TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH

Bài viết gợi mở những góc nhìn khi trải nghiệm một tác phẩm điện ảnh được sáng tạo trên nền tác phẩm văn học ở hai vấn đề: các hình thức sáng tạo; những yếu tố tác động, ảnh hưởng đến quá trình sáng tạo... Từ đó khẳng định nỗ lực của những người làm điện ảnh khi không ngừng kiếm tìm, cập nhật những câu chuyện thú vị từ các tác phẩm văn học đã thành công để đem đến với khán giả dưới một hình thức nghệ thuật mới.

    Các tác phẩm văn học và điện ảnh không chỉ là những cảm xúc, câu chuyện ý nghĩa, mà còn là một cửa sổ để hiểu sâu hơn về con người và thế giới xung quanh. Tác phẩm văn học thường khám phá tâm trạng và tư duy của nhân vật, đưa ra suy tư sâu sắc qua những trang sách. Trái lại, tác phẩm điện ảnh thể hiện qua hình ảnh, âm nhạc, diễn xuất và trao gửi những thông điệp, tư tưởng đến khán giả một cách trực quan. Sự kết hợp giữa tác phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh là một phần quan trọng của lịch sử văn hoá và nghệ thuật giúp làm sống lại và làm mới những tác phẩm văn học kinh điển, có giá trị to lớn và truyền cảm hứng cho thế hệ mới. Từ năm 1935, trong bài viết văn học với điện ảnh, nhà văn M. Gorki đã kêu gọi nhà văn nên tham gia vào điện ảnh và cho rằng nhà văn và đạo diễn là “hai lực lượng không thể riêng biệt mà bổ sung, hỗ trợ cho nhau”1. Trong quá trình đó, sáng tạo, chế tác tác phẩm điện ảnh từ tác phẩm văn học là một quá trình khó khăn, phức tạp, đối mặt nhiều thách thức. Không ít những tác phẩm điện ảnh của Việt Nam và thế giới thành công khi sáng tạo từ tác phẩm văn học, nhưng cũng nhiều tác phẩm vẫn gặp thất bại. Những thất bại và thành công đến từ nhiều nguyên nhân khác nhau, bài viết này mong muốn gợi mở những góc nhìn và quan điểm lý luận khi chế tác và trải nghiệm một tác phẩm điện ảnh được sáng tạo trên nền tảng tác phẩm văn học.

    1. Các hình thức sáng tạo tác phẩm điện ảnh từ tác phẩm văn học

    Phim điện ảnh chuyển thể từ tác phẩm văn học là phim dựa trên tác phẩm văn học gốc, cố gắng giữ nguyên cốt truyện và tâm hồn của tác phẩm văn học trong phạm vi phim; Phim điện ảnh cải biên là phim dựa trên các tác phẩm văn học gốc, để tạo ra một phiên bản hình ảnh của câu chuyện với sự thay đổi, điều chỉnh hoặc sáng tạo mới dựa trên nguyên bản văn học. Cải biên văn học thành phim thường tùy chỉnh để phù hợp với thể loại phim và khán giả mà phim hướng đến; Phim điện ảnh phóng tác từ tác phẩm văn học là phim sáng tạo lại hoàn toàn hoặc có sự thay đổi lớn so với tác phẩm văn học gốc để tạo ra trải nghiệm điện ảnh riêng biệt; Phim điện ảnh lấy cảm hứng từ tác phẩm văn học là phim sử dụng yếu tố, ý tưởng hoặc tinh thần từ tác phẩm văn học để tạo ra một câu chuyện hoàn toàn mới hoặc một phần câu chuyện dựa trên nguồn cảm hứng từ tác phẩm văn học với sự sáng tạo độc lập.

    2. Những yếu tố tác động, ảnh hưởng đến quá trình sáng tạo tác phẩm điện ảnh từ tác phẩm văn học

    Trong quá trình sáng tạo, chế tác tác phẩm điện ảnh từ các tác phẩm văn học chịu nhiều tác động và ảnh hưởng từ khâu lên ý tưởng kịch bản, thống nhất kịch bản đến phân cảnh, chọn bối cảnh, chọn diễn viên, quay, dựng phim và hiệu ứng tiếp nhận từ khán giả, nhà phê bình khi phim công chiếu. Trong mối tương quan với tác phẩm văn học thì những yếu tố tác động, ảnh hưởng chủ yếu thể hiện ở các điểm sau:

    Thứ nhất, phê bình và so sánh tác phẩm điện ảnh với nguyên tác văn học.

    Một phần của việc thảo luận về các bản phim điện ảnh chuyển thể, cải biên và phóng tác là so sánh chúng với tác phẩm văn học gốc. Người hâm mộ và nhà phê bình thường so sánh hai phiên bản để đánh giá xem phim có thể truyền đạt tốt thông điệp và tâm hồn của tác phẩm văn học gốc hay không. Đối với một số tác phẩm điện ảnh không thành công khi chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh đã làm mất đi chi tiết và sâu sắc của tác phẩm văn học. Tác phẩm văn học thường có thể mô tả tâm trạng, suy tư và nội tâm của nhân vật một cách tinh tế thông qua ngôn ngữ viết. Tác phẩm điện ảnh thường khó có thể truyền tải được mức độ chi tiết và sâu sắc tương tự, làm mất đi một phần quan trọng của nguyên tác. Nhiều khán giả kỳ vọng vào sự chuyển đổi trung thành tác phẩm văn học nhưng tác phẩm điện ảnh không đáp ứng sự kỳ vọng đó. Đôi khi, các phiên bản điện ảnh của tác phẩm văn học có thể thay đổi quá nhiều so với nguyên tác, gây thất vọng cho những người yêu thích tác phẩm gốc. Những phim điện ảnh gần đây của Việt Nam sáng tạo trên nền tác phẩm văn học gặp thất bại như Cậu Vàng, dù được chuyển thể từ tác phẩm văn học nổi tiếng của nhà văn Nam Cao nhưng vẫn bị nhiều khán giả thờ ơ do kém sức thuyết phục. Mới đây, bộ phim Kiều @ cũng chung số phận bởi bị đánh giá là yếu từ kịch bản đến cách kể chuyện”2.

    Thứ hai, tác phẩm điện ảnh có thể làm mất đi bản chất hoặc hiểu sai ý nghĩa, thông điệp của câu chuyện trong tác phẩm văn học.

    Khi chuyển thể sang điện ảnh, có thể xảy ra hiểu sai hoặc mất đi thông điệp ban đầu. Tất cả những điều này đôi khi làm cho tác phẩm điện ảnh không thể đạt được cùng một sự trọn vẹn mà tác phẩm văn học gốc mang lại. Hiểu sai tư tưởng tác phẩm văn học khi chuyển thể thành phim có thể mang theo nhiều tác hại. Khi biểu đạt sai thông điệp làm người xem hiểu sai tác phẩm gốc, họ có thể hiểu sai thông điệp hoặc ý nghĩa mà tác giả muốn truyền đạt, dẫn đến hiểu lầm hoặc bỏ lỡ những ý tưởng quan trọng và có thể dập tắt tinh thần sáng tạo của người xem. Mặt khác, họ cũng có thể nghĩ rằng họ đã hiểu hoàn toàn tác phẩm gốc và không còn động cơ tìm hiểu thêm. Ngoàira, việc hiểu sai còn dẫn đến mất giá trị của tác phẩm văn học và thậm chí làm giảm tình yêu và đánh giá của người xem đối với tác phẩm đó. Chính vì vậy mà nhiều nhà văn trên thế giới không đồng ý cho chuyển thể tác phẩm của mình. Không phải ngẫu nhiên mà trong tác phẩm của mình nhà văn Milan Kundera đã viết: “Thời đại mới đang sục vào tất cả những gì được viết ra trước đây để chuyển thành phim, thành chương trình truyền hình hay thành phim hoạt hình. Vì thế điều quan trọng nhất trong tiểu thuyết chính là cái không thể nói bằng cách nào khác hơn tiểu thuyết, khiến cho mọi sự phóng tác nó đều không thể được. Nếu một kẻ điên nào hôm nay vẫn còn viết mà muốn giữ được những tiểu thuyết của mình thì hắn ta phải viết sao cho không ai có thể phóng tác được chúng, nói cách khác, viết sao cho không thể thuật lại được”3. Nhiều nhà văn nổi tiếng khác cũng không cho phép chuyển thể tác phẩm của họ thành tác phẩm điện ảnh hoặc truyền hình như: J. D. Salinger (tác giả tiểu thuyết nổi tiếng The Catcherin the Rye), Harper Lee (tác giả To Kill a Mockingbird), Cormac McCarthy (tác giả của các tiểu thuyết nổi tiếng như No Country for Old MenThe Road) mặc dù đã có các bản chuyển thể thành công của các tác phẩm của McCarthy, ông vẫn giữ quan điểm riêng về việc thể hiện tác phẩm của mình…

    Thứ ba, sự thể hiện nhân vật qua diễn xuất và giọng điệu không gây ra sự đồng cảm cho khán giả khi xem phim.

    Một số tác phẩm điện ảnh có thể không đạt được mức độ diễn xuất hoặc thể hiện nhân vật tốt như trong tác phẩm văn học, gây ra sự thiếu thiện cảm hoặc không thể đồng cảm với nhân vật và như vậy có thể không đánh giá đúng giá trị nghệ thuật và thông điệp của tác phẩm đó. Tác phẩm văn học thường có giọng điệu và phong cách riêng, trong khi đó, một số tác phẩm điện ảnh có thể mất đi giọng điệu này hoặc không thể truyền đạt chính xác. Khán giả có thể hiểu sai, đánh giá sai nhân vật nếu diễn viên không thể hiện đúng tính cách, tâm hồn, hoặc sự phức tạp của nhân vật như trong tác phẩm gốc. Trong nhiều tình huống, không cần phải dùng quá nhiều thoại hay hành động quá đà, nhưng nhà biên kịch và đạo diễn có thể làm quá lên trên màn ảnh. Điều này làm mất đi sự kết nối đáng tin cậy với nhân vật, người xem có thể không cảm nhận được tình cảm hoặc tiến trình phát triển của nhân vật theo cách mà tác phẩm văn học đề cập. Tác phẩm văn học thường đề cập đến suy tư và cảm xúc của nhân vật một cách sâu sắc, nếu diễn viên không thể hiện đúng, người xem cũng có thể mất đi một phần quan trọng của trải nghiệm này. Mặt khác, nếu các nhân vật không tương tác hoặc tương tác không tự nhiên, cơ cấu đường dây câu chuyện và các mối quan hệ giữa nhân vật có thể trở nên không thuyết phục, mất đi sự hấp dẫn.

    Thứ tư, phim có sự thay đổi yếu tố lịch sử và bối cảnh so với tác phẩm văn học.

    Thay đổi sự kiện lịch sử trong tác phẩm điện ảnh so với tác phẩm văn học gốc là một quyết định tạo nên nhiều tranh cãi và phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm nguyên tắc, mục tiêu của phim và ý đồ của biên kịch, đạo diễn. Trong nhiều trường hợp, trung thành với sự kiện lịch sử và tình tiết của tác phẩm văn học là quan trọng để duy trì bản chất của câu chuyện và tôn vinh công lao của tác giả. Nhưng những sáng tạo và hiện đại hóa khi thay đổi sự kiện lịch sử cũng có thể hữu ích để tạo ra một phiên bản mới mẻ và hấp dẫn của tác phẩm. Điện ảnh có thể tận dụng công nghệ và phương tiện truyền thông hiện đại để cập nhật câu chuyện cho thế hệ mới. Thay đổi sự kiện lịch sử có thể phù hợp nếu nó phục vụ cho thông điệp và ý nghĩa của phiên bản điện ảnh. Điều này có thể làm cho câu chuyện trở nên thú vị hơn hoặc mang lại ý nghĩa sâu sắc hơn trong bối cảnh hiện đại. Nhà làm phim loại bỏ sự kiện không cần thiết về bối cảnh lịch sử để làm cho câu chuyện trở nên gọn gàng và dễ theo dõi.

    Tuy nhiên, thay đổi quá nhiều có thể gây thất vọng cho người hâm mộ và làm mất đi giá trị của nguyên tác và có thể gây ra nhiều tác hại. Tác phẩm văn học thường đặt trong ngữ cảnh lịch sử cụ thể và tương tác với sự kiện lịch sử. Thay đổi yếu tố lịch sử có thể làm mất đi sự sâu sắc và nghĩa của câu chuyện, làm cho nó mất đi điểm mạnh của nguyên tác, điều này có thể khiến người hâm mộ của tác phẩm văn học gốc thất vọng và cảm thấy không hài lòng. Người hâm mộ của tác phẩm văn học thường đã có sự kết nối với sự kiện lịch sử và ngữ cảnh của tác phẩm. Thay đổi những yếu tố này cũng góp phần tạo ra mất điểm trong cảm xúc và tương tác của người hâm mộ với tác phẩm điện ảnh. Mặt khác, thay đổi yếu tố lịch sử còn có thể tạo ra tranh cãi và cuộc tranh luận liệu sự thay đổi là cần thiết và có ý nghĩa hay không. Điều này cũng có thể làm mất đi sự tập trung vào tác phẩm và tạo ra phân chia trong cộng đồng người hâm mộ. Một điều cũng hết sức quan trọng nữa là thay đổi yếu tố lịch sử có thể dẫn đến sự hiểu biết sai lệch về sự kiện lịch sử và ngữ cảnh. Người xem có thể nhận được thông tin không chính xác về sự kiện lịch sử thực sự. Sự kiện gần đây nhất ở phương diện này đối với điện ảnh Việt Nam là phim Đất rừng phương Nam do Nguyễn Quang Dũng đạo diễn phóng tác theo tác phẩm văn học cùng tên của nhà văn Đoàn Giỏi bị luồng phản ứng gay gắt của khán giả khi phim có suất chiếu sớm ngày 13/10/2023. Tác phẩm điện ảnh Đất rừng phương Nam bị cho là làm sai lệch lịch sử khi làm nổi bật 02 hội kín ở Nam Kỳ là Thiên Địa Hội và Nghĩa Hoà Đoàn có nguồn gốc từ Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống Pháp tại vùng Nam Bộ những năm 1920-1930 (tác phẩm văn học lấy mốc thời gian từ năm 1945). Sau sự phản ứng gay gắt của một bộ phận khán giả, đạo diễn và nhà sản xuất đã chủ động đề xuất phương án chỉnh sửa phim với Hội đồng thẩm định, phân loại phim và một số cơ quan, đơn vị chức năng để tiến hành thẩm định lại bộ phim với phương án “tác phẩm sẽ bỏ tên Thiên Địa Hội và Nghĩa Hòa Đoàn ra khỏi các lời thoại, thay bằng tên Chính Nghĩa Hội và Nam Hòa Đoàn. Sự thay đổi này nhằm tránh cho người xem liên tưởng đến hai hội nhóm thời nhà Thanh Trung Quốc. Bên cạnh đó, phim sẽ đặt dòng chữ “bộ phim lấy cảm hứng từ tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của nhà văn Đoàn Giỏi” lên đầu”4. Do đó, thay đổi yếu tố lịch sử trong quá trình làm phim nên được thực hiện cẩn thận và có lý do, để đảm bảo bản chuyển thể vẫn tôn trọng và bảo tồn giá trị của tác phẩm gốc.

    Thứ năm, ký ức tập thể của khán giả tác động đến hoạt động sáng tạo tác phẩm nghệ thuật từ tác phẩm văn học.

    Quan điểm về “ký ức tập thể” (collective memory) xuất hiện lần đầu tiên trong công trình Những bộ khung xã hội của ký ức (The Social Frameworks of Memory) của Maurice Halbwachs (1877-1945). Ký ức tập thể theo khái niệm của Halbwachs là “tập hợp thông tin được tổ chức thành ký ức của hai hay nhiều thành viên của một nhóm được chia sẻ với nhau. Ký ức tập thể có thể được chia sẻ, được tiếp tục và được kiến tạo bởi những nhóm nhỏ và lớn”5. Theo Halbwachs, “ký ức tập thể sẽ rất khác với lịch sử bởi sự đa dạng và sinh động của nó. Lịch sử tập trung vào các sự kiện, thời gian, nơi chốn và thường hoàn kết khi chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn khác… Trong khi đó, cùng một sự kiện lịch sử có thể có nhiều ký ức tập thể của các nhóm cộng đồng khác nhau và trải dài liên tục theo thời gian… Nghiên cứu ký ức tập thể sẽ tập trung vào một bộ những hình ảnh, ý tưởng, cảm giác về quá khứ trong những nguồn mà các cá nhân có thể chia sẻ. Điều này có nghĩa là sách lịch sử hay phim ảnh đều có giá trị như nhau trong việc chia sẻ ký ức”6. Do đó, không có thang đo nào để nói sự hư cấu trong các phim lịch sử hay lấy bối cảnh lịch sử nói chung bao nhiêu là đủ, bao nhiêu là sai lệch bối cảnh vì bản thân các sự kiện lịch sử cũng có những tranh cãi, nhiều góc nhìn, dẫn chứng, tư liệu khác nhau. Tuy nhiên, khi một tác phẩm điện ảnh được chế tác có thể bị xung đột với ký ức tập thể của một nhóm người trong xã hội, khán giả sẽ dựa trên ký ức của mình để đánh giá bộ phim. Ví dụ đối với trường hợp phim điện ảnh Đất rừng phương Nam, bộ phim gây tranh cãi là bởi vì khán giả nhận thấy sự nổi bật của người Hoa qua hình ảnh phục trang, thoại, lời thề… trong vai trò dẫn dắt các phong trào yêu nước thời bấy giờ, điều này xung đột với ký ức của họ về vùng đất Nam Bộ. Căn tính Nam Bộ về lòng yêu nước chưa thể hiện được xuyên suốt tác phẩm cho phù hợp tác phẩm văn học, trong khi các yếu tố của người Hoa lại xuất hiện lấn át. Chiếc áo bà ba và khăn rằn phù hợp với chất Nam Bộ được kiến tạo trong lòng công chúng, tuy nhiên, trong phim Đất rừng phương Nam, hình ảnh nút áo ngang xuất hiện quá nhiều qua các nhân vật không phải người Hoa như: bé An, Út Lục Lâm, bác Ba Phi, lính Pháp… nên khán giả không thấy được hình ảnh Nam Bộ trong lòng họ. Chắc chắn những hình ảnh này sẽ tác động đến cảm xúc, tinh thần cho người xem hay nói cách sẽ tác động đến ký ức tập thể về hình ảnh Nam Bộ cho khán giả.

    3. Một số điểm lưu ý khi sáng tạo tác phẩm điện ảnh từ tác phẩm văn học

    Thứ nhất, khi chuyển thể, cải biên, phóng tác hay hư cấu phim điện ảnh từ tác phẩm văn học cần quan tâm là tinh thần của tác phẩm.

    Nhà làm phim có thể thay đổi một số chi tiết trong phim nhưng phải chuyển tải để người xem vẫn nhận ra lấy chất liệu từ tác phẩm văn học và hiểu rõ những thay đổi đó của nhà làm phim nhằm mục đích gì. Tác phẩm điện ảnh không thể trung thành 100% tác phẩm văn học gốc. Không có bộ phim nào lấy chất liệu từ tác phẩm văn học có thể trung thành hoàn toàn với tác phẩm văn học được vì mỗi loại hình nghệ thuật có ngôn ngữ riêng của nó. Nếu tiểu thuyết dài trung bình khoảng 300 trang thì không thể nào được xử lý đầy đủ trong một kịch bản điện ảnh có dung lượng khoảng 120 trang (1 trang kịch bản còn ngắn hơn 1 trang tiểu thuyết). Do đó, việc quyết định nên giữ nguyên tất cả chi tiết hay điều chỉnh để phù hợp với môi trường điện ảnh là một quyết định quan trọng. Mặc dù mỗi tác phẩm văn học, người đọc độc lập có nhiều cách hiểu khác nhau và mỗi nhà làm phim cải biên trước hết cũng là người đọc. Khi là người đọc, mỗi người có một cách đọc khác nhau, không thể lấy cách đọc, cách hiểu của mình để chê hay phê phán cách đọc hay cách hiểu của người khác. Tuy nhiên, nhà làm phim cần phải giữ được tinh thần chung của tác phẩm văn học để phù hợp với khán giả mà phim hướng đến.

    Đã có nhiều tác phẩm điện ảnh trên thế giới và Việt Nam đã thành công khi chuyển thể từ tác phẩm văn học mà vẫn giữ được tinh thần của nó. Những tác phẩm của thế giới như: The Lord of the Rings (Những tác phẩm của J. R. R. Tolkien), bộ ba phim The Lord of the Rings do đạo diễn Peter Jackson thực hiện đã trở thành một trong những tác phẩm điện ảnh xuất sắc nhất và nổi tiếng nhất dựa trên tác phẩm văn học của J. R. R. Tolkien; The Shawshank Redemption (Ngục Tù Shawshank của Stephen King), bản điện ảnh này dựa trên truyện ngắn của Stephen King và được đánh giá cao về cốt truyện và diễn xuất; To Kill a Mockingbird (Giết con chim nhại của Harper Lee), phim này chuyển thể từ tác phẩm văn học nổi tiếng của Harper Lee và giành được nhiều giải thưởng, bao gồm giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho vai diễnAtticus Finch của Gregory Peck; The Godfather (Bố già của Mario Puzo), bộ phim này, đặc biệt là phần một và phần hai, được coi là một trong những tác phẩm điện ảnh xuất sắc nhất mọi thời đại, chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết của Mario Puzo… Đối với điện ảnh Việt Nam thì có thể kể đến như: phim Chị Tư Hậu (từ truyện ngắn Một chuyện chép ở bệnh viện của Bùi Đức Ái); phim Con chim vành khuyên (từ truyện ngắn Câu chuyện một bài ca); phim Mẹ vắng nhà (từ truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Thi); phim Bến không chồng (từ tác phẩm của nhà văn Dương Hướng); phim Trăng nơi đáy giếng (từ tác phẩm văn học của Trần Thuỳ Mai)… Những tác phẩm trên là ví dụ về việc chuyển thể từ tác phẩm văn học thành công, thể hiện sự trung thành và sáng tạo trong việc tái tạo câu chuyện cho nghệ thuật điện ảnh.

    Thứ hai, khi sáng tác tác phẩm điện ảnh trên nền tảng tác phẩm văn học cần quan tâm đến ký ức cộng đồng nơi tạo ra bối cảnh của câu chuyện phim.

    Phim lấy chất liệu từ tác phẩm văn học sẽ có những tác động đến “ký ức tập thể” của khán giả. Vì vậy, không nên nghĩ rằng chỉ cần có vài yếu tố cơ bản của tác phẩm văn học là có thể thoải mái đưa ra bất kỳ thông tin gì, hư cấu bất kỳ điều gì mà bỏ qua tác động của phim đối với ký ức của khán giả. Phim có ý nghĩa tác động rất lớn đến công chúng, đặc biệt là những phim lấy bối cảnh lịch sử để chuyển tải câu chuyện. Vì vậy, nhà làm phim phải hết sức thận trọng và đặc biệt lưu ý ký ức tập thể đi cùng với căn tính cộng đồng. Đối với các phim mượn lịch sử để nói về con người, thể hiện tính nhân văn, tinh thần yêu nước hoặc những vấn đề phức tạp trong tâm lý nhân vật... Những nhà sản xuất và đạo diễn phim có thể thoải mái hư cấu nhưng cần phải biết mục đích của việc hư cấu có phù hợp với ký ức tập thể về hình ảnh vùng đất, con người, câu chuyện… của vấn đề lịch sử mà phim khai thác hay không. Ví dụ, trong phim Đất rừng phương Nam đạo diễn Nguyễn Quang Dũng muốn truyền tải tinh thần yêu nước và căn tính Nam Bộ được thể hiện xuyên suốt từ tác phẩm văn học thì phải khai thác mạnh những yếu tố này trong phim sao cho phù hợp với ký ức của khán giả về tinh thần yêu nước và căn tính Nam Bộ. Việc nhấn mạnh các yếu tố đó có thể hư cấu lịch sử nhưng với ký ức cộng đồng thì lại được chấp nhận và thậm chí là được cổ vũ. Có nghĩa là trong lịch sử có những hội nhóm như “Nghĩa Hoà Đoàn” và “Thiên Địa Hội”, nhưng trong sáng tạo, nhà làm phim có quyền làm giảm vai trò của họ lại, làm nổi bật căn tính của con người Nam Bộ lên. Ngoài ra, phải cho thấy được sự chân chất, mộc mạc tự nhiên, hào sảng, phóng khoáng đậm chất người Nam Bộ thì người xem mới cảm nhận được sự gần gũi với tác phẩm.

    Thứ ba, khi sáng tạo điện ảnh tránh hiểu sai tư tưởng tác phẩm văn học gốc và hiểu rõ vai trò của các yếu tố kết nối trong chế tác phim từ tác phẩm văn học.

    Về tư tưởng của tác phẩm, như đã đề cập ở trên, việc hiểu sai tư tưởng tác phẩm văn học khi chuyển thể thành phim có thể dẫn đến nhiều tác hại. Nhà lý luận, phê bình điện ảnh Trần Luân Kim đã cho rằng: “Tính văn học trong điện ảnh chiếm vị trí mấu chốt vì nó quyết định nội dung tác phẩm, đồng thời cũng quyết định hình thức thể hiện”7. Đạo diễn và nhà sản xuất phim phải hiểu sâu tác phẩm gốc, bao gồm cốt truyện, nhân vật, tông điệu và thông điệp. Điều này đảm bảo họ có thể truyền đạt bản chất của tác phẩm. Thay vì cố gắng sao chép một cách chính xác, cần tạo ra một phiên bản mới, tái tạo của câu chuyện để phù hợp với phương tiện điện ảnh và khán giả hiện đại nhưng không được làm sai lệch tư tưởng chủ đề của tác phẩm văn học.

    Về cấu trúc thời gian, tác phẩm văn học thường sử dụng kỹ thuật thời gian khác nhau hoặc kể từ góc nhìn khác nhau. Điện ảnh có cách làm khác trong điều chỉnh cấu trúc thời gian để tạo ra sự liên kết và dễ theo dõi. Một tác phẩm văn học thường dày đặc với các nhân vật phụ và sự kiện. Khi chuyển thành tác phẩm điện ảnh, cần xem xét việc rút ngắn hoặc mở rộng câu chuyện để đảm bảo thời lượng phim hợp lý và tiếp cận được khán giả. Nhưng điểm lưu ý là phim có thể phải rút ngắn nội dung để phù hợp với thời lượng, nhưng không loại bỏ các khía cạnh quan trọng của tác phẩm gốc.

    Về diễn xuất của diễn viên, khi chuyển đổi từ ngôn ngữ viết thành ngôn ngữ hình ảnh thì đòi hỏi phải có sự sáng tạo khác biệt. Tác phẩm văn học thường tập trung vào mô tả và tư duy của nhân vật. Trong khi đó, tác phẩm điện ảnh phải diễn đạt thông qua hình ảnh, diễn xuất và âm thanh, sự khác nhau căn bản nhưng lại hết sức thiết yếu này là yếu tố làm nên thành công của một bộ phim. Điều quan trọng là phải thể hiện đúng nhân vật, việc diễn xuất và giọng điệu của nhân vật là một phần không nhỏ tác động đến sự yêu thích tác phẩm văn học và tác phẩm phim. Do đó, việc lựa chọn diễn viên phù hợp và có sự hướng dẫn của đạo diễn là yêu cầu cần thiết để thể hiện các nhân vật và tạo ra mối kết nối với khán giả.

    Về chất lượng kịch bản, vai trò của kịch bản là hết sức quan trọng bởi lẽ văn học là vỉa quặng dồi dào để điện ảnh khai thác và “Nói đến kịch bản là dính đến văn xuôi. Nền điện ảnh không thể hùng mạnh được khi văn xuôi kém. Chính nền văn xuôi sẽ cung cấp cho điện ảnh từ hình ảnh, ngôn ngữ, tạo dựng tâm lý, tính cách nhân vật, thúc đẩy hành động, tình huống trong phim ảnh. Kịch bản hay thì phim ảnh sẽ hay, sẽ có giá trị”8. Tuy nhiên, một trong những lý do dẫn đến phim không thành công là chất lượng kịch bản trong các bản phim điện ảnh không đạt được mức độ của tác phẩm văn học. Điều này có thể dẫn đến diễn xuất yếu, tình tiết kém hấp dẫn hoặc logic câu chuyện phim không đảm bảo. Ngoài ra, một số nguyên tác văn học không thể chuyển thành kịch bản điện ảnh được là có ngôn ngữ hoặc tôn giáo mà không phù hợp cho môi trường điện ảnh hoặc có nội dung quá phức tạp để thể hiện trên màn ảnh. Những nguyên nhân về kịch bản không tốt có thể dẫn đến sự thất bại của một phim điện ảnh từ tác phẩm văn học. Để thành công, trong khâu hình thành kịch bản phải có sự cân nhắc hết sức cẩn thận của nhà biên kịch và đạo diễn khi hiện thực hoá kịch bản trên phim.

    Về sự kết nối với tác giả văn học, đôi khi sự hợp tác với tác giả hoặc gia đình của tác giả có thể giúp tạo ra một phiên bản điện ảnh thành công và trung thực. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã cho rằng: “Văn học, nghệ thuật là một hoạt động mang tính cá nhân và trước hết phải có những tài năng… Nếu có sự giao tiếp giữa nhà văn và đạo diễn thì tốt hơn”9. Đối với những tác phẩm có sự kiện lịch sử, nếu tác giả còn sống hoặc gia đình tác giả đồng ý với việc thay đổi sự kiện lịch sử phù hợp với phiên bản điện ảnh, điều này có thể tạo ra sự hiểu biết và sự hợp tác giữa tác giả và đội ngũ làm phim.

    4. Kết luận

    Khi một tác phẩm điện ảnh được sáng tạo từ tác phẩm văn học, chúng ta thường nhận thấy sự thay đổi trong cách mà ngữ cảnh và cảm xúc được thể hiện, tạo nên một trải nghiệm mới mẻ cho khán giả. Điều này đôi khi dẫn đến những tranh cãi về sự trung thành với tác phẩm văn học nhưng nó cũng tạo ra sự kích thích trong việc so sánh và khám phá những khía cạnh mới của câu chuyện. Từ sự sáng tạo của tác giả đến tài năng của đạo diễn và diễn viên trong chuyển đổi từ tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh không chỉ là việc chuyển đổi từ trang sách thành màn ảnh, mà còn là một hành trình biến đổi nội dung, hình ảnh, cảm xúc đòi hỏi tài năng, tâm huyết và sự sáng tạo nhà làm phim. Quá trình này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, rào cản và thách thức, tuy nhiên “Không chỉ điện ảnh Việt Nam, mà điện ảnh thế giới cũng luôn xem văn học như một “mảnh đất màu mỡ”. Báo Le Figaro (Pháp) từng làm một cuộc khảo sát về tác động của tác phẩm văn học nổi tiếng, nhất là tiểu thuyết kinh điển, với điện ảnh và đưa ra kết luận: cứ năm bộ phim thì có một bộ phim chuyển thể từ tác phẩm văn học. Nhiều thập kỷ qua, “mắt xanh” của người làm điện ảnh khắp thế giới không ngừng tìm kiếm những câu chuyện thú vị, những số phận con người gây xúc động từ các tác phẩm văn học đã thành công, có sức lan tỏa với bạn đọc trước đó để tìm đến với khán giả dưới một hình thức nghệ thuật mới”10.

 

 

 

Chú thích:
* Trường Đại học Sân khấu – Điện ảnh Thành phố Hồ Chí Minh.
Dẫn theo Nguyễn Xuân Lâm: “Gorki với điện ảnh”, Tạp chí Nghệ thuật điện ảnh, số 3, 1986, tr. 33.
2 https://tuyengiao.vn/van-hoa-xa-hoi/vanhoa/thach-thuc-chuyen-the-tac-pham-van-hocsang-dien-anh-132790.
3 Milan Kundera (2019), Sự bất tử (Ngân Xuyên dịch), NXB Nhã Nam và Hội Nhà văn, tái bản, tr. 342.
4 https://vnexpress.net/dat-rung-phuong-namthu-gan-45-ty-dong-sau-ba-ngay-4665216.html.
5 Haim Weinberg, The Paradox of Internet Groups: Alone in the Presence of Virtual Others, tr. 143.
6 Iwona Irwin Zarecka, Frames of Remembrance: The Dynamics of Collective Memory.
7 Trần Luân Kim (2011), Nhận thức điện ảnh, Hội Điện ảnh Việt Nam xuất bản, tr. 23.
8 Minh Trang: “Các nhà văn nói gì về điện ảnh”, Tạp chí Điện ảnh ngày nay, số 59, 2000, tr. 27.
9 Điện ảnh ngày nay, số 79, 2001, tr. 22.
10 https://tuyengiao.vn/van-hoa-xa-hoi/vanhoa/thach-thuc-chuyen-the-tac-pham-van-hocsang-dien-anh-132790.

Bình luận

    Chưa có bình luận