''NGƯỜI VĂN CHƯƠNG CÙNG CẢM KHÁI'': TRÍ THỨC VIỆT NAM THỜI TIỀN HIỆN ĐẠI LUẬN BÀN VỀ THƠ VĂN ĐI SỨ PHƯƠNG TÂY

Từ việc tổng thuật những ý kiến bàn luận về thơ văn đi sứ phương Tây trong các thư tịch Việt Nam thời tiền hiện đại, bài viết cho thấy sự tiếp nhận của trí thức Việt Nam cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX đối với thơ văn đi sứ phương Tây, rộng hơn là những kỳ vọng của họ trong việc thu nhận những tri thức mới về phương Tây và thế giới.

   Nửa cuối thế kỷ XIX, những chuyến đi sứ chính thức của các sứ bộ thuộc triều đình nhà Nguyễn (sau đó là chính phủ bảo hộ tại Đông Dương) sang phương Tây (đặc biệt là nước Pháp) đã được thực hiện1 vừa song song vừa tiếp nối truyền thống sứ trình lâu dài với các triều đại Trung Quốc. Một số tác phẩm văn chương đã ra đời trong những chuyến đi này, tạo nên một dòng thơ văn đi sứ phương Tây (TVĐSPT) trong văn học trung đại Việt Nam (VHTĐVN). Ngay trong giai đoạn ra đời, TVĐSPT đã được một số trí thức tại Việt Nam phê bình và bàn luận thông qua ba hình thức chính là các bài tựa bạt, các lời phê bình và các bài thơ cảm tác. Những lời bàn luận này có thể xuất hiện trực tiếp trong ấn bản, thủ bản của các tác phẩm TVĐSPT hoặc nằm trong các thi tập khác của người phê bình. Nhìn chung, những lời bàn luận đều cho thấy sự đồng điệu, niềm cảm khái chung của bậc văn nhân Việt Nam thời tiền hiện đại với các sứ thần đi sứ phương Tây (ĐSPT).

   1. Nửa thế kỷ bàn luận về thơ văn đi sứ phương Tây ở Việt Nam thời tiền hiện đại

   Ngay từ khi ra đời, các tác phẩm TVĐSPT đã được lưu truyền rộng rãi trong giới trí thức Việt Nam thời tiền hiện đại, được bình luận hoặc đề tựa trước khi tiến hành san khắc sau chuyến đi sứ vài năm. Người bình luận thường có địa vị cao và được tác giả đệ trình tác phẩm hoặc là những người có mối quan hệ thân thiết với các tác giả và được tác giả tín nhiệm gửi tác phẩm để xin góp ý, bàn luận. Cũng có khi tác phẩm TVĐSPT được các tác giả đời sau chủ động phẩm bình hoặc làm thơ cảm tác. Các thư tịch TVĐSPT bị thất tán nhiều, đến nay còn thấy những dấu vết của hoạt động bình luận như sau:

   Tác phẩm TVĐSPT được bàn luận nhiều nhất là Tây hành nhật kýTây phù thi thảo của Phạm Phú Thứ. Ngay sau khi được dâng lên triều đình, hai tập thơ văn này đã khiến vua Tự Đức “rất đỗi cảm động, làm một bài thơ viết vào cuối cuốn sách” (bài bi minh của Nguyễn Tư Giản (1823-1890))2. Phan Thanh Giản (1796-1867) – Chánh sứ của phái đoàn đi Pháp năm 1863, người đồng hành với Phạm Phú Thứ cũng có bài Độc Tây phù thi tập thư hậu (Sau khi đọc sách “Tây phù thi tập”), trong đó tỏ ý trân trọng tập thơ. Khi được đưa vào các bộ Giá Viên toàn tập và Giá Viên biệt lục để khắc in vào khoảng những năm 1890 lại có thêm nhiều trí thức bàn luận về TVĐSPT của Phạm Phú Thứ, có thể kể tới bài tựa của Nguyễn Trọng Hiệp (1834-1902) năm 1893, bài tựa của Trương Quang Đản (1833-1914) năm 1896, bài thơ Độc Giá Viên thi tập cảm tác (Cảm tác khi đọc “Giá Viên thi tập”) của Nguyễn Trọng Hiệp3, lời tổng bình của Nguyễn Phúc Miên Trinh (1820-1897), cùng bài thơ Kim Giang tướng quốc sứ Âu châu độc Giá Viên thi hữu tác tòng hữu nhân xứ kiến chi kính thư nhất luật (Tướng quốc Kim Giang đi sứ châu Âu, [sau khi] đọc Giá Viên thi tập có làm bài thơ, [ta] xem được bài thơ này ở nhà bạn, bèn kính làm một bài thơ luật) của Nguyễn Thượng Hiền (1868-1925)4.

   Sau chuyến đi sứ nước Pháp năm 1889, Nguyễn Phúc Miên Triện (1833-1905) có tập thơ Thất vạn bằng trình tập (Hành trình bảy vạn dặm), hiện không thấy còn lưu lại, chỉ còn 55 bài thơ ĐSPT được đưa vào tập thơ Ước Đình thi sao (Viện Nghiên cứu Hán Nôm; ký hiệu: A.778), không có lời đề tựa, tuy nhiên cũng được Nguyễn Phúc Miên Thẩm (1819-1870) và Miên Trinh phê bình, giám định. Các lời bình chủ yếu xoay quanh vấn đề thi cách.

   Tập Tây tra thi thảo của Nguyễn Trọng Hiệp có hai bài tựa do Miên Trinh và Nguyễn Thuật (1842-1911) viết năm 1895. Theo bài tựa của Nguyễn Thuật, Nguyễn Trọng Hiệp đã đem tặng tập thơ này cho những người cùng sở thích, lại lệnh cho các quan dưới quyền bàn luận về tác phẩm5. Năm 1900, Nguyễn Trọng Hiệp lại đem tặng tập Tây tra thi thảo cho Từ Đạm để tham khảo trên đường đi sứ nước Pháp, lệnh cho Từ Đạm tiếp tục ghi chép khi đi sứ, làm tư liệu bàn luận sau này6. Các bài thơ trong tập được Miên Trinh viết lời bình.

   Từ Đạm (1862-1936) có tập ký Lãm Tây kỷ lược. Một bản in của sách này (Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu: VHv.1784) có bài tựa của Cao Xuân Dục (1843-1923) viết năm 1905, ghi nhận những giá trị nổi bật của tập ký và nhận định khái quát về TVĐSPT trong VHTĐVN.

   Mặc dù đã có những bàn luận ngay từ năm 1863 nhưng hoạt động phê bình TVĐSPT trong VHTĐVN chỉ thực sự nở rộ từ khoảng những năm 1890. Điều này có thể xuất phát từ việc nhiều thư tịch từ 1863 đến 1889 đã bị thất tán. Tuy nhiên, sau năm 1889 cũng là khoảng thời gian đủ để hoạt động ĐSPT của triều đình nhà Nguyễn đã trở thành thông lệ và các sứ thần hoàn thiện, nhuận chính tác phẩm của mình trước khi tiến hành san khắc, lưu hành. Các trước tác được phẩm bình đều được viết bằng chữ Hán và chủ yếu là các tập thơ. Tây hành nhật ký của Phạm Phú Thứ và Lãm Tây kỷ lược của Từ Đạm là tác phẩm ký hiếm hoi nhận được nhiều sự bàn luận. Trong các hình thức luận bàn về TVĐSPT thời tiền hiện đại, việc phê bình tác phẩm được thực hiện thông qua các hình thức khá truyền thống: bài tựa là con đường phổ biến nhất, sau đó là lời bình trực tiếp trong các ấn bản. Người bình phẩm thường là quan lại cấp cao trong triều đình hoặc các hoàng thân có hiểu biết sâu sắc về văn chương, có mối quan hệ gần gũi để thấu hiểu những nội sự, tâm sự của các sứ thần trên hành trình đi Tây. Những ý kiến bàn luận của các trí thức Việt Nam thời tiền hiện đại tạo nên những hình dung đầu tiên về một dòng TVĐSPT trong VHTĐVN với những đặc trưng nhất định về nội dung và nghệ thuật.

   2. Những nội dung bàn luận về thơ văn đi sứ phương Tây thời tiền hiện đại

   2.1. Thơ văn “Tây phù” – một thể tài riêng biệt

   Ở thời tiền hiện đại, những trí thức đã bắt đầu có những hình dung khái quát về một thể tài, dòng mạch TVĐSPT trong VHTĐVN. Các bài tựa thường dùng cụm từ “Tây phù” (xuôi dòng đi Tây) để chỉ các trước tác được hình thành trên con đường ĐSPT7. Miên Thẩm trong bài tựa tập Lương Khê thi thảo đã dùng “Tây phù chư tác” (trước tác khi xuôi dòng đi Tây) để chỉ TVĐSPT của Phan Thanh Giản (phân biệt với thơ văn “Bắc sứ”): “Khảo các trước tác khi xuôi dòng đi Tây, một thiên đi sứ phương Bắc [...] phàm sau khi phụng sứ xong [đều chịu cảnh] sách nát mực nhoè, hương dư mật rớt”8. Nguyễn Thuật trong bài tựa Tây tra thi thảo cũng dùng “Tây phù chi thi” (thơ viết khi xuôi dòng đi Tây) để chỉ một nhánh của thơ sứ trình, phân biệt với thơ “Bắc hành”: “Thơ sứ trình nước ta, các trước tác của sứ thần “Bắc hành” là nhiều, đến như thơ “Tây phù” thì ngoài một quyển của ông Giá Viên họ Phạm [tức Tây phù thi thảo của Phạm Phú Thứ], hãn hữu mới có tác phẩm được lưu truyền”9. Nhận định của Nguyễn Thuật cũng đồng thời khẳng định sự hiện diện của một dòng thơ ĐSPT trong VHTĐVN. Tập Tây tra thi thảo của Nguyễn Trọng Hiệp được xếp vào cùng “một thể tài riêng biệt”10 với TVĐSPT của Phạm Phú Thứ.

   Giới trí thức Việt Nam thời tiền hiện đại vẫn giữ thói quen đặt TVĐSPT của Việt Nam trong vị thế ngang hàng với TVĐSPT của Trung Quốc. Miên Trinh mở đầu bài tựa Tây tra thi thảo đã đặt thơ “Tây phù” của Phạm Phú Thứ và Nguyễn Phúc Miên Triện sánh ngang với thơ “Tây phù” của Quách Tung Đảo (1818-1891) và Viên Tổ Chí (1827-1898) nhà Thanh: “Ta từng xem [tập thơ] của các danh nhân gần đây phụng sứ xuất dương và đi qua các nước Thái Tây, như các tập Sứ Tây kỷ trình của Thị lang Quách Quân Tiên11, Hải ngoại ngâm của Viên Tổ Chí12… đều không dưới mấy chục bộ; đến như các tập Thất vạn bằng trình tập của thân công Hoằng Hoá hiệu Ước Đình [Nguyễn Phúc Miên Triện], Tây phù tập của Thượng thư Phạm Trúc Đường [Phạm Phú Thứ]… của nước ta cũng không dưới mấy chục bộ”13.

   Nhìn về truyền thống khảo cứu địa lý ở vùng Đông Á, các trí thức Việt Nam thời tiền hiện đại tự tin rằng TVĐSPT của Việt Nam có thể bổ khuyết cho thiếu hụt trong những bộ sách kinh điển, truyền thống của Trung Quốc, giải bỏ những hình dung hư huyễn, mang tính tưởng tượng, thiếu thực chứng về thế giới mà những bộ sách này mang lại. Miên Trinh trong bài tựa Tây tra thi thảo đã tự tin khẳng định: “Năm Giáp Ngọ, Văn Minh điện Đại học sĩ Nguyễn Kim Giang [Nguyễn Trọng Hợp] tiên sinh phụng mệnh đi sứ thành phố Ba Lê [Paris] nước Đại Pháp, khi về gom góp trước tác được các bài thơ năm chữ, bảy chữ cổ thể, cận thể, gọi là Tây tra thi thảo. Trong đó, từ Ấn Độ Dương đến Tây Dương, vòng quanh Xích Đạo, qua biển Đỏ, từng đi thuyền hơi nước, đáp tàu hoả, đều là những điều Sơn hải kinh còn chưa rõ, Thập châu ký cũng không ghi [...] Thực là xử trí thế cuộc thời Đường, Tống, Nguyên, Minh chưa từng có, làm việc thời Đường, Tống, Nguyên, Minh chưa từng có, đặt chân tới cương vực thời Đường, Tống, Nguyên, Minh chưa từng có, tả cái tình cảnh thời Đường, Tống, Nguyên, Minh chưa từng có”14.

   Cao Xuân Dục trong bài tựa Lãm Tây kỷ lược cũng đồng tình: “Thuyết “Cửu châu” của Trâu Diễn15 toàn thuộc hàng hư huyễn, mà các sách Sơn hải kinh [Nguyên chú: Quách Phác], Thập châu ký [Nguyên chú: Đông Phương Sóc], Bác vật chí [Nguyên chú: Trương Hoa] phân nửa thuộc về với thuyết ảo mộng [...] Tập ký này [Lãm Tây kỷ lược] có thể bổ sung cho sự chưa đầy đủ trong ghi chép của các tác phẩm ký, chí đời Hán, đời Tấn; lưu truyền cùng các bộ ký, thơ của các sứ bộ trước”16.

   Nhìn về TVĐSPT trong VHTĐVN, những trí thức Việt Nam thời tiền hiện đại cũng nhận ra dòng chảy văn học này liên tục có sự tiếp nối và phát triển. Trước hết, TVĐSPT trong VHTĐVN tiếp nối nhau trong nỗi niềm “ưu dân ái quốc” của những bậc quan lại, trí thức, văn nhân trước thời vận gian truân của quốc gia (theo tuyên ngôn và diễn giải của họ). Phan Thanh Giản sau khi đọc tập Tây phù thi thảo đã xúc động khi thấy người đồng sự, đồng hành Phạm Phú Thứ có thể thay mình ký thác nỗi lòng qua tập thơ đi sứ: “[Ta] già rồi, lòng rối bời, không thể trước tác được/ Mây bay nước chảy dằng dặc suông mà thôi/ Mừng ông có chuyến đi xa hùng tráng mà chí chưa tận/ Ngậm bút trầm tư mà thổ lộ hết tận cùng ý tứ”17.

   Sau đó, Nguyễn Trọng Hiệp trên chuyến đi sứ nước Pháp năm 1894 lại tìm thấy sự đồng điệu với Phạm Phú Thứ. Bài thơ Độc Giá Viên thi tập cảm thành của ông đã thể hiện chung niềm cảm khái ấy: “Ai rong ruổi mặt đất rộng lớn để đo cả địa cầu/ Ba mươi năm qua trải trăm nỗi lo buồn/ Xuôi bè sứ nơi bể Nam trông sao Bắc Đẩu/ Tập thơ của ông Trúc Đường ghi việc xuôi dòng sang Tây/ Thời buổi khó khăn, người văn chương cần phải cùng cảm khái/ Tài trí mỏng manh, người làm quan nơi miếu đường thẹn [không] mưu tính được xa/ Đêm nơi quán khách, ngọn đèn sáng, giọt đồng hồ trong trẻo/ Trầm ngâm cầm quyển sách, một mình nghĩ miên man”18.

   Nguyễn Thượng Hiền sau khi đọc bài thơ trên của Nguyễn Trọng Hiệp cũng có bài thơ cảm tác ca ngợi chí lớn giúp đời cứu dân của cả hai sứ thần đi Tây: “Bình sinh chưa mất đi chí khí của Nguyên Long19/ Ngồi trong gian nhà cỏ gõ phù tiết, làm bài thơ thanh tao”20. Năm 1895, Nguyễn Thuật trong bài tựa Tây tra thi thảo lại tiếp tục thấu hiểu nỗi “đồng khái” của Nguyễn Trọng Hiệp và Phạm Phú Thứ để đi tới kết luận: “Thế nên, tìm về cái gốc của cảm xúc gửi gắm là sự dè dặt khi bước ra khỏi biên cương, sự khảng khái cần có chất chứa trong lòng buổi gian nan, tất thảy đều là tấm lòng thành ưu dân ái quốc sâu sắc của bậc đại thần, xưa nay là một”21.

   Mặt khác, các trí thức Việt Nam thời tiền hiện đại cũng nhận thấy TVĐSPT trong VHTĐVN ngày một phát triển về cả nội dung và nghệ thuật. Nhận xét về thi pháp thơ ĐSPT, Miên Trinh trong bài tựa tập Tây tra thi thảo cho rằng tập thơ ĐSPT của Phạm Phú Thứ và Nguyễn Phúc Miên Triện vẫn khiến Miên Trinh “cảm thấy còn nhiều phần nuối tiếc”22, còn thơ của Nguyễn Trọng Hiệp thì “trước tác đẹp đẽ thay, sâu sắc thay, từ nay về sau ta có thể không nuối tiếc rồi”23.

   Về ký ĐSPT, Cao Xuân Dục cũng nhìn nhận Lãm Tây kỷ lược của Từ Đạm tiếp nối truyền thống ghi chép của những phái bộ đi Tây trước năm 1900 nhưng tập trung hơn vào nội dung của cuộc đấu xảo tại Pháp (1900), do đó vừa hô ứng với những trước tác của các sứ bộ tiền nhiệm vừa hoàn thiện thêm ký ức của những sứ thần người Việt Nam (bao gồm cả sứ thần nhà Nguyễn và chính quyền bảo hộ) ở phương Tây: “Quốc triều từ khi qua lại quy thuận Đại Pháp đến nay, lệnh hoàng hoa24 đã được bốn năm lần: khoảng niên hiệu Tự Đức [Nguyên chú: Năm thứ 16 [1863]] - ông Hiệp biện Phan Lương Khê [Phan Thanh Giản], ông Phạm Trúc Đường và ông Thượng thư Nguỵ Hương Phong [Nguỵ Khắc Đản]; năm thứ 2 niên hiệu Đồng Khánh [1886]25 – ông thân phiên Ước Đình, ông Tổng đốc Vũ Vĩnh Phong [Vũ Văn Báo]; năm thứ 6 niên hiệu Thành Thái [1894] – ông cố Tể tướng Nguyễn Kim Giang [Nguyễn Trọng Hợp] nhận mệnh ra khỏi biên cảnh [để đi sứ], phàm những nơi được duyệt lãm hoặc có ghi chép lại, hoặc viết vào trong thơ, nhưng đều xuất phát từ nhiệm vụ xem xét [thượng quốc], chứ không phải chỉ vì chuyến đấu xảo mà làm. Những gì thấy lạ thì ghi chép là lạ, mức độ chi tiết hay vắn tắt không giống nhau, mà điều cốt yếu trong đó cũng là các chuyện khi đến thì tri thức hư rỗng, lúc về thì tri thức đủ đầy26. Cúc Nhân thì lại nhân hội đấu xảo mà xem xét rộng khắp, càng có thể hưng khởi qua lại với thơ văn của những người đi trước”27.

   Nhìn chung, những bàn luận của trí thức Việt Nam thời tiền hiện đại đã cho thấy sự công nhận đối với dòng thơ văn “Tây phù” trong VHTĐVN. Xuất hiện trong thời gian không dài, với số lượng tác phẩm không quá đông đảo so với một truyền thống thơ văn Bắc sứ bề thế nhưng TVĐSPT trong VHTĐVN đã được nhìn nhận trong sự phát triển, với những kỳ vọng sánh ngang với TVĐSPT của Trung Quốc và bổ khuyết những thiếu hụt trong các sách ghi chép, khảo cứu kinh điển của Trung Quốc trước đây.

   2.2. “Sĩ phu ghi chép chuyện thiên hạ” – giá trị cơ bản của thơ văn đi sứ phương Tây

   Một đặc trưng nổi bật trong nội dung của TVĐSPT được giới trí thức Việt Nam thời tiền hiện đại chú ý chính là khả năng ghi chép những quan sát, trải nghiệm mới mẻ trên hành trình đi sứ, từ đó mở rộng hình dung về “thiên hạ”. Xu hướng thơ văn Việt Nam thời hậu kỳ trung đại đã giảm bớt tính tượng trưng, ước lệ, “ngôn chí”, “tải đạo” và chú trọng việc ghi chép “kiến văn”, khảo cứu thực tế. Dưới triều Nguyễn, trước tác khi đi sứ nói chung được triều đình yêu cầu phải bao quát sự trạng của những vùng đất phái bộ đi qua và ghi chép thật tỉ mỉ, phong phú. Chủ trương này đã được vua Minh Mệnh nhấn mạnh từ năm 1832 và được Đại Nam thực lục ghi lại: “Vậy sắc cho bộ Lễ từ nay, hễ tới kỳ đi sứ, nên truyền chỉ cho sứ thần: hỏi han dân tình được sung sướng hay bị đau khổ, trong nước có tai biến hay có điềm lành, ghi chép rõ ràng, còn tên đất và số dặm đường đã có sách chép có thể khảo cứu được, chẳng cần phải nói chi rườm nữa”28.

   Là một bộ phận của thơ văn đi sứ trong VHVNTĐ, nảy nở vào những thập kỷ cuối cùng của thời kỳ trung đại, TVĐSPT cũng được xem xét thông qua khả năng ghi chép hiện thực rộng lớn, ở cả văn xuôi và thơ ca. Nguyễn Trọng Hiệp trong bài tựa Giá Viên thi văn toàn tập ca ngợi Phạm Phú Thứ vì đã đưa được vào TVĐSPT của mình những quan sát về hoàn cầu rộng lớn: “Phía đông sang Quảng Đông, phía Tây sang châu Âu, lặn lội hàng mấy vạn dặm, gió trời, sóng biển bao la, đô to, ấp lớn hùng tráng, nhìn hoàn cầu rộng lớn, thấy phong hội ngày một mới thêm, ông đã tả lại trong những bài văn bài thơ, khảng khái qua lời nói không chỉ để bàn suông như người xưa”29.

   Nguyễn Thuật khi bình luận về tập Tây tra thi thảo cũng đề cao những bài thơ có thể “dùng ca ngâm để thay cho việc ghi chép, tường thuật”: “Xưa, người ta lên đồi cao, nhìn xuống biển lớn đã thấy thật nhỏ bé thay. Đến như được lên cao trông xuống, quan sát dấu xưa xe ngựa mà ngâm vịnh về chốn danh đô, phàm núi sông, thành quách, cung điện, chợ búa, vườn rừng, thắng địa, kỳ quan và những chốn kỳ vẻ lạ đều được tận mắt trông thấy, bèn cầm bút kể lại câu chuyện, mà khi bàn luận hãy còn ăm ắp phong vị. Du lãm mà gửi gắm lời hỏi han, bàn bạc; ca ngâm để thay cho việc ghi chép, tường thuật, xem ra [tập Tây tra thi thảo này] cùng thi lục của Giá Viên tạo thành một thể tài riêng biệt”30.

   Tương tự, Cao Xuân Dục cũng coi khả năng “ghi chép việc thiên hạ” là một điểm sáng quan trọng của Lãm Tây kỷ lược, đồng thời đặc biệt nhấn mạnh tới “những cái lạ lùng” nơi vùng đất mới: “Nay xem được trong sách này ghi lại những cái lạ lùng của núi non, biển cả, thành quách, lầu quán, cơ khí; những cái lạ lùng của điêu khắc, thêu thùa, hội hoạ, nông nghiệp, công nghiệp, thương mại; hay là những cái lạ lùng của trường học dành cho người mù, người câm, cả những điều lạ lùng hơn nữa [...] Ông đem việc hôm nay truyền bá cho ngày mai, ký thác hết lòng dạ, trong đó có hành trình đi sứ xa xôi, đằng đẵng, không phải chỉ những điều kỳ lạ được bài trí trong cuộc đấu xảo, dẫn dắt người đọc bước vào tất thảy muôn hình vạn trạng. Đọc lại cuốn sách này, giống như vượt qua muôn trùng biển khơi, xem hết ghi chép phong thổ của năm châu lục lớn. Núi ngọc vực châu, kỹ nghệ của trời, tài khéo của người, như một bức tranh lớn được vẽ ra. Không cần phải tụng một bộ tân sử lớn mà sau đó mắt vẫn sáng rõ, thông suốt”31.

   Nhược điểm duy nhất của Lãm Tây kỷ lược được Cao Xuân Dục nhắc tới trong bài tựa cũng chính là tính vắn tắt của những ghi chép do Từ Đạm phải “đi lại trong thời gian gấp gáp”32. Tuy nhiên, nhược điểm này cũng đã được Cao Xuân Dục giải trình khéo léo: “Ôi, sự tích đại khái mà kiến văn phong phú, trước thuật ít mà tác dụng nhiều, như ánh sáng của tam viên và nhị thập bát tú33 đều chụm thành một khối, dòng nước của trăm sông muôn ngòi đều đổ về một bể. Giữa bể rộng sách vở tri thức, cuốn sách này cũng không phải là nông cạn thiếu sót lắm đâu”34.

   Yêu cầu về những thông tin mới lạ trong TVĐSPT không chỉ xuất phát từ xu hướng chung của văn chương sứ trình và văn học cuối thế kỷ XIX mà còn đến từ nhiệm vụ “làm cho dân được mới” (tân dân) của bậc “sĩ phu thiên hạ” trong thời buổi “phong hội ngày một mở ra”. Phan Thanh Giản trong bài thơ cảm tác sau khi đọc tập Tây phù thi thảo của Phạm Phú Thứ đã chiêm nghiệm: “Vũ trụ như thế này không phải chỉ có một/ Nếu cứ cố chấp lấy tầm nhìn nơi gò đất thì sao thấy được sự dài rộng [của đất trời]”35. Cao Xuân Dục trong bài tựa Lãm Tây kỷ lược cũng phát ngôn trực tiếp về điều này: “Trâu truyện36 có nói: Sĩ phu một nước làm bạn với sĩ phu một nước, sĩ phu thiên hạ làm bạn với sĩ phu thiên hạ. Tân sử có nói: Sĩ phu một nước ghi chép việc của một nước, sĩ phu thiên hạ ghi chép việc của thiên hạ. Sách của quan nhân [ý nói Từ Đạm] chính hợp với lời nói trên. Có lẽ, người bác cổ thông kim, tự gánh trách nhiệm là sĩ phu của thiên hạ nên mới đeo đuổi vào chỗ ấy. Chứ khư khư cái cũ, cái nhỏ của thiên hạ thì đúng là hủ lậu vậy. Huống chi nay phong hội ngày một mở ra, văn minh ngày một tấn tới, việc giao lưu ngày một thêm thịnh vượng tốt đẹp, việc thư tín thì công cụ không coi trọng tìm tới cái cũ mà phải mưu tính cái mới. Lại nói tới việc làm mới dân, chính là thời nay đây. Cho nên phàm những cảnh chân chưa đặt tới, mắt chưa xem qua, mà lại được một lần đi qua, không biên chép lại thì không được”37.

   Theo Cao Xuân Dục, TVĐSPT phải lấy mục tiêu cải tạo thực tiễn làm đầu, không phải bằng đạo lý giáo điều mà từ trải nghiệm thực tế, hướng tới phá bỏ những tri thức lỗi thời đã chi phối xã hội qua hàng thế kỷ: “Cho nên cần phải đích thân cưỡi chiếc bè Đẩu Ngưu chín vạn dặm mà sau đó mới có thể phá bỏ lối hẹp trong mấy học thuyết của bách gia, khiến cho những kẻ ôm cây [Nguyên chú: Truyện Ôm cây đợi thỏ - Hàn Phi Tử: Ở nước Tống có người nông dân, trên cánh đồng cái cây. Một con thỏ đâm vào cây mà chết. Người nông dân nhân đó buông cày, ôm cây chờ việc đó xảy ra lần nữa để được thỏ. Cho nên bị người nước Tống chê cười] bám cột dịch chuyển vết bánh xe, thay thế dây đàn, không chấp vào cái nhìn bế quan bảo thủ nữa. Phải chăng Cúc Nhân [Từ Đạm] có lẽ cũng hiểu sâu việc ấy, nên viết thành tập ký này đấy ư? [...] Ngày sau có người tiếp bước Cúc Nhân du hành hải ngoại, kế tục và hoàn thành đầu mối chí hướng của Cúc Nhân, tưởng cũng không phải không có người. Mà quan sát từ đây thì Cúc Nhân thật không phụ sứ mệnh này, nghĩa là phụ khoa danh, là trang tuấn kiệt hiểu được thời cuộc”38.

   Nhìn từ góc độ này, niềm tự hào về TVĐSPT của Việt Nam có thể bổ khuyết các cuốn khảo cứu kinh điển của Trung Quốc không đơn thuần xuất phát từ thái độ “bất tốn Hoa Hạ” mà còn đến từ mong muốn vượt qua chính tầm nhìn, tri thức ăn sâu bám rễ trong những thế hệ trí thức, tinh hoa Đông Á để thấy một hoàn cầu rộng lớn hơn.

   2.3. “Văn chương đẹp đẽ” - những bàn luận về nghệ thuật của thơ văn đi sứ phương Tây

   Vấn đề nghệ thuật của TVĐSPT cũng được các trí thức Việt Nam thời tiền hiện đại bàn luận, tuy nhiên còn khá tản mạn, nhiều khi mang tính thù tạc, xã giao. Một quan điểm được nhiều người đồng thuận là cảm hứng, phong điệu của TVĐSPT được nuôi dưỡng từ những điều kiện tự nhiên trong những cuộc viễn du. Bài tựa Giá Viên toàn tập của Trương Quang Đản nhấn mạnh trợ lực của núi sông đối với tính tình, phong cách thơ Phạm Phú Thứ: “Huống nữa Quảng Đông, Tây Âu, đường trường vạn dặm, sóng gió làm mạnh tấm lòng, cõi doanh hoàn khiến mở to con mắt, đến những năm cuối đời, được sự giúp nhiều của sông núi, tính tình càng nồng nhiệt, phong cách càng gần gũi, hiện rõ trong các bài văn phóng túng, mạnh mẽ, vượt ngoài ý nghĩ của mọi người”39.

   Nguyễn Thuật cũng cho rằng hải trình xa xôi đã giúp Nguyễn Trọng Hiệp “cảm vật khởi hứng”, trước tác nên Tây tra thi thảo: “Nay ông [Nguyễn Trọng Hiệp] đã lặn lội trùng dương xa xôi, ngày qua tháng lại chóng vánh, mới có thể cảm vật khởi hứng, mở lòng nhấc bút, ngắm mặt trời mới mọc ở phương Đông, cưỡi sóng cả trên hải trình rong ruổi sang Tây. Các bài ngũ ngôn, thất ngôn theo lối cổ đều mượn cái uy thế tận cùng của sóng cả mênh mông mà hứng thơ hội tụ, nhờ gió dữ cất lên mà ký thác sâu xa”40.

   Cùng được gợi hứng từ chuyến ĐSPT, song mỗi sứ thần lại theo đuổi một bút pháp riêng, cố nhiên không vượt ra ngoài khung khổ văn luận, thi luận truyền thống. Các trí thức Việt Nam thời tiền hiện đại ghi nhận điều này và đôi khi lại tiếp tục bình phẩm dựa trên quan niệm thơ văn của họ. Tuy nhiên, những lời bình về cơ bản vẫn dành sự ưu ái nhất định cho tác giả tập thơ văn được bình luận, đồng thời cũng chịu sự chi phối bởi mối quan hệ giữa người bình luận và người được bình luận. Phạm Phú Thứ là người tán đồng thuyết “tính linh”41 và thể hiện điều đó xuyên suốt trong thơ, bao gồm cả Tây phù thi thảo. Miên Trinh nhận ra điều đó: “Thơ văn tiên sinh Giá Viên họ Phạm ung dung thư thả, tự tả lấy tính tình của mình, tuy chưa từng mô phỏng [thơ] đời Đường, đời Tống mà vòi vọi như ráng mây không chút trần tục, xem tác phẩm mà biết được phẩm chất thanh cao” (Miên Trinh)42, nhưng vốn là người chủ trương thuyết “cách điệu”, “thần vận” nên những lời nhận xét trên có lẽ phần nhiều mang tính thù tạc. Một số bài thơ ĐSPT của Miên Triện cũng được Miên Trinh ngợi khen với thái độ chừng mực như “có thể xem là hoàn thiện”43 hoặc “dùng điển tinh tế, sắc sảo đến mức lão luyện”44. Tuy nhiên, đến bài tựa Tây tra thi thảo, Miên Trinh đã thẳng thắn phê bình thơ ĐSPT của Miên Triện cố học theo phong cách cao thượng nhưng chưa tinh tế ở sự tình, còn thơ của Phạm Phú Thứ lại miêu tả quá chân thật nên chưa tinh tế ở lời lẽ: “Tuy văn chương đẹp đẽ, có thể đọc lên sang sảng, mà cảm thấy vẫn nhiều phần tiếc nuối, đại để là quy mô cao cách thì vu khoát về sự tình; miêu tả chi li thì lại rơi vào lời lẽ quê kệch…; muốn những lời lẽ ấy truy xa được triết lý xưa để mà tỏ rõ và truyền rộng trong vườn văn, vốn biết là khó lắm thay!”45.

   Chỉ có tập Tây tra thi thảo của Nguyễn Trọng Hiệp được Miên Trinh đánh giá là theo kịp “các đại gia như Lý, Đỗ, Vương, Mạnh đời Đường; Tô, Hoàng, Phạm, Trương đời Tống; Tiền hậu Thất Tử đời Minh [những người chủ trương thuyết “cách điệu” hoặc “thần vận”]” bởi sử dụng “câu từ đẹp đẽ, không gì không phù hợp”46. Một số bài thơ trong tập cũng được Miên Trinh dành thêm lời ngợi ca: “Sự khảng khái lâm li tràn đầy trong ngôn ngữ”47, hay: “Qua lại bồi hồi/ Trung thành hết mực/ Hai chữ trang nhã/ Chưa đủ nói hết”48. Có thể thấy ở Miên Trinh sự quan tâm đặc biệt đối với vấn đề “cách điệu” trong thơ ĐSPT, giống với quan điểm của ông về thơ nói chung49. Ngoài ra, sự ưu ái của Miên Trinh dành cho tập thơ của Nguyễn Trọng Hiệp cũng có thể đến từ sự trân trọng của ông với chính Tây tra thi thảo hoặc bởi sự kiêng nể nhất định dành cho một bậc đại thần đương nhiệm trong triều.

   Đối với tác phẩm ký, nhận định về ngôn ngữ lại theo một chiều hướng khác. Cao Xuân Dục khi bình luận Lãm Tây kỷ lược của Từ Đạm quan tâm tới sự giản dị của ngôn từ: “Lời văn ngắn gọn mà lưu loát, mộc mạc mà đẹp đẽ, gần gũi mà không hư hão”50. Như vậy, không phải sự cầu kỳ mà sự chân thực của lời văn mới là phẩm chất được Cao Xuân Dục đề cao. Điều này có thể đến từ quan điểm “quý chân” của riêng Cao Xuân Dục hoặc từ đặc trưng riêng biệt của thể ký vốn thiên về ghi chép khách quan, không trọng văn chương mĩ miều.

   So với những bình luận về nội dung, những ý kiến của trí thức Việt Nam thời tiền hiện đại về nghệ thuật của TVĐSPT dù ít nhiều có sự đa dạng về khuynh hướng thẩm bình nhưng vẫn còn khá hạn chế về số lượng và dung lượng, chưa tạo ra được những quan điểm thật sự rõ ràng, nhất quán và cũng chưa có những thay đổi đáng kể so với các quan niệm truyền thống. Các tác phẩm thơ được bàn luận nhiều hơn tác phẩm văn xuôi nhờ bề dày của các tư tưởng thi học. Tình hình này sẽ được cải thiện hơn khi TVĐSPT được quan tâm phê bình ở thời hiện đại.

   3. Kết luận

   Thông qua những thư tịch được khảo sát, có thể thấy các tác phẩm TVĐSPT đã được lưu truyền sâu rộng trong giới trí thức Việt Nam thời tiền hiện đại. Những tư liệu hiện tồn trên đây có thể mới chỉ là một phần của thực tiễn hoạt động phê bình TVĐSPT của họ nhưng cũng đã cho thấy những bàn luận, trao đổi khá sôi nổi qua nhiều hình thức phong phú. Những bài tựa, lời bình, lời luận giúp mở ra hình dung ban đầu của một số trí thức Việt Nam thời tiền hiện đại về các tác phẩm TVĐSPT, đồng thời giúp hoàn thiện và thúc đẩy việc in ấn, truyền bá những tác phẩm thuộc thể tài này. Trong khi đó, những bài thơ cảm tác tái tạo nên những tác phẩm mới, nối dài dòng mạch TVĐSPT trong VHTĐVN. Nhìn chung, thơ văn “Tây phù” đã được công nhận như một thể tài riêng biệt, với diễn trình phát triển, đặc điểm về nội dung và nghệ thuật tương đối đặc thù. Trong đó, những thông tin chi tiết, mới lạ về phương Tây và thế giới trong các tác phẩm này là giá trị được giới trí thức Việt Nam thời tiền hiện đại đặc biệt coi trọng và tiếp nhận với thái độ cởi mở, tích cực. Những tâm sự, trăn trở của sứ thần trong những chuyến ĐSPT cũng được những người bình luận đồng điệu, sẻ chia. Những đổi thay của lịch sử khiến nhiều tác phẩm TVĐSPT chưa được biết đến rộng rãi ở thời hiện đại hoặc được đánh giá theo những tiêu chuẩn khác. Tuy nhiên, những bình luận của giới trí thức Việt Nam thời tiền hiện đại về TVĐSPT vẫn nên được người hiện đại tham khảo để có cái nhìn xác đáng, đa chiều hơn về bộ phận văn học này.

 

 

 

Chú thích:
* Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
1 Tính đến năm 1900, đã có 5 chuyến ĐSPT chính thức của các sứ thần Việt Nam được thực hiện vào các năm 1863, 1877, 1889, 1894, 1900.
2, 29, 39 Phạm Ngô Minh (Chủ biên, 2014), Phạm Phú Thứ toàn tập, NXB Đà Nẵng, tr. 139, 131, 133.
3 Bài thơ này vốn nằm trong tập Tây tra thi thảo của Nguyễn Trọng Hiệp, ghi tên là Độc Giá Viên thi tập cảm thành. Xem: Nguyễn Trọng Hiệp, Tây tra thi thảo, Ấn Thư đường, 1894, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu: VHv.1411, tờ 33b.
4, 17, 20, 35, 42 Phạm Phú Thứ, Giá Viên toàn tập, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu: VHv. 8/2, tờ 16-18, 16b-17a, 18b, 16b, 17a-b.
5, 9, 10, 13, 14, 18, 21, 22, 23, 30, 32, 40, 45, 46, 47, 48 Nguyễn Trọng Hiệp, Tây tra thi thảo, Tlđd, tờ 4a-b, 4a, 5a, 1a, 1b-2a, 33b, 5a, 1b, 2a, 4b, 3b, 4b, 1b, 1a-2b, 8b, 9b.
6, 16, 27, 31, 34, 37, 38, 50 Từ Đạm, Lãm Tây kỷ lược, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu: VHv.1784; tờ 4a, 3b-4a, 1b-2a, 3b, 1a, 4a-b, 2a.
7 Nếu xét cách đặt nhan đề tác phẩm, cố nhiên sẽ có nhiều cách diễn đạt đa dạng hơn. Tuy nhiên, những bài tựa chúng tôi khảo sát được đều sử dụng cụm “Tây phù”, có lẽ do ảnh hưởng bởi cách đặt tên tập thơ của Phạm Phú Thứ.
8 Phan Thanh Giản, Lương Khê thi văn thảo, năm Bính Tý niên hiệu Tự Đức (1876), Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu: A.2125.
11 Thị lang Quách Quân Tiên: Tức Quách Tung Đảo, hiệu Quân Tiên, sứ thần nhà Thanh đi sứ các nước Anh, Pháp, có tập Sứ Tây kỷ trình (1890).
12 Viên Tổ Chí: Cháu của nhà thơ Viên Mai đời Thanh, là một nhà thơ tiếng tăm. Năm 1883, ông cùng với Bộ trưởng Thương cục Đường Đình Xu (1832-1892) vượt biển đến nhiều nước phương Tây, có tập Hải ngoại ngâm.
15 Thuyết “Cửu châu” của Trâu Diễn: Một học thuyết về địa lý của Trâu Diễn (305-240 TCN) người Chiến Quốc, cho rằng thiên hạ được chia thành 9 châu, hợp thành “Xích huyện thần châu”. Tên gọi này sau đó cũng được dùng để chỉ Trung Quốc.
19 Nguyên Long: Tên tự của Trần Đăng thời Tam Quốc, có chí lớn, khi làm quan nổi tiếng hết lòng vì dân chúng.
24 Hoàng hoa: Xuất phát từ bài thơ Hoàng hoàng giả hoa (Đoá hoa rực rỡ) trong Kinh Thi viết về người chinh phu tung hoành khắp nơi để tìm hiểu thiên hạ. Sau này, từ “hoàng hoa” được dùng để chỉ việc đi sứ.
25 Thông tin này có nhầm lẫn. Chuyến đi sứ của Nguyễn Phúc Miên Triện diễn ra vào năm 1889.
26 Nguyên văn: “Hư vãng thực quy”, xuất phát từ thiên Đức sung phù trong Trang Tử, nói về người tên Vương Đài nước Lỗ, vốn cụt chân, làm nghề dạy học, khi đứng thì không dạy gì, lúc ngồi cũng không nghị luận việc gì, ấy vậy mà người học đến thì không có tri thức, lúc về thấy mình đã có đầy đủ tri thức.
28 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (Tổ phiên dịch Viện Sử học, 2006), tập ba, NXB Giáo dục, tr. 303.
33 Tam viên và nhị thập bát tú: Theo thiên văn cổ Trung Quốc, bầu trời được phân thành
31 khu vực với các vì sao tương ứng, gồm Tam viên (bao quanh cực Bắc và sao Bắc Đẩu: Tử vi viên, Thái vi viên, Thiên thị viên) và Nhị thập bát tú. Đây chỉ bầu trời.
36 Trâu truyện: Có lẽ chỉ Trâu thị truyện thời Xuân Thu.
41 Trong Thi thảo chuyết ngữ, Phạm Phú Thứ nhận định: “Thơ dạy cho ta thêm tầm rộng lớn. Chủ yếu của nó là diễn tả, in đúc tính tình đến được với sự ngay chính”. Ông cũng tán đồng quan điểm làm thơ theo thuyết tính linh của Bùi Văn Dị. Xem: Phạm Ngô Minh (2013), Phạm Phú Thứ toàn tập, Tlđd, tr. 155-156; Bùi Văn Dị, “Bài tựa Tốn Am thi sao” trong Nguyễn Thanh Tùng (tuyển chọn và giới thiệu, 2016), Tuyển tập thi luận Việt Nam thời trung đại (thế kỷ X – XIX), NXB Đại học Sư phạm, tr. 255.
43, 44 Nguyễn Phúc Miên Triện, Ước Đình thi sao, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu: A.778, tờ 1b, 4b.
49 Nguyễn Thanh Tùng (2010), Sự phát triển tư tưởng thi học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

Bình luận

    Chưa có bình luận