người Việt giai đoạn cuối thời kỳ thuộc địa có thể thấy qua chủ trương “bảo tồn Nho học” được nêu ra trong mục đích Hội Khai trí tiến đức năm 1938 (xem Khai trí tiến đức hội, Văn học ban qui tắc, 1938). Muộn hơn một chút, có thể thấy chủ trương bảo tồn Nho học, dưới những điều kiện xã hội mới, tiếp tục được tái sinh trong các tờ báo khảo cứu đầu thập niên 1940 như Tri tân, Thanh nghị.
4 Trong một bài phê bình sách “Thời hài” của Ngô Bằng Giực, ông gọi đó, theo đúng ngôn từ của nhà Nho, là thứ văn chương “có ích cho nhân tâm thế đạo” (Văn học tạp chí, số 66, 22/12/1934, bài “Một áng văn có giá trị”).
5 Thiếu Sơn: “Phải quan niệm văn học như thế nào”, Phụ nữ tân văn, số 142, 14/6/1932, tr. 1.
6 Đoàn Ánh Dương và các tác giả khác (2020), Phong Hóa thời hiện đại - Tự lực văn đoàn trong tình thế thuộc địa ở Việt Nam đầu thế kỷ 20, Tao Đàn & NXB Hội Nhà văn.
7 Có thể thấy hiện tượng bị “hút” vào Phong Hóa khi những chuẩn mực văn chương mới do tờ báo này gây dựng được số đông người đọc và người sáng tạo công nhận, thậm chí được mô phỏng, bắt chước. Ngoài hiện tượng Tân Thanh tạp chí nói trên có thể kể đến hai tờ Zân báoCùng bạn ở Sài Gòn. Cả hai tờ báo, trong các số báo giữa năm 1933, đều cố tìm cách mô phỏng nội dung và hình thức Phong Hóa. Đặc biệt trên Zân báo có thể thấy hình ảnh Xã Xệ - một biểu tượng hài hước của Phong Hóa - được sử dụng lại để tăng sức hút cho tờ báo.

Bình luận

    Chưa có bình luận