TỪ PHIM ''MAI'' CỦA TRẤN THÀNH ''ĐÀO, PHỞ VÀ PIANO'' CỦA PHI TIẾN SƠN THỬ LÝ GIẢI VỀ SỨC HÚT KHÁN GIẢ VÀ DOANH THU PHÒNG VÉ

TỪ PHIM ''MAI'' CỦA TRẤN THÀNH ''ĐÀO, PHỞ VÀ PIANO'' CỦA PHI TIẾN SƠN TBài viết khái quát nội dung, ý nghĩa của phim Mai và phim Đào, phở và piano, đồng thời phân tích những thành công và một vài hạn chế của mỗi phim, lý giải sự thu hút khán giả của hai bộ phim này.Ử LÝ GIẢI VỀ SỨC HÚT KHÁN GIẢ VÀ DOANH THU PHÒNG VÉ

   1. Phim Mai của Trấn Thành

   Câu chuyện phim xoay quanh cuộc đời một cô gái tên là Mai (Phương Anh Đào đóng), 37 tuổi, làm nghề massage. Cô có quá khứ đau khổ: một ông bố cờ bạc từng bán cô lúc trẻ; cô bị cưỡng bức; là mẹ đơn thân... Dù cuộc sống mưu sinh của Mai rất vất vả, cay đắng và tủi nhục nhưng thỉnh thoảng ông bố vẫn đến xin tiền của Mai với đủ những lý do khác nhau... Cô dọn đến ở khu chung cư cũ kỹ; bị hầu hết cư dân ở đây khinh bỉ, coi thường nhưng cô đều nhẫn nhịn.

   Hàng xóm có anh Sâu – tên thật là Dương (Tuấn Trần đóng) thích cô. Anh này mới 30 tuổi. Sâu luôn bênh vực, giúp đỡ Mai, rồi tán tỉnh cô. Một lần tình cờ Dương trở thành khách hàng của Mai. Vẻ lạnh lùng của Mai là sức hút đối với Dương. Sau những bất hạnh, khổ đau, Mai không tin mình sẽ có hạnh phúc. Nhưng rồi cô cũng yêu Dương.

   Ở tiệm massage, Mai chỉ làm nghề chứ không “đi khách”. Cô được nhiều khách quý thì bị đồng nghiệp ghen ghét... khiến cô mang đủ các thứ khổ. Mẹ Dương thương Mai nhưng không thể chấp nhận Mai là con dâu nên ra sức nói xấu Dương với Mai để cô bỏ Dương. Thậm chí bà “thiết kế” một cuộc trao đổi (làm hồ sơ cho con của Mai đi học ở Thụy Sỹ với điều kiện cô phải bỏ Dương) nhưng Mai không đồng ý (trả lại tập hồ sơ, kéo con gái đi về).

   Sau bốn năm “chạy trốn tình yêu”, tình cờ Mai gặp Dương ở Đà Lạt. Lúc này, Mai đã thành một bà chủ. Dù cô vợ Dương tế nhị dìu mẹ chồng đi trước để Dương và Mai trò chuyện nhưng họ chỉ hỏi thăm nhau vài ba câu. Dương hỏi thăm chuyện gia đình của Mai, Mai nói cô có người rồi và chỉ ra ô tô đang đỗ ở phía trước. Lúc chia tay, cô còn nói một câu: “Cảm ơn anh vì đã không chờ em”. Cô vào xe ngồi ở ghế phụ khóc thầm. Câu nói cảm ơn của Mai nói với Dương thật cay đắng, nghe vừa mỉa mai vừa là sự thật. Nếu Dương có chờ thì chuyện của họ cũng sẽ chẳng đi tới đâu. Mà Dương chờ thì Mai vốn yêu Dương thực lòng sẽ thấy ân hận và buồn theo anh ta. Dương không chờ là nỗi đau của Mai vì cô yêu Dương thật lòng sau những đau khổ Mai đã chịu trước lúc yêu Dương. Mai là cô gái chân thành, giàu nghị lực sống, vượt qua mọi đau khổ, tủi nhục. Nhân vật Mai được xây dựng bằng những đức tính tốt rất đời thường của người phụ nữ (chăm chỉ, nhẫn nhịn, chịu đựng, chân thành, trách nhiệm và yêu thương...) nên dễ chiếm được cảm tình của người xem. Nhân vật người mẹ dù yêu thương, cảm thông, chia sẻ với Mai nhưng vẫn không vượt qua định kiến của xã hội nên không cho con trai yêu và lấy Mai cũng là thái độ dễ hiểu, nhất là khi nhà bà ta giàu có thì càng không thể chấp nhận nàng dâu làm công việc bị xã hội cho là thấp hèn. Suy nghĩ và cách ứng xử của bà sẽ có người đồng tình và cảm thông.

   So với các phim khác của Trấn Thành, các nhân vật của phim Mai có cá tính rõ ràng. Nhân vật chính mang nhiều chất bi kịch (khác hẳn hai phim trước là Bố già Nhà bà Nữ thường được chen những đoạn gây cười, nhiều khi nhạt nhẽo). Mai gây xúc động cho người xem vì nỗi khổ chồng chất cùng nghị lực sống và sự chân thành của cô. Cô còn là nạn nhân của định kiến xã hội. Câu chuyện về cuộc đời Mai như thế là khá hấp dẫn. Nỗi đau khổ đeo bám cô dễ làm khán giả mủi lòng. Diễn viên Phương Anh Đào diễn tốt, biểu hiện được nội tâm nhân vật... Đó là điều cơ bản hấp dẫn khán giả.

   Phim Mai cũng ít chi tiết rườm rà như hai phim trước của Trấn Thành mà vẫn làm hiện lên những vấn đề cuộc sống quanh ta, gần gũi với người xem. Mai cũng được chờ đón từ lúc chưa ra rạp có lẽ một phần nào đó do là phim của Trấn Thành. Cái tên “Trấn Thành” cùng với thành công phòng vé ở hai phim trước cũng khiến khán giả muốn khám phá phim này của anh. Có thể coi những yếu tố đó đã hút khán giả đến rạp để phim đạt đỉnh trên 500 tỉ đồng doanh thu phòng vé (cao nhất từ trước đến nay). Công bằng mà nói thì Mai của Trấn Thành thành công về điện ảnh hơn hai phim trước của anh - phim Bố già Nhà bà Nữ - cả về ý nghĩa của phim lẫn tay nghề.

   2. Phim Đào, phở và piano của Phi Tiến Sơn

   Chuyện phim Đào, phở và piano diễn ra trong ngày cuối cùng của cuộc chiến đấu trong nội thành Hà Nội trước khi quân ta rút ra vùng tự do (năm 1947) trong kháng chiến chống Pháp. Bối cảnh phim có cảnh chiến đấu ác liệt, có chiến lũy, những ngôi nhà bị bom đạn... chỉ còn một nhóm người ở lại, chủ yếu là tự vệ thành, hầu như không có dân thường.

   Phim không có cốt truyện, không có nhân vật trung tâm, chỉ có hai nhân vật tạm coi là nhân vật chính là Dân – tự vệ thành và cô người yêu tên là Thục Hương. Dân đang chiến đấu cùng đồng đội. Thục Hương đã đi tản cư cùng gia đình nhưng bị lạc, quay về nhà để lấy cây đàn piano. Trong phim còn có cặp vợ chồng ông hàng phở đang nấu nồi phở thật chuẩn cuối cùng trước khi rời Hà Nội; có cậu bé đánh giày vẫn hỏi người để đánh giày, cũng ở nơi bom đạn (nhân vật này gợi nhớ đến Gavrotte trong tác phẩm của V. Hugo). Còn nữa, trong phim có một ông phán lúc nào cũng mặc complet trắng, cravatte đàng hoàng, giữa bom đạn mà vẫn mời về nhà một nhóm ả đào hát; một ông họa sĩ già, tóc dài đến gáy, vẫn lúi húi vẽ tranh; một ông cha xứ vẫn tại vị ở nhà thờ.

   Một số cảnh mở đầu với bối cảnh tiếng súng, lựu đạn cũng đã thể hiện được không khí của chiến tranh. Thỉnh thoảng có tiếng súng, tự vệ hi sinh, Tây chết... Tự vệ Dân làm mất một quả lựu đạn, bị phê bình. Anh xin phép đến chỗ anh biết có nhiều lựu đạn để lấy về chuộc lỗi. Khi anh trở về với “rổ lựu đạn”, mang theo một cành đào cho đồng đội thưởng thức, cho dù khi đó mấy ai có thì giờ mà thưởng thức. Chiếc piano sau khi được cô Thục Hương chơi cho các chiến sĩ nghe một bản nhạc cổ điển, được các anh ròng dây đưa xuống nhưng bị bắn vỡ. Trong hoàn cảnh kháng chiến ở Hà Nội, đã có lúc Thục Hương rủ Dân ra đi tìm nơi bình yên nhưng vì yêu nước, Dân không nghe. Trong phim có hình ảnh lãng mạn của đám cưới giữa Dân và Thục Hương. Cô đã mời được cha xứ đến làm lễ cưới, Dân diện complet, cravatte ông phán cho mượn. Cảnh này với ý nghĩa là cuộc sống vẫn tiếp diễn giữa đạn bom. Ông họa sĩ lấy mực màu đỏ của mình vẽ ra giấy những lá quốc kỳ phủ lên thi thể các chiến sĩ hi sinh. Khi trở về, cả đơn vị đã rút, Dân có quả bom ba càng, chưa kịp đánh xe tăng địch thì anh đã hi sinh. Thục Hương trong bộ áo dài, quần trắng, cầm bom ba càng lao vào xe địch, xe nổ, cô hi sinh. Hình ảnh này được quay đẹp và mang ý tưởng đẹp. Cậu bé đánh giày luôn mơ một bát phở ngon nóng hổi, đã đi tìm hành thơm cho ông hàng phở nhưng chưa kịp ăn đã trúng đạn chết. Ông linh mục có được một câu thoại đắt giá. Khi nghe ông họa sĩ trả lời “không vẽ vì chỉ có ma”, linh mục nói rằng: “Ma nào? Họ chết nhưng linh hồn của họ vẫn ở đây”. Vợ chồng hàng phở nấu nồi phở cuối cùng thật chuẩn, gánh phở ra phố thì chẳng có người nào vì dân đi tản cư hết rồi. Câu chuyện phim là sự chắp nối từng mảnh như vậy. Phim không có nhân vật anh hùng cụ thể nhưng nhiều người: các chiến sĩ tự vệ, Dân, Thục Hương... tạo nên hình ảnh của người anh hùng.

   Có thể nói phim vừa mang tính hiện thực vừa mang tính chất biểu tượng. Hiện thực là cảnh đánh nhau ác liệt ngay đầu phim, chiến lũy dựng cẩn thận, là cảnh có người hi sinh vì bị bắn tỉa hoặc lựu đạn (nhưng cảnh đoàn người rút ra ngoại thành làm quá sơ sài). Phần biểu tượng lớn hơn, là phần chính của phim: đó là đào (hoa đào), phở và piano, những thứ mà đạo diễn muốn dùng làm hình ảnh biểu trưng Hà Nội. Vì có phần rất thực là cảnh chiến đấu ở chiến lũy (bối cảnh làm rất công phu) nên người xem dễ đi theo dòng thực khi xem phim. Nhưng phần biểu tượng của phim lại lộ ra những điều vô lý. Một cô gái mảnh mai khó có thể một mình mang chiếc đàn piano đi, trong khi bốn, năm anh tự vệ thành phải ròng dây chuyển đàn từ trên ban công xuống (đàn bị vỡ vì đạn địch bắn). Nếu tên phim là “Đào, phở và tiếng đàn piano” thì cây đàn ở đây có lý. Cô gái không rời được cây đàn của mình và đã chơi đàn cho tự vệ nghe (trong phim có cảnh này). Cây đàn piano là biểu tượng đời sống tinh thần sang trọng của Hà Nội nhưng đạo diễn cho cô Thục Hương về lấy đàn mang đi là vô lý. Phở là món ăn rất Hà Nội và rất quen thuộc của người Hà Nội. Vợ chồng anh hàng phở nấu nồi phở cuối cùng thật chuẩn (còn nhờ cậu bé đánh giày kiếm hành thơm cho đủ vị), khi gánh phở ra đường thì chẳng còn ai. Vậy thì nấu phở cẩn thận chỉ để thể hiện lòng yêu nghề của họ. Nếu như nồi phở đó nấu sớm hơn để mời các chiến sĩ trước khi họ rút khỏi Hà Nội thì hay biết mấy, hoặc chí ít có dăm ba người dân sống trong vùng đó đến ăn, như vậy phở có vị trí trong phim chứ không phải làm phở để có phở, chỉ có lòng yêu nghề và chỉ có ý nghĩa tượng trưng cho Hà Nội. Cành đào mang về, lính còn đánh nhau, rồi ông phán cùng mấy cô hát ả đào lên ô tô vượt súng đạn mang cành đào cho các chiến sĩ. Ai thưởng thức? Vậy đào là để có đào thôi, nghĩ xa hơn thì khán giả cũng cần nhớ lúc này đang là mùa đông Hà Nội. Vậy đào cũng chỉ là để có đào, có ý tứ mà thành vô lý. Giữa bom đạn và ở một thành phố gần như không có người, cảnh hát ả đào ở nhà ông phán thật lạc lõng; cảnh ông phán lái xe, vượt bom đạn để chở Dân mang cành đào về có vẻ thiếu logic.

   Đạo diễn phim không đi vào các vấn đề về phục trang hoặc đề co, hóa trang (ví dụ tạo hình ông họa sĩ dễ bị khán giả dị ứng bởi ăn mặc, tóc tai ông họa sĩ giống mấy anh họa sĩ bụi bặm của hiện tại chứ không phải của họa sĩ thời 1945-1947)... Có lẽ đạo diễn chưa xem phim Goya nên dùng lại hình ảnh họa sĩ đội mũ có gắn những cây nến để lấy ánh sáng mà hình ảnh của Goya đẹp hơn nhiều.

   Có thể chấp nhận cách thể hiện bằng một loạt tình huống không có đường dây. Ở đây có thể xem ý đồ của đạo diễn là miêu tả một Hà Nội vừa anh dũng vừa hào hoa với đôi nét điển hình, bằng những mảnh ghép. Cũng có thể chấp nhận một cấu trúc bắt đầu từ những hình ảnh hiện thực rồi trên nền đó là biểu tượng, cùng nhằm một ý tưởng chủ đề. Điều đáng nói ở phim này là phần biểu tượng làm quá dở, nhiều lỗi khó chấp nhận nên ý đồ của đạo diễn cũng không thể hiện được; đôi chỗ phản cảm, gây cảm giác gợn khi đang theo dõi phim. Bởi vậy không thể nói Đào, phở và piano là một phim hay, nhất là theo nghĩa nghệ thuật điện ảnh.

   Nhưng “công” lớn là bối cảnh cuộc chiến đấu ngày cuối cùng ở Hà Nội trước khi quân ta rút ra vùng tự do. Nó có chút nhắc lại lịch sử chiến đấu và hình ảnh anh hùng của quân và dân Thủ đô, có tác dụng với lớp trẻ. Thanh niên có thể dễ tiếp nhận phim vì nó không khô cứng như nhiều phim chính trị. Trong phim cũng có những câu thoại tốt, những chi tiết dễ xem, nhất là trong đó có mối tình cảm động và đám cưới thời chiến của Dân và Thục Hương. Họ xem với cảm xúc ở bề nổi mà ít chú ý đến những chi tiết vô lý. Ngay cái tên của phim rất bình dân mềm mại và lạ lẫm gây tò mò cũng gợi sự chú ý. Giả sử đặt tên phim là “Ngày chiến đấu cuối cùng” thì khán giả dễ thờ ơ.

   Với Đào, phở và piano, lần đầu tiên có một phim Nhà nước đặt hàng có đông người xem nếu so với những phim chính trị do Nhà nước đặt hàng trước đây. Nó dễ xem đối với những khán giả quen xem phim giải trí nhẹ nhàng. Dù sao thì phim này cũng là kinh nghiệm tốt cho cách làm phim chính trị nhưng phải tránh đi những điều vô lý bởi tính chất bày biện của đạo diễn như đã nói ở trên.

Bình luận

    Chưa có bình luận