NGƯỜI VÀ VĂN HÀ NỘI

Bài viết phân tích về những tác giả có đóng góp xuất sắc cho ''văn Hà Nội'' từ những người sinh ra ở Hà Nội như Nguyễn Tuân, Tô Hoài đến những người không phải quê Hà Nội nhưng sống nhiều với Hà Nội, viết hay về Hà Nội như Thạch Lam, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng… Qua đó khẳng định Hà Nội là nơi gieo trồng, nuôi dưỡng, làm nảy nở và phát triển những tài năng của đất nước.

   Hiếm hoặc chưa có vùng đất nào có sự sống đậm nét và sinh động đến thế trong văn - thơ - nhạc - họa như Thăng Long, Hà Nội. Lý do thật dễ hiểu. Hà Nội là đất “ngàn năm văn vật”; là kinh đô, thủ đô nên giữ vai trò trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của cả nước. Hà Nội còn là nơi hội tụ vốn người, vốn tài năng và tinh hoa của đất nước để đóng góp cho cả nước.

   Nói như thế để thấy việc đi tìm hình ảnh Hà Nội trong văn - thơ - nhạc - họa có vẻ là dễ dàng nhưng lại khó, rất khó, vì biết bắt đầu từ đâu và nói sao cho đủ!

   Tôi đành chọn một khu vực đối với tôi là quen thuộc nhất: Hà Nội trong văn thơ. Nhưng rồi lại phải gác bớt phần thơ vì chỉ mới thoạt nghĩ đến đã thấy dồn dập tụ về trong trí nhớ biết bao là bài, là câu đi suốt cùng mình trong đường đời:

   “Ba mươi sáu phố ngày hôm ấy
   Là những dòng sông đỏ sóng cờ
   Chói lọi sao vàng hoa vĩ đại
   Năm cánh xoè trên năm cửa ô”.
                               (Vũ Hoàng Chương)

    “Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
   Những phố dài xao xác hơi may
   Người ra đi đầu không ngoảnh lại
   Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.
                                  (Nguyễn Đình Thi)

   “Mái buồn nghe sấu rụng”.
                                  (Chính Hữu)

   “Về đến đây rồi, Hà Nội ơi!
   Người đi kháng chiến tám năm trời
   Hôm nay về lại đây Hà Nội
   Ràn rụa vui lên ướt mắt cười!”.
                                    (Tố Hữu)

   Tôi đành lại giới hạn trong văn nhưng dẫu chỉ riêng văn vẫn cứ là một đối tượng quá lớn. Thôi thì hãy bắt đầu từ một vài ý tưởng và hình ảnh quen thuộc nhất, rồi từ đó, làm một khởi động cho cả một hành trình thật dài về “người Hà Nội - văn Hà Nội”…

   Giờ đây hẳn chẳng còn mấy ai nghĩ: phải là người gốc Hà Nội mới có thể viết hay và có đóng góp xuất sắc cho văn Hà Nội. Bởi lẽ Hà Nội – Thủ đô hôm nay là sự hội tụ, sự họp mặt, sự chung sức của biết bao người không có quê sinh Hà Nội nhưng lại chọn Hà Nội làm quê ở. Tôi quê gốc Hà Tĩnh nhưng chỉ ở quê sinh chưa đầy 18 năm, còn từ năm 1956 đến nay, ngót 70 năm không rời Hà Nội. Tôi học hành, thi cử, lấy vợ, sinh con, có nhà ở Hà Nội và lập nghiệp ở Hà Nội…

   Cố nhiên, nếu được là người gốc Hà Nội thì hẳn có nhiều điều kiện để đóng góp tốt hơn cho Hà Nội; những điều mình nói và viết về Hà Nội sẽ có thêm sức nặng. Tôi nghĩ đến Nguyễn Tuân – người làng Mọc, Tô Hoài – với quê ngoại và cũng là quê ở vùng Bưởi; hai bậc đàn anh, hai vị trưởng lão, hai người thực sự đứng ở hàng đầu hiếm hoi những cây bút của Hà Nội viết về người và cảnh Hà Nội, về quá khứ và hiện tại của Hà Nội. Hai người, hơn nhiều người, đã một lần cho ta thấy, với biết bao là tài hoa, cái riêng, thật là riêng của Hà Nội; lại còn thêm một lần cho ta thấy Hà Nội như là sự thâu thái, sự kết tinh những gì là đẹp tốt, những gì như là sự thăng hoa của phẩm cách Việt Nam. Vang bóng một thời rồi Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi của Nguyễn Tuân; Tự truyện rồi Cát bụi chân ai; Quê người rồi Quê nhà của Tô Hoài, đó là những cuốn sách tôi thường đọc đi đọc lại không biết chán giữa bộn bề bao nhiêu cuốn sách.

   Thế nhưng có những trang hay về Hà Nội, hơn thế, còn có thể được gọi là người viết đặc sắc về Hà Nội, không phải chỉ có Nguyễn Tuân và Tô Hoài. Có nghĩa là việc có quê sinh Hà Nội mới chỉ là cần mà chưa đủ hoặc cũng có thể đủ mà không cần (nói cách khác là cũng không thành vấn đề). Từ ý tưởng này, tôi nghĩ đến Thạch Lam và Nguyễn Huy Tưởng. Thạch Lam – quê nội ở Quảng Nam, quê ngoại ở Cẩm Giàng - Hải Dương; tuổi thơ và tuổi học trò sống ở phố huyện Cẩm Giàng. Qua đời khi mới 32 tuổi nên tuổi lập nghiệp làm báo, viết văn của Thạch Lam ở Hà Nội cũng chỉ trên dưới 10 năm, khi ông là thành viên chính thức của Tự lực văn đoàn và viết những truyện ngắn đầu tay sớm in ngay thành sách, năm 1937, trong Gió đầu mùa. Tập Gió đầu mùa có những truyện ngắn rất hay về Hà Nội như Tối ba mươi nhưng ấn tượng bàng bạc toát ra trên khắp các truyện Cô hàng xén, Hai lần chết, Dưới bóng hoàng lan… lại là một vùng quê heo hút, không xa mấy ánh sáng thành thị mà chứa đầy bóng tối. Nhưng rồi bỗng dưng Thạch Lam trở thành cây bút Hà Nội sáng giá mà không ai có thể phân vân hoặc nghi ngờ khi ông cho ra mắt những trang Hà Nội băm sáu phố phường, năm 1942, năm ông qua đời trong ngôi nhà lá lạnh lẽo bên Hồ Tây. Tập ký mỏng, xinh xắn và đẹp như tranh này cho ta thấy biết bao là chăm chút, là trân trọng của Thạch Lam trước cái đẹp được ẩn giấu và lưu giữ nơi những thú vui sinh hoạt và sản phẩm bình thường của Hà Nội “nghìn năm văn vật”; khi Thạch Lam bàn về các tên phố xá, biển hàng, các món ăn thanh đạm hoặc đặc sản, các hàng quà rong, các loại quà chỉ Hà Nội mới có hoặc chỉ của Hà Nội mới quý, từ bún riêu, bún chả, thang cuốn, nem chua, miến lươn, bún ốc, bún sườn, canh bún, mìn pào, giầy giò, bánh đậu, bánh khảo… Ở đây không phải chỉ là sự liệt kê mà còn là cả một sự thụ cảm tinh tế, từ cái vị bún chả “ngon từ cái mùi thơm, từ cái nước chấm ngon đi…” đến bát phở không thể không mang đặc sắc riêng của phở Hà Nội: “Nước thì trong và lúc nào cũng nóng bỏng, khói lên nghi ngút. Rau thơm tươi,

hồ tiêu Bắc, giọt chanh cốm gắt, lại điểm thêm một chút cà cuống, thoảng nhẹ như một nghi ngờ…”. Nếu Thạch Lam cho ta cảm nhận với tất cả các giác quan về cảnh trí và hương vị hiện tại của đời thường Hà Nội thì Nguyễn Huy Tưởng lại là người dành cho Hà Nội một mối quan tâm đến bền bỉ và dài lâu trong suốt ngót hai mươi năm đời viết của mình, kể từ Đêm hội Long TrìVũ Như Tô năm 1942 đến Sống mãi với Thủ đôLũy hoa năm 1960. Ông là người làng Dục Tú, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh – nay là Đông Anh, Hà Nội. Gọi ông là người Hà Nội cũng phải, nhưng đúng hơn là người Kinh Bắc, với nửa phần Bắc – Bắc Ninh, nửa phần Kinh – Hà Nội. Cũng như Thạch Lam và nhiều bạn văn khác, sự lập nghiệp và việc thực hiện “phận sự của một người tầm thường… muốn tỏ lòng yêu nước” bằng việc “Viết văn Quốc ngữ”1 nơi ông vẫn phải là địa bàn Hà Nội. Ở nhà văn có tư cách là nhà văn hoá này, Hà Nội được hiện lên trong suốt chiều dày lịch sử, kể từ thời Trần với Hào khí Đông A trong An Tư, qua thời Vua Lợn Lê Tương Dực trong Vũ Như Tô, đến thời Lê mạt với cung Vua phủ Chúa trong Đêm hội Long Trì… Đối với Nguyễn Huy Tưởng, cảm hứng lịch sử luôn luôn đậm đà trên mỗi trang viết về Hà Nội quá khứ và chiều sâu lịch sử luôn luôn là sự cần thiết, là ưu thế cho ông nhìn về Hà Nội của hiện tại. Cái hiện tại với khoảng lùi hơn mười năm trong Sống mãi với Thủ đô ra mắt năm 1960 và trước đó đã một lần được áp sát qua ống kính thời sự, vào những năm đầu nửa nước có hoà bình, trong Một ngày chủ nhật. Nếu sự tinh tế đến tài hoa luôn lấp lánh trên các trang văn của Thạch Lam thì chiều sâu những khát khao, trăn trở, kiếm tìm lại luôn luôn trĩu nặng trên các trang văn của Nguyễn Huy Tưởng.

   Tôi muốn bổ sung vào cùng hàng với Nguyễn Tuân, Tô Hoài hai gương mặt Thạch Lam, Nguyễn Huy Tưởng cho trọn vẹn bức phác thảo, muốn là một bộ Tứ bình, về “người Hà Nội - văn Hà Nội”.

   Câu chuyện tưởng có thể dừng ở đây nhưng rồi tôi bỗng tiếp tục một sự phân vân nếu không được viết thêm. Nam Cao – người gốc quê Hà Nam có sự nghiệp mà ông để lại rất đặc sắc và dường như dồn tụ ở truyện ngắn. Nhưng chúng ta không thể không nhắc đến truyện dài Truyện người hàng xóm và tiểu thuyết Sống mòn, cả hai đều chưa kịp in thành sách khi Nam Cao còn sống. Cả hai đều viết về Hà Nội với bối cảnh sống và nhân vật đều là người cư ngụ ở Hà Nội. Đó là một Hà Nội lam lũ ở ngoại ô, không giống với Nguyễn Tuân, Thạch Lam đã đành mà cũng không giống với thế giới ngoại ô vương vấn nhiều kỷ niệm tuổi thơ của Tô Hoài. Với Nam Cao, đó là ngoại ô Thuỵ Khuê, nơi có ngôi trường anh giáo Thứ dạy thuê; có gian nhà cho thuê tối tăm của ông Học chuyên nghề làm đậu; có sinh hoạt của thế giới con sen đứa ở nơi máy nước, khu dinh thự biệt lập của quan cụ Hải Nam… Đó là cái ngoại ô có tên Xóm Bài Thơ với dãy nhà cho thuê gần hai chục hộ, gồm những vợ chồng ông Ngã, bà Hai Mợn, cô Viên, mẹ con Hiền, cô đồng gọi rí và cùng lúc là ba thằng câm: câm thật, câm chuột bò, câm nháy trời… Cái ngoại ô không lúc nào yên nghỉ bởi “nỗi khổ cực chưa chịu ngủ. Nó nhảy nhót, nó quằn quại, nó rên rỉ, nó nghiến ngấu một lần chót như một con bệnh vật vã chán cho đến lúc không còn hơi sức mới chịu nằm yên mà thiếp đi”. Những cái ngoại ô đã vào văn Nam Cao như một mảng đời cơ cực nối dài cuộc sống lầm lụi, lam lũ đến mênh mông của đất nước, chạy đi đâu cũng không thoát khỏi cảnh bần hàn, túng đói.

   Nghĩ về Nam Cao, tôi lại không quên Vũ Trọng Phụng – người gốc quê Mỹ Hào, Hưng Yên nhưng sống và viết ở Cầu Gỗ, ngõ Sầm Công, Hàng Bạc, rồi mất ở Ngã Tư Sở. Vũ Trọng Phụng là người đã viết bao nhiêu phóng sự và tiểu thuyết về Hà Nội. Ông cho thấy, hơn bất cứ ai, một mặt trái nhầy nhụa và nhếch nhác của Hà Nội với biết bao là khinh ghét và căm phẫn. Nhưng tài năng và sự siêu việt của Vũ Trọng Phụng còn là ở một chuỗi cười dài, rất dài, có cả cười vui và cười ra nước mắt nơi Số đỏ, về cảnh và người một thời nhố nhăng ông hoá ra thằng, thằng hoá ra ông của Hà Nội cũ. Thiên kiệt tác về những gã “ưa may chó ngáp phải ruồi” này quả là có sức sống thế kỷ; nếu thiếu nó thì làm sao mà hình dung được một khái quát nghệ thuật tuyệt vời đến thế về trò đời và nhân thế – ở bất cứ đâu và vào bất cứ thời nào. Sức khái quát luôn luôn sống động đến như sờ mó được qua những chân dung thực của một thời ở Hà Nội – và cũng không riêng Hà Nội; những cụ Cố Hồng, bà Phó Đoan, cậu Phước – Em Chã, ông Típ-phờ-nờ… nơi Hàng Ngang, Hàng Đào hoặc Tràng Tiền, Tràng Thi; những thầy Min-đơ Min-toa trên những lộ trình dài dọc Trần Phú, Hùng Vương; những sân quần xem ra còn phảng phất hình tích biết bao Xuân Tóc Đỏ…

   Cứ thế mà băn khoăn: Sao mãi đến giờ ta vẫn thường ít nghĩ đến việc đưa Nam Cao, Vũ Trọng Phụng vào hàng những văn nhân viết về Hà Nội? Nếu câu hỏi đó là có lý thì danh sách hẳn còn có thể kéo dài thêm với Vũ Bằng trong Miếng ngon Hà Nội, Thương nhớ mười hai, Tam Lang trong Tôi kéo xe, Trọng Lang trong Hà Nội lầm than, Nguyễn Đình Lạp trong Ngoại ôNgõ hẻm, cùng hàng trăm truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan trên suốt hành trình viết của nhà văn…

    Hoá ra vấn đề quan trọng không phải là cái kết luận đơn giản, thậm chí là thô sơ, được rút ra từ sự trình bày có phần nhẩn nha trên: Người Hà Nội viết hay về Hà Nội như Nguyễn Tuân, Tô Hoài. Người không phải quê Hà Nội nhưng sống nhiều với Hà Nội nên cũng viết hay về Hà Nội, như Thạch Lam, Nguyễn Huy Tưởng, Vũ Bằng hoặc Nam Cao, Vũ Trọng Phụng…

   Điều quan trọng, hơn thế, như một khẳng định chắc chắn, đó là: Hà Nội là nơi nuôi dưỡng, nơi gieo trồng, nơi làm nảy nở và phát triển những tài năng, những sáng tạo tài hoa của đất nước, trong đó Hà Nội là trái tim của cả nước, để cho họ có thể viết hay về Hà Nội cũng như viết hay về bất cứ đề tài nào.

   Chẳng riêng trong lĩnh vực văn chương, nghĩ rộng ra mọi lĩnh vực hoạt động khoa học và nghệ thuật như sân khấu, nhiếp ảnh, điêu khắc, hội họa thì gần như số rất đông các tên tuổi lớn trong thế kỷ XX không ai không chọn Hà Nội làm nơi sinh sống bởi ở đây họ có đủ các điều kiện để phát huy tối ưu những tiềm năng; đến lượt họ, họ lại làm sáng danh cho Hà Nội.

 

 

 

Chú thích:
1 Nhật ký ngày 19/12/1930, trong Toàn tập Nguyễn Huy Tưởng, tập V, NXB Văn học, 1996, tr. 294.

Bình luận

    Chưa có bình luận