THẾ GIỚI NHẠC, HỌA, THƠ CỦA VĂN CAO

Văn Cao là nhạc sĩ, họa sĩ, nhà thơ để lại nhiều dấu ấn sáng tạo mang tính khai phá. Ông được nhiều người đánh giá là một hình mẫu thiên tài trong lịch sử văn nghệ Việt Nam. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của nghệ sĩ Văn Cao, lyluanphebinh.vn trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc nghiên cứu của một số nhà khoa học và văn nghệ sĩ.

 

VĂN CAO - CÂY ĐẠI THỤ CỦA NHẠC, HỌA VÀ THƠ

PGS, TS NGUYỄN THẾ KỶ*

    Trong rất nhiều sự kiện văn hóa lớn của năm 2023: Kỷ niệm tròn 80 năm ra đời của Đề cương về Văn hóa Việt Nam 1943; Kỷ niệm 80 năm Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh... chúng ta xúc động tưởng nhớ, ghi ơn sâu sắc một nghệ sĩrất lớn trong âm nhạc, hội họa, thơ ca của đất nước và nhân dân ta - đó là Văn Cao. Văn Cao tên đầy đủ là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15/11/1923, quê gốc Nam Định, lớn lên, đi vào con đường nghệ thuật, tham gia cách mạng tại thành phố biển luôn ầm ào, dữ dội Hải Phòng rồi ngược lên Hà Nội - trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của cả nước ngàn năm qua.


Nhạc sĩ Văn Cao (1923-1995) (Nguồn: Internet)

    Nghệ thuật ở Văn Cao, với Văn Cao, như là thiên bẩm, như là trời cho, nhưng mà trời đất, thần Phật đã ban cho ông một cách hào phóng, ăm ắp, tinh túy, đa thanh, đa sắc, đến độ kỳ tài, đặc biệt nổi trội, khác biệt. Nhưng chính cái kỳ tài ấy, có thể gọi là thiên tài ấy, còn là sự tự học, tự sáng tạo, tự đốt cháy mình, nó đưa ông lên tột đỉnh vinh quang và cũng có lúc gieo khổ đau, tai họa, cay đắng cho ông, đến mức “nước mắt không thể chảy ra ngoài được”. Cụ Nguyễn Du từng nói như là một sấm ký “Có tài mà cậy chi tài/ Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Điều đó vận đúng vào chính Cụ, gần ba trăm năm trước, và vận đúng vào một người cũng họ Nguyễn, là Văn Cao, gần ba trăm năm sau.

    Về “chữ tài”, trong âm nhạc, Văn Cao năm 16 tuổi viết Buồn tàn thu,rồi các ca khúc lãng mạn, trữ tình mới mẻ, ám ảnh, da diết cả nhạc và lời trước năm 1945 như Bến xuân, Suối mơ, Thiên thai, Trương Chi, Thu cô liêu, Cung đàn xưa… Trong thơ, năm 17 tuổi, ông viết Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, rồi Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc… nặng nỗi buồn đau nhân thế, nặng trĩu ưu tư; ông còn viết thơ, văn, kịch ngắn đăng ở Tiểu thuyết thứ Bảy…Về hội họa, năm 19 tuổi, Văn Cao học dự thính tự do Trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương; năm 20 tuổi ông đã có các bức tranh gây chú ý như Cô gái dậy thì, Sám hối, Nửa đêm, Thái Hà ấp đêm mưa…, nhất là bức tranh Cuộc khiêu vũ của những người tự tử (Le Bal aux suicides). Những bản nhạc của ông được in ra đều do tự tay ông vẽ bìa, và như người bạn họa sĩ cùng thời Tạ Tỵ nhận định: tranh của ông “đi rất gần với trường phái lập thể”.

    Năm 21 tuổi - 1944, Văn Cao tham gia Việt Minh và Hội Văn hóa Cứu quốc, ông viết bài hát lừng danh Tiến quân ca (ngay trong Cách mạng tháng Tám, năm sau trở thành Quốc ca Việt Nam). Đây là dấu mốc Văn Cao chuyển từ phong cách nghệ thuật lãng mạn, trữ tình và cả hiện thực phê phán sang phong cách nghệ thuật cách mạng-kháng chiến cả trong nhạc, họa và thơ. Từ năm 1945 trở đi, ông viết Bắc Sơn,rồi các ca khúc, hành khúc như là sự tiên tri kỳ lạ: Hải quân Việt Nam, Không quân Việt Nam, Công nhân Việt Nam, Chiến sĩ Việt Nam, Gò Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca… tiếp đó là Làng tôi, Ngày mùa, Tiến về Hà Nội, đặc biệt là ca khúc Ca ngợi Hồ Chủ tịch và Trường ca Sông Lô… Ngoài ca khúc, sau này ông còn viết một số tác phẩm khí nhạc dành cho piano như Sông Tuyến, Biển đêm, Hàng dừa xa...; sáng tác nhạc phim cho phim truyện Chị Dậu (1980), tổ khúc giao hưởng cho phim tài liệu Anh bộ đội cụ Hồ của Xưởng phim Quân đội... Vì nhiều lý do, kể cả chiến tranh, những chuyển dời, dâu bể, trầm luân,rất nhiều sáng tác hội họa của Văn Cao đã không được giữ gìn, thưởng thức và được giới thiệu như các tác phẩm âm nhạc và thơ ca của ông. Chỉ có thể nêu một số tác phẩm như Dân công miền núi,Chợ vùng cao, Lớn lên trong kháng chiến, Người Mông dắt ngựa, Người Mông uống rượu, Cá, Người đàn bà dài vú nuôi con...

    Giai đoạn tiếp theo của Văn Cao, trong âm nhạc là tác phẩm đặc biệt nổi tiếng và duy nhất sau năm 1975 Mùa xuân đầu tiên...; trong hội họa là Chân dung bà Băng, Chân dung Đặng Thai Mai, Cổng làng, Phố Nguyễn Du, Ngựa, Cây đàn đỏ, Cô gái và đàn dương cầm, Chân dung tự họa… Ông vẽ hàng trăm bìa sách cho nhiều văn nghệ sĩ, hàng trăm bức minh họa, đồ họa khác cho Báo Văn nghệ và vài ba tờ báo khác. Trong thơ là Ba biến khúc tuổi 65, Thời gian, Phố Phái, Những bó hoa… Các bài thơ được tập hợp trong tập Lá và Tuyển tập thơ Văn Cao.

    Chỉ cần lấy ngẫu nhiên các tác phẩm âm nhạc như Thiên thai, Trương Chi, Tiến quân ca, Trường ca Sông Lô, Mùa xuân đầu tiên; trong hội họa là Cuộc khiêu vũ của những người tự tử, Chợ vùng cao, Uống rượu…; trong thơ là Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Giấc mơ… đã thấy những bảo chứng sinh động cho dấu ấn khai phá, mở lối, vượt lên chính mình, đặt nền móng rất quan trọng cho sự phát triển của nền tân nhạc, hội họa và thơ ca Việt Nam, từ lãng mạn, hiện thực đến cách mạng, kháng chiến cho đến thời khắc rất sớm của thời kỳ đổi mới; của ca khúc, hành khúc và trường ca trong nhạc, trong thơ. Nhận định về sự nghiệp văn nghệ đặc sắc của Văn Cao, nhiều người ca ngợi ông là nghệ sĩ đa tài, thích “lãng du” qua những “miền” nghệ thuật khác nhau về âm nhạc, hội họa, thơ ca. Dù không gắn bó liên tục và dài lâu với một loại hình nào, nhưng ở cả ba “miền” ấy, ông đều lưu dấu rất nhiều, rất ấn tượng sáng tạo mang tính khai phá - mở lối cho mình và cho những người cùng thời hoặc đến sau. Cụ thể và hiển nhiên nhất là thể loại tình ca, hùng ca, trường ca trong âm nhạc và trường ca trong thơ Việt Nam hiện đại; là sự tiệm cận với phong cách hội họa lập thể, trừu tượng, siêu thực, ấn tượng. Nhưng trước hết và trên hết, trong nhạc, họa và thơ ông, văn hóa Việt Nam, tâm hồn người Việt Nam, khát vọng Việt Nam luôn đậm đà, da diết và thống nhất.

    Trong lĩnh vực thi ca, dù viết không nhiều, nhưng những sáng tác của ông thể hiện sự coi trọng tính tư tưởng và chất suy tư trong ngôn ngữ và thi pháp nghệ thuật của người cầm bút. Văn Cao đã nhận ra tính tư tưởng là vấn đề cốt yếu nhất để thơ có thể trường tồn theo thời gian và thực hiện sứ mệnh thiêng liêng. Văn Cao đã tạo cho riêng mình một thế giới thơ bằng trí tưởng tượng phong phú và sự sắp đặt ngôn từ một cách tài hoa, đánh thức mọi giác quan của bạn đọc khitiếp nhận tác phẩm. Đó là nỗi đau đớn khi chứng kiến những bi kịch chất chồng của cõi nhân sinh, của những kiếp đời nô lệ trong các bài thơ Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Ngoại ô mùa đông 1946, Linh cầm tiến, Ly khách... Đó còn là sự nhạy cảm, sự trải đời của người nghệ sĩ chân chính khiến Văn Cao lựa chọn và chấp nhận dấn thân trên hành trình nghệ thuật, dám cất lên tiếng nói của lòng mình trước sự tha hóa, sự băng hoại đạo đức, phẩm giá của con người, cảnh báo sự xuất hiện nguy cơ đe dọa sự phát triển đất nước:

    “Đất nước đang lên da lên thịt
    Đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày
    Ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải
    Đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống
    Chúng muốn các em nhỏ mới biết đi phải rụng
    Mòn mỏi dần sức vỡ đất khai hoang
    Làm rỗng những con người, lùi dần niềm hi vọng
    Héo dần mầm sáng tạo, mất phẩm giá con người
    Chúng nó ở bên ta, trong ta, lẻn lút
    Đào rỗng từng kho tiền gạo, thuốc men”
                                         (Những người trên cửa biển).

    “Đất nước đang lên da lên thịt Đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày Tamuốn gói cuộcđời gọn gàng nhưtrái vải Đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống Chúng muốn các em nhỏ mới biết đi phải rụng Mòn mỏi dần sức vỡ đất khai hoang Làm rỗng những con người, lùi dần niềm hi vọng Héo dần mầm sáng tạo, mất phẩm giá con người Chúng nó ở bên ta, trong ta, lẻn lút Đào rỗng từng kho tiền gạo, thuốc men” (Những người trên cửa biển).Nhiều nhà văn hóa lớn, các nhà lý luận, phê bình văn hóa, văn nghệ, các văn nghệ sĩ có tên tuổi đã từng được hỏi hoặc nếu được hỏi: Ở Việt Nam, thế kỷ XX, ai là nghệ sĩ lớn nhất, có nhiều sáng tạo mang tính đột phá, để lại dấu ấn đa dạng và sâu đậm nhất, có đóng góp rất quan trọng trên nhiều mặt cho nền văn hóa, văn nghệ nước nhà, thì chắc chắn phần đông trong số họ đều đồng thanh, đồng tâm nói rằng: Người nghệ sĩ đó là Văn Cao! Với tài năng đa dạng, độc đáo, nhiều chiều kích, tích hợp nhuần nhuyễn giữa tư duy, thẩm mĩ, bút pháp; giữa hiện thực đời sống, sự cảm nhận, tri nhận và nghệ thuật biểu đạt; giữa âm nhạc - hội họa - thơ văn, Văn Cao được nhiều người khẳng định là một hiện tượng hết sức đặc biệt và hiếm có trong lịch sử văn nghệ Việt Nam hiện đại. Gọi ông là nghệ sĩ thiên tài cũng không có gì là quá lời. Không thiên tài sao được khi thập niên bốn mươi thế kỷ trước ông đã viết các kiệt tác âm nhạc Suối mơ, Thiên thai, Trương Chi..., đặc biệt là bản hùng ca bất hủ Tiến quân ca - Quốc ca Việt Nam. Năm 1945, ông viết như là dự cảm, dự báo, đúng hơn là tiên tri, về sự ra đời của các quân chủng “Hải quân Việt Nam”, “Không quân Việt Nam”, là báo trước 5 năm (từnăm 1949),thời khắc quân và dân ta sẽ “Tiến về Hà Nội” giải phóng Thủ đô và cả Miền Bắc thân yêu năm 1954.

    Cuộc đời 72 năm sống, sáng tạo nghệ thuật của Văn Cao gắn bó trọn vẹn với thế kỷ XX nhiều biến động.Trên hành trình cuộc đời ấy, dẫu không ít chông gai, sóng gió, đau xót:

    “Có tuổi thanh niên
    Như cây mùa xuân mới mọc
    Bị tước dần vỏ non
    [...]
    Có lúc,
    Ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt”…

    Nhưng vượt lên tất cả, lối sống khiêm nhường, bình dị, nhẫn nhịn, chấp nhận thua thiệt; tình yêu thương và trân trọng con người, cỏ cây, phố xá, làng quê, đất nước đã giúp ông vượt lên nỗi đau khổ, bất hạnh, luôn đồng hành cùng dân tộc, cùng nhân dân, sáng tạo nên những tác phẩm bất hủ sáng chói. 

    Bằng tài năng như là thiên bẩm, bằng sự tự học, tự rèn, đổi mới, sáng tạo, bứt phá, Văn Cao đã có những cống hiến to lớn đối với nền văn hóa, văn nghệ nước nhà ở cả ba lĩnh vực âm nhạc, thơ và hội hoạ. Ông được Nhà nước ta trao tặng các phần thưởng cao quý: Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Độc lập hạng Ba, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật (đợt 1, năm 1996). Tên ông cũng được đặt cho nhiều đường phố ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định, Huế, Đà Nẵng...

    Văn Cao còn mãi với chúng ta. Các tác phẩm của ông như là những cột mốc yêu thương, hùng tráng, tha thiết của lịch sử, văn hóa, văn nghệ của nước nhà thế kỷ XX và lan tỏa, xao động, ám ảnh đến hôm nay và mai sau.

 

Chú thích:
* Nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương

 

 

VĂN CAO - MỘT CHÂN DUNG LỚN

GS PHONG LÊ

    Nói Văn Cao, không chỉ ở thời điểm hôm nay, nhân kỷ niệm 100 năm sinh của ông, mà ngay từ 1945, Văn Cao đã là một tên tuổi nghệ sĩ lớn mà cả dân tộc Việt, nhân dân Việt, từ nhỏ đến lớn, từ trẻ đến già không ai không biết đến, và chịu ơn. Bởi ông là tác giả của Tiến quân ca, rồi trở thành Quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngay từ tháng Tám 1944, ở Tân Trào, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định chọn Tiến quân ca làm Quốc ca. Kể từ ấy, Quốc ca đã vang lên trong ngày 17/9/1945 ở Quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội, rồi sáng 2/9/1945 ở Quảng trường Ba Đình trước khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập.

    Kể từ đó đến nay, biết bao nhiêu thế hệ công dân Việt, thuộc tất cả các lứa tuổi, không ai không thuộc nằm lòng Tiến quân ca, như tiếng gọi của non sông Việt và cũng là của chính tấm lòng mình, bởi nó là sức mạnh tinh thần không gì đo đếm được, không có bút mực nào tả xiết được. Ca khúc nói lên sức mạnh vô biên, bất tận của dân tộc Việt Nam trước mọi thử thách trong hàng nghìn năm lịch sử.

    Theo di nguyện của Văn Cao, gia đình nhạc sĩ đã hiến tặng bản quyền Quốc ca cho Tổ quốc, một nghĩa cử vĩ đại mà mỗi công dân Việt như chúng ta cần biết điều này để thấy rằng, nếu thực hiện chế độ bản quyền thì chỉ riêng nhuận bút của Tiến quân ca đủ đưa Văn Cao lên hàng tỉ phú trong khi đời sống riêng của ông cho đến lúc qua đời vẫn trong cảnh thanh bạch, khó khăn.

    Như vậy là chỉ riêng Tiến quân ca đủ làm nên một tên tuổi, một sự nghiệp lớn của Văn Cao trong thế giới âm nhạc. Thế nhưng đây chỉ là một điểm nhấn. Bởi sự nghiệp âm nhạc của Văn Cao còn phải ngược lên dăm năm trước 1945 trong tư cách một tác gia lớn của thế giới tân nhạc, với Buồn tàn thu, Thiên thai, Bến xuân, Thu cô liêu, Cung đàn xưa, Đàn chim Việt... mà chỉ riêng mỗi tác phẩm cũng đủ làm vinh quang cho bất cứ tác giả nào sáng tạo ra.

    Còn về sau Tiến quân ca? Đó còn là, hoặc càng là, một sự nghiệp lớn hơn, trên một hành trình dài với rất nhiều nguồn mạch, tỏa ra nhiều hướng, soi vào đấy - là cả một dàn giao hưởng của đời sống kháng chiến, với Bắc Sơn Chiến sĩ Việt Nam; Công nhân Việt Nam; với Làng tôi Ngày mùa; với Hải quân Việt Nam Không quân Việt Nam, với Trường ca Sông Lô Tiến về Hà Nội; với Ca ngợi Hồ Chủ tịch… Tất cả tràn ngập âm hưởng hào hùng, lạc quan, giàu sức khám phá và khả năng tiên tri về công cuộc kháng chiến và hành trình dân tộc…

    Sự nghiệp âm nhạc vĩ đại của Văn Cao còn nối dài đến 1975 với tác phẩm Mùa xuân đầu tiên như một sự đón đợi kỳ diệu niềm vui đoàn tụ của hai miền Nam Bắc sau 20 năm bị chia cắt; dẫu phải đến thập niên 1990 công chúng mới được biết đến.

    Như vậy, nói âm nhạc của Văn Cao là nói một sự nghiệp ở tầm cao của một tài năng lớn; tôi chỉ có thể gợi dẫn đôi điều trong tư cách một công dân Việt có vinh dự được sống cùng thời với ông để ngưỡng mộ và chịu ơn ông.

    Bên cạnh tư cách một nhạc sĩ lớn mà cả dân tộc phải chịu ơn, nói Văn Cao còn là nói đến một nhà thơ lớn - mà tôi không phải phân vân khi chọn từ này, bởi ông là tác giả của không ít bài thơ ghi dấu ấn trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ, ít ra là thế hệ tôi. Không nói đến chất thơ thấm đẫm trong nhiều nhạc phẩm thời tân nhạc trước 1945, sau một số bài thơ được người đọc nhớ và thuộc trước 1945 như Quê lòng, Đêm mưa, Ai về Kinh Bắc, Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, Văn Cao bỗng rất ấn tượng trong bài Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, ra đời đúng thời điểm tháng Tám 1945, ghi nhận rất kịp thời thảm cảnh hai triệu người dân Việt chết đói; để cùng với những trang văn trong Địa ngục và lò lửa của Nguyên Hồng và ảnh của Võ An Ninh làm nên một Bảo tàng chứng tích tội ác của chủ nghĩa thực dân và ơn đổi đời của Cách mạng tháng Tám... Là trường ca Những người trên cửa biển với câu mở đầu “Sinh ra tôi đã có Hải Phòng” mà bất cứ người Việt Nam nào, trước hết là người dân Hải Phòng hiếm ai không nhớ; tựa như nhớ về Bà Huyện Thanh Quan trong bài Qua Đèo Ngang. Bên nhiều bài lẻ, Văn Cao còn có cả một tập thơ có tên viết âm thầm trong những năm khó khăn do sự kiện Nhân văn – Giai phẩm mà ông vướng phải, kéo dài từ 1956 đến 1986.

    Sau thơ, còn là văn xuôi, với các truyện ngắn mà một số đã được đăng trên Tiểu thuyết thứ Bảy - năm 1943, như Dọn nhà, Siêu nước nóng… góp một sắc màu riêng vào trào lưu văn học hiện thực cuối mùa bên Bùi Hiển, Mạnh Phú Tư, Kim Lân, Nguyễn Đình Lạp… Và - chưa phải là cuối cùng–Văn Cao còn một sự nghiệp rất đáng ghi nhận về hội họa, trong tư cách một họa sĩ, ngay từ trước 1945, với các bức tranh có tên Thái Hà ấp đêm mưa, Cuộc khiêu vũ của những người tự tử trong một Triển lãm nghệ thuật năm 1943. Chính với tư chất họa sĩ tài hoa đã “cứu” Văn Cao trong suốt 30 năm hoạn nạn. Ông không thể hoặc không được phép làm nhạc, làm thơ, mà chỉ có thể được vẽ để kiếm sống bằng các tranh minh họa cho báo, sách và làm bìa cho sách. Tôi nhớ vào những năm ấy, tác giả nào được Văn Cao vẽ bìa cũng đều rất vui sướng và hãnh diện, vì sự sáng tạo và nét tài hoa qua một chữ “Văn” trên một góc nhỏ của trang bìa.

    Bấy nhiêu điều về một nghệ sĩ lớn, với đóng góp trên nhiều lĩnh vực thơ văn, nhạc, họa; và ở lĩnh vực nào cũng đạt đỉnh cao, hoặc để lại dấu ấn sâu đậm như Văn Cao, tôi - một công dân Việt bình thường, chỉ có thể nói được đôi điều, với sự ngưỡng mộ và tấm lòng biết ơn. Để có thể phác dựng hoặc đi sâu vào sự nghiệp đó cần các chuyên gia trên từng lĩnh vực, và tôi rất chờ đợi, rất mong được đọc, được học trong dịp kỷ niệm 100 năm năm sinh Văn Cao vào 15 tháng 11 năm 2023 này.

 

 

VĂN CAO TRONG TÔI

THANH THẢO

    Tôi được quen biết rồi thân thiết với Văn Cao mới từ dạo năm 1984. Còn trước đó, vào tháng 11/1983, trong dịp Đại hội của Hội Nhạc sĩ Việt Nam (NSVN), mừng Văn Cao “chính thức trở lại” khi ông được đại biểu dự đại hội bầu vào Ban Chấp hành Hội NSVN, bạn bè có rủ tôi tới nhà ông chơi, “dự thính” một buổi tối “âm nhạc Văn Cao” do các nghệ sĩ nổi tiếng hồi đó trực tiếp trình diễn. Nhà Văn Cao chật nên các nghệ sĩ chỉ ngồi mà hát, khách mời cũng ngồi mà nghe, còn tôi và vài người bạn thuộc dạng “vòng ngoài” thì chỉ đứng nghe hát. Tôi nhớ, khi chúng tôi tới nhà Văn Cao, vào căn phòng của ông thì nghệ sĩ gạo cội Quang Hưng đang hát Trường ca Sông Lô. Giọng Quang Hưng vừa dày ấm vừa mãnh liệt, lại có những khoảng “xuống” đầy cảm xúc, khiến chúng tôi như mê đi.

    Sang năm 1984, có lẽ qua lời giới thiệu của Nguyễn Thụy Kha và Nguyễn Trọng Tạo về tôi, hình như lúc ấy Văn Cao cũng đã đọc trường ca Những người đi tới biển của tôi, mà theo lời Thụy Kha nói thì Văn Cao thích trường ca này, coi nó như nối tiếp trường ca Những người trên cửa biển của ông.

    Qua hai ông bạn Tạo, Kha, Văn Cao mời tôi đến nhà ông chơi. Đúng lúc tôi vừa từ Quy Nhơn ra Hà Nội, nghe lời mời này, tôi và Trọng Tạo, Thụy Kha “nhào” tới nhà Văn Cao ngay. Gặp một người “anh lớn” thì đúng rồi, nhưng không chỉ có thế, uống rượu với Văn Cao mới là chuyện thú vị hơn.

    Ngay từ lần gặp chính thức đầu tiên ấy, cả Văn Cao và tôi đều kịp nhận ra nhau, hình như là ở “anh em xã hội” mà Văn Cao là bậc đàn anh, còn tôi là đàn em, nhưng tôi nhận mình là bạn vong niên với ông thôi. Hồi đó tôi còn trẻ, tính tình ngang ngạnh, chỉ chơi với ai khi mình thật sự thích. Mà Văn Cao lại khiến tôi thích ông ngay ở lần gặp đầu tiên ấy. Ông chân thành coi tôi là bạn và tôi cũng vậy. Như thế là anh em tôi “có duyên” với nhau rồi. Khi Văn Cao muốn ủy quyền cho Thụy Kha và Trọng Tạo tổ chức bản thảo tập thơ giúp ông, các bài thơ đều lấy ra từ cuốn sổ tay nhỏ mà chữ viết lít nhít rất khó đọc, thì nguyên đề tập thơ ấy là. Chẳng biết Văn Cao hay Tạo, Kha đặt, nhưng “ông già” có vẻ ưng ý cái tên này. Và vẫn theo Tạo, Kha “truyền đạt”, thì Văn Cao chính thức mời tôi cùng tham gia biên tập bản thảo tập thơ với hai ông bạn “nhà thơ-nhạc sĩ” Nguyễn Thụy Kha, Nguyễn Trọng Tạo.

    Được tham gia biên tập bản thảo tập thơ cho Văn Cao là niềm vinh dự của ba đứa chúng tôi, chứ không hề có chuyện gì ở đây. Ai cũng biết, từ mấy chục năm cho tới lúc ấy, Văn Cao không xuất hiện thơ trên thi đàn chính thống. Văn Cao chỉ tập trung cho việc vẽ minh họa trên Báo Văn nghệ để kiếm những món tiền nhuận bút “còm cõi” cho bà Nghiêm Thúy Băng – vợ ông – đi chợ.

    Nhưng đã là nhà thơ, thì được in thơ chỉ là một chuyện, không là tất cả. Vì nhà thơ còn bút, còn giấy, còn những cuốn sổ tay nhỏ, là còn viết, là còn thơ. Văn Cao đã viết thơ như vậy, như một củ huệ lan chờ lúc bật chồi. Ngày xưa ấy, thơ trong sổ tay không chỉ có trong sổ tay nhà thơ, còn có quá nhiều trong sổ tay những người lính mang ra chiến trường. Đó là tài sản của họ, những người đọc thơ. Có những người lính đọc thuộc lòng những bài thơ mình yêu thích. Có những người lính, khi hi sinh, những cuốn sổ tay chép thơ của họ được lính Mĩ thu nhặt, và được họ mang về Mĩ. Chính những cuốn sổ tay chép thơ của lính “Việt cộng”được mang về Mĩ, được gìn giữ như những kỷ vật đáng quý ấy đã là “một phần đóng góp” cho tình hữu nghị Việt-Mĩ sau này. 

    Văn Cao biết, thơ không bao giờ chết, nếu đó là thơ hay.

    Kiên nhẫn cũng là đức tính mặc định của tài năng, hơn nữa, của thiên tài.

    Vài năm trước, khi vợ chồng tôi tới thăm vợ bác Văn Cao, gặp bà chị tuổi đã ngoài 90 mà vẫn tươi tỉnh, sắc diện đầy linh hoạt, tôi chợt nhớ bài thơ Khuôn mặt em Văn Cao viết tặng vợ mình năm 1974:

    “Dù hai đứa chúng ta
    Chưa lúc nào sung sướng
    Những ngày đau khổ ấy
    Khuôn mặt em
    Như mảnh trăng những đêm rừng cháy”

    Khi Văn Cao phải buột thốt từ “đau khổ” trong bài thơ, tôi biết, sự đau khổ ấy đã tới cùng cực. Nhưng vợ chồng ông vẫn kiên nhẫn sống, vì ông cảm nhận hoàn toàn chính xác:
    “Ôi khuôn mặt sáng trong và bình lặng
    Tôi được đầu tiên và còn lại cuối cùng”
                                       (Khuôn mặt em)

    
Văn Cao và Thanh Thảo (Ảnh: Nguyễn Đình Toán)

    Đúng là “đầu tiên” và “cuối cùng”, khi Văn Cao mất, ông đã gối đầu lên bàn tay của vợ mình.

    May mắn cho tôi, những năm tôi được gặp và chơi thân thiết với vợ chồng bác Văn Cao, tôi cảm nhận, đó là những năm hạnh phúc của vợ chồng bác. Dù bấy giờ đời sống vật chất vẫn đầy khó khăn, eo hẹp, nhưng hạnh phúc vượt lên trên những chuyện đó. Hạnh phúc là hạnh phúc, thế thôi.

    Như chuyện mỗi lần có chai rượu ngon, bạn bè tới, Văn Cao mở ra cùng uống, bao giờ ông cũng nhắc bà Băng: “Nhớ để dành một phần chai rượu cho Thái Bá Vân, cho Trịnh Công Sơn, cho Thanh Thảo nhé!”.

    Anh Thái Bá Vân ở Hà Nội, không xa nhà Văn Cao mấy, hay tới chơi, nhưng ông đặc biệt yêu quý Thái Bá Vân. Còn Trịnh Công Sơn ở tận Sài Gòn, lâu lâu mới ra Hà Nội, nên để rượu chờ. Tôi thì ở Quy Nhơn, nhà lại nghèo, mỗi lần ra Hà Nội phải đi tàu lửa, khá vất vả, nên ông thương tôi. Rượu lại chờ.

    Khi gia đình có chai rượu “chờ” bạn mình, khi ấy, gia đình có hạnh phúc.

    Tôi lại nhớ đến một kỷ niệm này. Khi cô con gái Văn Cao ở Ba Lan sinh con nhờ ông ngoại đặt tên cho cháu, Văn Cao đã lấy tên Thanh Thảo đặt cho cháu ngoại mình. Biết chuyện này, tôi đã hết sức cảm động. Càng vui hơn, khi lớn lên, cháu Thanh Thảo đã trở thành một pianist nổi tiếng ở Ba Lan.

    Còn chuyện năm 1985, nhân kỷ niệm 10 năm hòa bình thống nhất đất nước, tôi đề nghị hai lãnh đạo Đảng tỉnh Nghĩa Bình hồi ấy là anh Đỗ Quang Thắng, Bí thư và anh Võ Trọng Nguyễn, Phó Bí thư thường trực, mời vợ chồng Văn Cao vào thăm Nghĩa Bình. Đề nghị được các anh lãnh đạo Nghĩa Bình vui vẻ chấp nhận. Chuyến đi ấy của vợ chồng bác Văn Cao là chuyến đi thật vui, nhiều cảm xúc, khi Văn Cao được nhân dân và lãnh đạo Nghĩa Bình, Quy Nhơn tiếp đón nồng nhiệt và ân cần. Chuyến đi ấy đã tạo cảm hứng cho Văn Cao viết được 3 bài thơ rất ưng ý của ông: Quy Nhơn 1, Quy Nhơn 2 và Quy Nhơn 3:

    “Từ trời xanh
    rơi
    vài giọt tháp Chàm
    quanh Quy Nhơn
    tôi như đứa nhỏ
    yêu huyền thoại”
                  (Quy Nhơn 3)

    Tôi cũng rất vui, rất tự hào vì mình có góp chút công nhỏ làm nên chuyến đi này. Với 3 bài thơ Quy Nhơn, Văn Cao đã chính thức trở lại thi đàn thơ Việt. Và với cả sự nghiệp của mình, Văn Cao còn là một thiên tài thơ chứ không chỉ là thiên tài âm nhạc.

    Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Văn Cao (1923-2023), chợt thấy thời gian trôi nhanh quá. Bao nhiêu đổi thay sau ngày Văn Cao qua đời (1995), nhưng trong tôi, mãi vẫn là anh Văn đó, gầy gò, tươi vui với bạn bè em út, ngồi lặng lẽ nhấp từng hớp rượu nhỏ đầy trân trọng và yêu thương.

 

TRĂM NĂM VĂN CAO

NGUYỄN THỤY KHA

    Thời gian “vô thủy vô chung”. Thời gian – chiều thứ tư không gian. Thời gian lạ lùng. Chậm như ngừng trôi mà lại nhanh chớp mắt. Mới như rất gần, vậy mà đã trăm năm Văn Cao (1923-2023). Thực sự là ông đã rời xa dương thế 28 năm qua (10/7/1995) nhưng hình như trong tâm trí tôi và cả dân tộc Việt Nam, Văn Cao vẫn hiện diện, vẫn như hơi thở trong mỗi sớm chào cờ vang lên “Quốc ca”. Giai điệu khiến ta luôn rưng rưng tự hào khi nó vang lên trên các đấu trường quốc tế. Gần đây là World Cup Woman 2023. Dường như tình cờ, sự kiện ấy chính là mở đầu cho năm kỷ niệm trăm năm Văn Cao. Trong cuộc chạy marathon của một đời người, có lẽ ai cũng có điểm xuất phát như nhau. Những ai được nhìn bức ảnh Văn Cao cởi trần quần đùi chụp cùng các bạn đồng môn tiểu học trường Bonnal – Hải Phòng, thật khó đoán ra có một người trong đó trở thành tác giả “Quốc ca Việt Nam”. Họ hòa vào nhau trong nụ cười, trong những cuộc bơi lội dọc hoàng hôn sông Cấm. Vậy mà dần dà, số phận đã chia tách họ ra từng mũi bí mật. Sau những nghịch ngợm ấu thơ, sau những tờ báo in thạch của lớp học, họ đã bước qua tiểu học. Khi rời trường Bonnal sang học trường dòng Saint – Joseph ngay bên cạnh, có lẽ đấy là bước ngoặt quan trọng trong đời Văn Cao từ ngày khai sinh (15/11/1923). Ở đấy, bản năng “trời cho” của ông đã gặp âm nhạc, thi ca và hội họa để cùng thăng hoa trong cùng một “Thế hệ chín sớm” những năm 30 thế kỷ XX. Người ta sẽ còn mãi mãi lạ lùng, không thể lý giải vì sao mới 16 tuổi đời, hình như trong mùa thu thương nhớ nhà tiểu thuyết tài danh Vũ Trọng Phụng yểu mệnh (1912-1939), Văn Cao đã cất cao một giai điệu đầu sự nghiệp tràn ngập âm hưởng ca trù mang tên Buồn tàn thu. Còn ngạc nhiên hơn khi 18 tuổi, Văn Cao đã bay lên Thiên thai cùng thể loại âm nhạc trường ca khiến cho tân nhạc thuở bình minh làm ta xao xuyến mãi đến tận bây giờ. Cũng con người ấy, trong con người ấy tưởng chừng toàn phần là lãng mạn, là nghệ sĩ thì lại có thêm một con người hiệp sĩ với tài phi dao, bắn súng ngoạn mục. Cũng con người ấy với Cung đàn xưa, Thu cô liêu, Suối mơ, Bến xuân bảng lảng khói sương thì lại chợt bùng cháy trong nhịp hành khúc rắn rỏi, sử thi như Thăng Long hành khúc ca, Đống Đa,… Nhìn lại mới thấy tác động quan trọng của thời cuộc, thời mà những chiến sĩ cách mạng bí mật hoạt động làm “Quốc sự” đã tạo ra một hình tượng hiệp sĩ mới với tâm hồn tràn đầy lý tưởng. Hình tượng ấy đã cuốn hút, đã chinh phục Văn Cao dám vứt bỏ những hào quang mình đang có để “một giã gia đình một dửng dưng” như câu thơ Thâm Tâm trong Tống biệt hành độc sáng. Chính Tiến quân ca mà sau này trở thành Quốc ca Việt Nam được viết vào mùa đông 1944 đã là dấu mốc chuyển đổi quan trọng trong tư duy sáng tạo âm nhạc Văn Cao. Đấy là lời đoạn tuyệt với âm nhạc lãng mạn để bước sang địa hạt âm nhạc cách mạng, một hành trình vụt lớn như Phù Đổng trong 6 mùa thu. Một hành trình từ Buồn tàn thu đến Tiến quân ca như một quả bom ném vào dinh lũy thực dân mùa thu Cách mạng tháng Tám 1945. Không chỉ từng thăng hoa trong lãng mạn, Văn Cao đã thăng hoa thật phi thường, thật chất ngất khi viết Không quân Việt Nam, Bài ca chiến sĩ hải quân như một ước mơ lớn mạnh của lực lượng vũ trang lúc ấy còn vô cùng non trẻ cùng Chiến sĩ Việt Nam có bóng dáng của bộ binh và kỵ binh, Bắc Sơn in hằn hình ảnh người dân quân du kích. Nhiều người không biết sự biến chuyển trong tư tưởng thẩm mĩ Văn Cao trước và sau cách mạng rõ rệt nhất khi ông viết lại trường ca Trương Chi. Bên cạnh đóng góp về nhịp chèo thuyền nhát gừng miền trung du Bắc Bộ, còn là đóng góp một cách nhìn về sự cao đẹp độc nhất của chủ nghĩa cộng sản đích thực qua câu “Ngồi đây ta gõ ván thuyền/ Ta ca trái đất còn riêng ta”, câu mà sau này trong một cuộc phê phán chính trị, Văn Cao bị “quy chụp” là “cá nhân chủ nghĩa”. Một ứng xử nữa là lấy giai điệu Bến xuân viết lời tặng cho đoàn quân Nam tiến vào Nam Bộ kháng chiến và đặt tên là Đàn chim Việt. Lời Bến xuân thì lãng mạn nhưng kỳ diệu thay lời Đàn chim Việt thì lại trầm lắng anh hùng ca đến hết mức. Đấy chính là tài năng lớn riêng ở Văn Cao.

    Thật khiếm khuyết nếu chỉ nhắc riêng tới âm nhạc Văn Cao. Ngay từ nhỏ bước vào văn nghệ, Văn Cao đã tam tấu cả nhạc - thi - họa. Cái tâm trạng khiến Văn Cao kiên định khước từ tư tưởng thẩm mĩ lãng mạn là tâm trạng của một người muốn dứt tung xiềng xích nô lệ để được hít thở bằng lá phổi của người tự do. Cái tâm trạng ấy biểu hiện trong bức tranh Những người tự tử ở triển lãm “duy nhất” năm 1944, ngột ngạt trong câu thơ “Cái gì cũng thấy chơi vơi”. Ở bài lục bát Đêm ngàn và đẩy tới tận cùng trong Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc – một lưu giữ duy nhất bằng chữ về nạn đói năm 1945, quý giá như những bức ảnh cùng đề tài của Võ An Ninh. Văn Cao là như thế, thậm chí có lúc cực đoan muốn xóa bỏ con người nghệ sĩ trong mình, để con người hiệp sĩ độc nhất ngự trị. Không ai là không nể phục đội viên Đội ám sát Việt Minh, Văn Cao đã hạ sát tên Việt gian thân Nhật Đỗ Đức Phin ở Hải Phòng, bắn sượt tên tay sai Võ Văn Cầm, lùng sục Cung Đình Vận ở làng Lủ, Hà Nội,… Nhưng đến khi ý thức được sức mạnh của văn nghệ “Dùng cán bút làm đòn xoay chế độ/ Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền” như đồng chí Sóng Hồng (Trường Chinh) đã đúc kết, Văn Cao lại trở về văn nghệ để góp thêm sức mạnh đó.

    Chính cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp đã khiến cho tài năng Văn Cao đạt đến độ sáng rực rỡ. Mở đầu cho thời kỳ này lại chính là bài thơ dài Ngoại ô mùa đông 1946. Bài thơ này cùng những bài thơ Nhớ máu, Tình sông núi của Trần Mai Ninh, Hải Phòng – 19/11/1946 của Trần Huyền Trân, Đèo cả của Hữu Loan đã tạo ra một giọng điệu mới cho thơ kháng chiến khác hẳn thơ tiền chiến. Với 5 năm thăng hoa cùng toàn dân tộc, 5 năm đẹp nhất của thời kỳ đầu kháng chiến, Văn Cao như mải mê khai phá thêm mọi năng lực sáng tạo trong mình. Ở khu Ba, nghe tiếng chuông nhà thờ rung hoàng hôn, Văn Cao có Làng tôi với câu “chiều khi quân ác qua” mà người ta hay hát cụ thể là “chiều khi quân Pháp qua”. Gặp ngày mùa, Văn Cao có Ngày mùa đẹp như một bức tranh màu nước. Cả hai ca khúc xinh xắn này đều “Việt hóa” nhịp valse cung đình châu Âu thành nhịp làng quê Việt Nam. Làng tôi đã được dịch ra tiếng Nga và hát khắp Đông Âu, đỉnh cao là đi dọc sông Lô sau chiến thắng Thu Đông 1947 bắn cháy tàu chiến giặc, Văn Cao đã đưa sông Lô vào âm nhạc như J. Strauss đưa sông Đa Nuýp vào âm nhạc. Một bản trường ca vạm vỡ với rất nhiều đoạn chuyển điệu gần xa và có cả khúc chèo thuyền mới rất Việt sau Trương Chi đã được Văn Cao “vẽ” bằng âm thanh như một bức tranh sơn dầu khổ rộng. Ở đoạn kết, chủ đề Làng tôi đã được tái hiện qua câu “Dòng sông Lô trôi”. Nhờ hát được “Sông Lô” Hoàng Việt đã được tiếp nhận vào nhạc viện Sofia (Bulgaria). Cũng ở khu Ba, Văn Cao vẽ và triển lãm bức tranh Cây đàn đỏ và đặc biệt là dự báo ngày chiến thắng bằng hành khúc Tiến về Hà Nội trước ngày sự thật diễn ra 6 năm sau. Nhưng rạn nứt vì khác nhau ở tư tưởng thẩm mĩ đã dẫn đến cuộc tranh luận “thơ không vần” ở chiến khu Việt Bắc. Đấy là điểm khởi đầu cho một bi kịch Văn Cao trong cuộc đối đầu giữa mới mẻ và cũ kỹ, giữa tài năng và quyền lực. Nhưng sự hi sinh dâng hiến lớn lao của dân tộc trong kháng chiến vẫn khiến cho Văn Cao đi tới một đỉnh cao nữa trong âm nhạc, đấy là sử dụng thể loại ca khúc nghệ thuật ngơi ca lãnh tụ cuộc cách mạng qua nhạc phẩm Ca ngợi Hồ Chủ tịch. Ở đấy, ông dựng hình tượng Bác Hồ là “tay công nhân của thế giới mới lên” sau khi “ánh dương ngời trong ngục tù”.

    Tư tưởng luôn luôn vươn tới sự mới mẻ trong nghệ thuật luôn luôn thúc giục Văn Cao tìm tòi trong cảm thụ và cảm xúc ở mọi loại hình nghệ thuật. Bức tranh Người thổi sáo được vẽ bằng họa phái lập thể với cậu bé thổi sáo có hai mầu đã bị phê phán, mặc dù câu thơ “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa” của Bác Hồ chính là câu thơ ca ngợi họa phái này của người bạn danh họa Picaso. Nhiều năm ông không viết ca khúc mà viết tiểu phẩm piano Sông Tuyến, Biển đêm, Hàng dừa xa hướng về khát vọng thống nhất, làm thơ trong im lặng sau khi công bố trường ca Những người trên cửa biển ở tập thơ in chung với Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt. Ông vẽ bìa, minh họa sách để kiếm sống qua ngày. Ngay cả khi được lời đề nghị chân thành của GS Nguyễn Văn Hiếu viết một hành khúc cho Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam, thì hành khúc Dưới cờ giải phóng được ông viết ra cũng chỉ được thu thanh và phát trên đài rất ít lần. Giữa những âm thầm như thế, Văn Cao lại lấp lánh lên những thi phẩm mới mẻ như Năm buổi sáng không có trong sự thật, Đêm quán, Phố Phái, Đôi bạn,… và chính trong những ngày chống Mĩ ác liệt, ông chợt lắng lại trong một giai điệu tràn đầy âm hưởng dân tộc H’mông qua ca khúc Đường dây qua bản Mèo bên cạnh công trình nghiên cứu về sự dịch chuyển Bắc Nam của bài quan họ Con sáo sang sông rất độc đáo và thuyết phục. Hơn hết, ông đã viết một tổ khúc giao hưởng về người lính mang tên Anh bộ đội cụ Hồ cho một phim tài liệu của Xưởng phim Quân đội. Sau Hiệp định Paris, ông viết hợp xướng Hải Phòng mở ra biển lớn và đặc biệt sau ngày giải thống nhất, trong mùa xuân 1976 là khúc khải huyền Mùa xuân đầu tiên. Nhưng mặc dù nhạc phẩm này đã in trên Báo Sài Gòn giải phóng số Tết xuân Bính Thìn, nó vẫn không được thu thanh ở Đài Tiếng nói Việt Nam, mặc dù nó đã được dịch ra tiếng Nga và in ở Nhà xuất bản Âm nhạc của Liên Xô, Mùa xuân đầu tiên vẫn chìm trong im lặng hàng thập kỷ. Phải đến sau khi Văn Cao tạ thế, Mùa xuân đầu tiên mới được khai sinh và lớn nhanh trong lòng người bởi sự ký thác mang tầm nhân loại của nhạc phẩm này. “Từ đây người biết quê người/ Từ đây người biết thương người/ Từ đây người biết yêu người”. Văn Cao đã đưa người lính ra đi ở Tiến quân ca và đưa người lính trở về ở Mùa xuân đầu tiên.

    Trong biến chuyển của lịch sử, số phận Văn Cao cũng dần dà biến chuyển theo. Ở Đại hội Hội Nhạc sĩ Việt Nam lần thứ Ba mùa thu 1983, Văn Cao đã trở lại vị trí Ủy viên Ban Chấp hành sau bao năm rời khỏi. Năm ấy, Văn Cao vào “lục tuần”. Một chương trình âm nhạc Văn Cao mang chất thính phòng để mừng thọ ông đã được Hội Nhạc sĩ Việt Nam tổ chức rất ấm áp tại số 51 Trần Hưng Đạo, ở phòng hòa nhạc. Trong chương trình ấy, sau rất nhiều năm chìm khuất, nữ ca sĩ Kim Ngọc đã hát lại Thiên thai, Trương Chi, Suối mơ,… Cũng lần đầu tiên người ta mới nghe ba tiểu phẩm piano nói trên do Đặng Hữu Phúc trình tấu. Và đặc biệt là nghe chính ông chơi piano bằng cả nắm đấm bằng cả cùi tay theo tinh thần âm nhạc của trường phái “Tiên phong” (Avant-Garde). Một buổi chiều rỉ máu. Từ đấy, Văn Cao cũng chầm chậm phục sinh. Ông trở lại với giai điệu lòng mình qua Hành khúc công nhân toa xe, qua Tình ca trung du mang hơi thở nhạc trẻ trong chuyến trở lại Phú Thọ sau bao năm xa nơi ông viết Trường ca Sông Lô. Năm 1985, Văn Cao có chuyến xuyên Việt từ Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Nha Trang, Sài Gòn vào đến tận Cần Thơ. Cần Thơ là nơi xa nhất trên đất nước mà bước chân Văn Cao đi tới. Trong chuyến hành phương Nam này, Văn Cao đã thực sự phục sinh khi viết ba bài thơ Quy Nhơn và được Báo Văn nghệ giới thiệu sau bao năm bặt tiếng trên chính tờ báo mà ông vẽ vi-nhet từ thuở chiến khu. Hứng khởi khiến cho năm ấy, Văn Cao vẽ được bức sơn dầu Người leo cột mỡ với những đường nét rất hiện đại của họa phái tối giản bằng năng lực đồ họa của ông. Và Văn Cao cũng không phải chờ lâu hơn nữa. Ngay sau khi bắt đầu thời kỳ mở cửa, đổi mới một năm, mùa xuân 1988, “Đêm nhạc Văn Cao” đã trình diễn buổi đầu tiên tại Trung tâm Văn hóa Hà Nội ở phố Hàng Buồm. Và suốt năm ấy gần một trăm đêm “Đêm nhạc Văn Cao” đã diễn ra ở Hà Nội. Trong chương trình, người thưởng thức được nghe lại nhiều ca khúc lãng mạn thời tiền chiến của Văn Cao, rồi được nghe một vài bài thơ Văn Cao. Cũng năm ấy, tập thơ của ông đã được Nhà xuất bản Tác phẩm Mới (nay là Nhà xuất bản Hội Nhà văn) ấn hành. Nhà xuất bản Trẻ ở Sài Gòn cũng ấn hành tập nhạc - thi - họa Thiên thai của Văn Cao. Mọi cảm xúc phục sinh được Văn Cao viết trong bài thơ Ba liên khúc ở tuổi 65. Từ đấy dường như Văn Cao trẻ lại. Ông và vợ được mời đi ngao du nhiều nơi. Mùa xuân năm Canh Ngọ 1990, Tố Hữu đến thăm Văn Cao sau 32 năm không gặp mặt. Một mùa xuân tái ngộ. Văn Cao vẫn vui vẻ trong việc viết ra những thi phẩm cô đọng, vẽ nên những họa phẩm bằng sơn dầu. Sau “Cuộc vận động sáng tác Quốc ca mới” năm 1981, Quốc Hội đã khẳng định thêm lần nữa rằng Tiến quân ca của Văn Cao là “Quốc ca Việt Nam”. Năm Văn Cao bước vào “Nhân sinh thất thập” là năm 1993. Ở tuổi “xưa nay hiếm”, Văn Cao đã được mừng thọ bằng một chương trình ca nhạc “Văn Cao – một đồng hành với tuổi trẻ” tại Cung Văn hóa Thanh niên Hà Nội ở phố Tăng Bạt Hổ. Vợ chồng Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến dự và rất cảm động. Hai ông Văn (người đời thường gọi Đại tướng là ông Văn và Văn Cao cũng là ông Văn) ngồi bên nhau như đôi bạn vong niên tri kỷ. Ông Giáp luôn coi trọng Văn Cao vì ông coi như Tiến quân ca là Văn Cao viết cho Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân do ông chỉ huy ra đời ngày 22/12/1944. Hơn nữa, cuộc đời hai ông cũng đầy thăng trầm. Và hơn nữa, họ cùng biết “chiến thắng chính mình”.

    Văn Cao quê ở Vụ Bản – Nam Định nhưng sinh ra ở Nhà máy Nước Hải Phòng đằng sau Nhà hát Lớn. Đấy là lý do ông viết câu mở đầu trường ca Những người trên cửa biển: “Sinh ra tôi đã có Hải Phòng”. Chính trong trường ca này, Văn Cao đã có một câu thơ định nghĩa về tính cách và sức sống của người Hải Phòng hay đến mức xuyên thời gian. “Ở đây một con cá ném lên trời cũng sống”. Vì sinh ra ở Hải Phòng nên từ lâu, người Hải Phòng luôn coi ông là người Hải Phòng gốc. Nhưng từ khi ông rời khỏi Hải Phòng và nổi tiếng là một bậc tài danh, ông vẫn chỉ về Hải Phòng như một người bình thường về thăm quê. Mãi đến sinh nhật năm 71 tuổi, Văn Cao mới được Thành ủy Hải Phòng chính thức mời về thành phố cùng chương trình nhạc Văn Cao mùa đông 1994. Một vòng tròn tương sinh đã khép lại sau 71 năm từ Nhà máy Nước Hải Phòng (sau Nhà hát Lớn) trở về Nhà hát Tháng Tám (Rạp Lido cũ) ở ngay bên kia đường đối diện Nhà máy Nước. Đấy là ngày về thành phố tuổi thơ của người con ly hương đã tóc trắng, râu trắng cùng ly rượu trắng luôn không rời tay. Và đấy cũng là lần cuối cùng của ông trên cõi đời. Ngày 10/7/1995, sau Đại hội Nhạc sĩ Việt Nam lần thứ V chừng một tháng, Văn Cao đã bay lên cõi thiên thai cùng giai điệu Thiên thai.

    28 năm sau ngày mất và một trăm năm ngày sinh Văn Cao cũng chỉ là một chớp mắt của thời gian vô thủy, vô chung. Nhưng thời gian không những không lãng quên tên tuổi Văn Cao mà qua thời gian, tên tuổi ông lại càng hiện diện, càng ngời sáng, càng lấp lánh như một vì sao trên đất nước thân yêu của mình.

 

TƯ TƯỞNG LÀ CỐT TỦY CỦA THI CA

PGS, TS NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP

    “Tôi không đi qua tôi/ để lại gì?” – Văn Cao.

    Văn Cao là “một thác lũ nghệ thuật trùm lấp vòm trời kinh đô văn nghệ” (Tạ Tỵ)1 và “sang trọng như một ông hoàng” trong âm nhạc (Trịnh Công Sơn)2. Cho dù cuộc đời và số phận những đứa con tinh thần của ông có lúc bị bầm dập theo thời cuộc thì tầm vóc của Văn Cao không vì thế mà bị suy giảm. Trái lại, qua thời gian, những kiệt tác nghệ thuật của ông ngày càng lộng lẫy. Bởi ông là một tài năng xuất chúng, không ít lần Văn Cao chạm bút là những lần ông khởi tạo những dòng châu ngọc đạt ngưỡng thiên tài. Thiên thai, Trương Chi, Tiến quân ca, Sông Lô, Mùa xuân đầu tiên… là những bảo chứng nhãn tiền.

    Trong lĩnh vực thi ca, Văn Cao viết không nhiều. Sinh thời, ông chỉ cho xuất bản duy nhất tập gồm 28 bài, sau ngày ông mất, Tuyển tập Văn Cao thơ cũng chỉ có 59 bài3 . Nhưng di sản nghệ thuật Văn Cao có khả năng tồn tại lâu dài bởi đó là sự kết tinh về chất chứ không phải áp đảo về lượng. Tài năng của ông hiện rõ trong thơ, nhạc, họa nhưng so với nhạc và họa, thơ là lãnh địa thể hiện rõ nhất bản ngã Văn Cao. Tại đó, ông trực diện lựa chọn thái độ: “Giữa sự sống và sự chết/ Tôi chọn sự sống/ Để bảo vệ sự sống/ Tôi chọn sự chết” (Chọn, 1957), nhận thấy mặt trái của những tấm huân chương: “Người ta đôi khi bị giết/ bằng những bó hoa” (Những bó hoa, 1974) và cô đơn, rạn vỡ: “Có lúc/ một mình một dao giữa rừng đêm không sợ hổ/ Có lúc/ ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt/ Có lúc/ nước mắt không thể chảy ra ngoài được” (Có lúc, 1963). Thơ cũng là nơi Văn Cao tự tri nhận về số phận mình trong các mối tương quan:

    “Tôi không được làm trái đầu mùa
    Những trái cây
    cao giá
    Tôi
    Một trái cây muộn
    còn sót lại cành
    Vị cuối cùng
    Mùa cuối cùng
    Rớt xuống…
    Mới thật hiểu
    Sự sống thật của mình”
                            (Sự sống thật, 1970)

    Thơ Văn Cao độc đáo ngay từ khởi đầu bởi đó là sản phẩm của những chiêm nghiệm sâu sắc đậm chất triết luận. Sâu đến mức lặng lẽ, sự lặng lẽ xoáy xiết của sóng ngầm: “Như viên đá rơi vào im lặng”. Vì biết đào sâu vào lõi trầm đời sống mà Văn Cao bỏ qua cái sặc sỡ thời thượng bề ngoài để “xuyên tường” tìm ngọc. Thức dậy những linh cảm nhạy bén, Văn Cao thấy rõ nguyên ủy của tồn sinh bằng huệ nhãn: “Những tiếng hát đuổi nhau trên các ngọn núi/ Còn lại một hồ nước/ Trên họng một ngọn núi cạn lửa” (Cạn). Hồ nước không chỉ là biểu tượng về sự sống mà thực ra cũng là nơi soi bóng bản thể Văn Cao. Tổ chức cấu trúc thơ Văn Cao chủ yếu thi triển theo nguyên tắc này. Từ những tình thế và các mối tương quan trong đời sống thường nhật, ông đẩy đến cùng mạch suy tư, chiêm nghiệm để ngộ ra những điều sâu xa của thế giới, nhân tâm. Có lẽ vì thế mà Văn Cao thường nhắc đến mối tương quan đầu tiên-cuối cùng. Đầu tiên là khởi, nhưng cũng là đích. Cuối cùng là đích nhưng cũng là khởi. Giữa chúng là cả một thế giới, “có xót xa có cả vui mừng”, có bĩ-thái đan xen. Đi qua những biến dịch thời cuộc và hỉ, nộ, ái, ố, những trạng thái sâu xa của đời sống được chắt lắng lại qua trải nghiệm cá nhân, Văn Cao tìm thấy nghĩa lý nhân sinh trong những điều còn lại. Còn lại trong cảm giác: “Dĩ vãng giữ trong tôi như một mùi cỏ/ Thơm ủ trong tóc người yêu”. Còn lại sự giác ngộ: “Vị cuối cùng/ Mùa cuối cùng/ Rớt xuống/ Mới thật hiểu/ Sự sống thật của mình”. Còn lại những tinh hoa: câu thơ còn xanh, bài hát còn xanh. Còn lại tình yêu đích thực: “Ôi khuôn mặt sáng trong và bình lặng/ Tôi được đầu tiên và còn lại cuối cùng”... Những thuận lý và nghịch lý này đi vào thơ Văn Cao, qua phóng chiếu của tâm hồn ông, không bao giờ đứng yên mà luôn triển nở, rồi bùng vỡ lúc tới độ cao trào. Khi độ căng mĩ học thơ được giải phóng, đó là lúc bài thơ “mở ra vạn lối” cho người đọc từ hiệu ứng giữa sáng tạo và tiếp nhận. Từ đó, những lớp sóng nghĩa sẽ xâm chiếm người đọc như những dư âm còn mãi: “Nhớ một điệu đàn/ Vũng sao khuya sóng sánh”. Mĩ học thơ Văn Cao là thứ mĩ học mở. Mở vì tính dự báo sâu xa và những tiên cảm vượt thời. Mở để mời gọi và kích hoạt suy tưởng của người đọc về giá trị nhân sinh trong những cơn trở mình của lịch sử. Từ độ mở của văn bản, người đọc sẽ tự phát hiện ra các bí mật theo cách của mình. Tựa như khi đứng trước bí mật của biển khơi:

    “Đảo chìm
    Xanh biển
    Đáy sâu khỏa nắng
    Chân trưa
    Ngàn đáy sâu tới đáy khôn cùng”
                                      (Đảo, 1970)

    Sự độc đáo của Văn Cao là ở đấy. Thực tại trong thơ ông không hiện lên theo chiều tuyến tính hay cấu trúc mặt phẳng mà luôn biến ảo và chuyển động. Vì Văn Cao biết nối các khoảng không/ thời gian vào một thể, đặt những sự vật xa nhau lại gần nhau để tạo bùng nổ thẩm mĩ. Nói thế để thấy, bên cạnh sự nhạy cảm thiên phú, gốc rễ tạo nên tầm vóc Văn Cao là chiều sâu tư tưởng và ý thức mài sắc cá tính. Đó là tư tưởng nhân văn và tinh thần duy mĩ. Nhân văn giúp Văn Cao biết căm ghét ngụy tạo, giả dối, biết yêu tự do và gắn bó số phận mình với số phận dân tộc. Duy mĩ giúp Văn Cao đề cao cái đẹp và sự thanh khiết của những giá trị tinh thần. Ý thức xác lập cái riêng trong nghệ thuật đã giúp cho cách nói của Văn Cao là tiếng hát của chàng Trương Chi hiện đại không hề bị lẫn, lặp. Mặc dù hấp thụ tư tưởng nghệ thuật phương Tây và khí quyển văn hóa thời đại nhưng việc bám sâu vào gốc rễ văn hóa phương Đông đã giúp cho Văn Cao biết cách chiết xuất các nguồn dưỡng chất này thành những kết tinh nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân. Điều đó có thể rất rõ trong các giai đoạn nghệ thuật của Văn Cao: lãng mạn thời đầu; hùng tâm tráng khí và đầy tính hiện thực ở chặng thứ hai; dằn vặt, trăn trở và đầy bản lĩnh ở giai đoạn thứ ba. Nếu như ở thời lãng mạn, Văn Cao mơ về một thế giới mộng ảo với những khúc hát u hoài, xa vắng thì về sau, thơ ông gần gũi với lời ăn tiếng nói thường ngày nhưng được chắt lọc, ươm ủ kỹ càng. Vì thế, thơ ông đạt tới sự uyên súc, giản dị, thứ giản dị mang chứa cả một sự khéo léo lớn, một nội lực thâm hậu. Sợi dây triển khai thi tứ trong thơ Văn Cao chủ yếu được tổ chức theo hướng từ một giọt ánh sáng mà nhìn thấy sự vô tận của trời xanh, từ một hạt bụi mà mường tượng được cả những con đường và dấu xe. Đó không phải là dấu xe của hiện thực thông thường mà là dấu xe của suy tưởng vì nó là sản phẩm của nỗ lực “mở ra những quãng ngược và quãng xuôi, những cái không nói tới mà người đọc càng tìm thấy mãi” (Mấy ý nghĩ về thơ, 1957). Mĩ cảm và tầm nhìn của Văn Cao đích thực là mĩ cảm, tầm nhìn của một nghệ sĩ có tư tưởng.

    Ý thức khám phá thực tại ở bề sâu đã thôi thúc Văn Cao khởi tạo khuynh hướng đưa thơ đi về phía suy tư, triết luận. Đó không đơn thuần là câu chuyện hình thức bề ngoài, vì sâu xa, nó gắn liền với những nghiền ngẫm của ông về các hệ hình nghệ thuật: “Chúng ta đã qua một thời kỳ dài thiên về cảm xúc và một thời kỳ cảm giác. Cái thời kỳ thiên về tư tưởng có phải đang bắt đầu không?”. Điểm quan trọng nhất trong “thời kỳ thiên về tư tưởng” là “nhà thơ phải chủ động thành lập nên sự thẩm mĩ mới cho người đọc, chủ động xây dựng con người biết tư tưởng, cảm xúc và cảm giác tinh tế như mình trong xã hội đương thời và cả xã hội sau này” (Mấy ý nghĩ về thơ). Muốn thế, nhà thơ không thể là “kẻ ăn sẵn”, anh ta phải khám phá tầng lõi của thực tại để kiến tạo thế giới nghệ thuật bằng cái nhìn cá nhân. Điều đó lý giải vì sao thơ Văn Cao thường ghìm nén cảm xúc, nói ít gợi nhiều. Ông biết cách để giấu “nồng” sau “đạm”. Và nó cũng lý giải vì sao Văn Cao luôn nhấn mạnh vai trò của “ego” trong sáng tạo nghệ thuật. Đó phải là cái “ego” bản ngã chứ không phải một phiên bản vay mượn nào khác:

    “Con thuyền đi qua
    để lại sóng
    đoàn tàu đi qua
    để lại tiếng
    đoàn người đi qua
    để tại bóng
    tôi không đi qua tôi
    để lại gì?”
                  (Không đề, 1967)

    “Đi qua tôi” thực chất là một xác tín về tự do cá nhân trong lĩnh vực tinh thần. Tại đó, nhà thơ tự do cất lên tiếng nói của mình trong tư cách là một nghệ sĩ và một kẻ sĩ vì sự tiến bộ nghệ thuật. Dĩ nhiên đã có thời điểm, vì ý thức bảo lưu cái tôi mà Văn Cao và một số cây bút có xu hướng cách tân bị coi là “xa rời quần chúng”. Cuộc tranh luận văn nghệ Việt Bắc năm 1949 cho thấy sự khác biệt về quan điểm mĩ học thi ca qua trường hợp Nguyễn Đình Thi. Riêng với Văn Cao, thơ ông vẫn rất giàu cảm hứng công dân mà Những người trên cửa biển là trường hợp điển hình. Tuy nhiên, ông luôn kiên định với ý hướng cách tân và mài sắc lối viết đề cao tư tưởng và bản sắc cá nhân. Nhà thơ trân trọng những kẻ dám mở đường vì mục đích cao nhất của nó là “mở cho tất cả những giấc mơ, những sáng tạo của con người tự do phát triển bay đi xe mật về ổ”. Đó cũng là khát vọng lớn nhất của Văn Cao trong sáng tạo nghệ thuật. Có lẽ vì thế mà khi đọc Văn Cao, Đặng Tiến đã dành thời gian phân tích biểu tượng . “Lá Văn Cao”, qua cái nhìn Đặng Tiến là “Lá khát vọng”4. Song, nếu đặt ký hiệu/ biểu tượng này trong tổng thể thơ Văn Cao, tôi nghĩ, có thể hình dung về nó như một thứ “lá tư tưởng” của Văn Cao. Một tư tưởng dấn thân và dám chấp nhận: “Người ta yêu những người cố mở đường mà thất bại, yêu những người biết thất bại mà dám mở đường” (Mấy ý nghĩ về thơ). Về bản chất, quan niệm này rất gần với Nam Cao: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những gì chưa có” (Đời thừa, 1943). Những tài năng nghệ thuật bao giờ cũng thế, luôn tìm kiếm cái mới vì cái mới là hiện thân sống động nhất của tiến bộ nghệ thuật.

    Cái mới trong thơ Văn Cao trước hết hiện lên qua mĩ cảm và cái nhìn nghệ thuật của nhà thơ. Văn Cao viết nhiều về những mùa thu đượm buồn, mang theo khát vọng đẹp sau những phôi pha. Nhưng khi nói về hi vọng, Văn Cao thường chọn gam sáng của mùa xuân. Nhưng dù viết về mùa nào, chủ đề nào thì thơ Văn Cao vẫn là những suy tư ráo riết về lịch sử, thời thế và phận người. Văn Cao không cũ vì ông ít hứng thú với kiểu cao đàm khoát luận. Ông lặng lẽ phát hiện cái đẹp bình dị thường ngày. Đó có thể là một “lòng núi”, “đường rừng” hay “một đêm Hà Nội”, một “đêm phá Tam Giang”, một ngẫm ngợi khi “tuổi già đến”… Vấn đề là từ những thứ tưởng như không mấy ai để ý, Văn Cao nhận ra sự trinh nguyên và vĩnh cửu của cái đẹp. Đó là kết quả của “một khám phá về chất” như M. Proust đã từng nói về phong cách nghệ thuật nhà văn. Văn Cao lạ bởi ông biết rọi vào đối tượng bằng cái nhìn “tương giao” giữa cảm giác và trí tuệ theo quy chiếu thẩm mĩ cá nhân. Nếu ở những sáng tác đầu tay như Ai về Kinh Bắc, Đêm mưa, Đêm ngàn, mĩ cảm Văn Cao vẫn còn bị ám bởi mĩ học lãng mạn và hơi thở Đường thi thì đến Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Văn Cao đã hoàn toàn thoát bóng Thơ mới. Trong cái nhìn của ông, thực tại lúc bấy giờ mang khuôn mặt của “một mùa địa ngục”. Nhà thơ tái hiện nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945 một cách ấn tượng bằng bút pháp tượng trưng: “Ngã tư nghiêng nghiêng đốm lửa/ Chập chờn ảo hóa tà ma…/ Đôi dãy hồng lâu cửa mở phấn sa/ Rũ rượi tóc những hình hài địa ngục/ Lạnh ngắt tiếng ca nhi phách giục/ Tình tang… Não nuột khóc tàn sương/ Áo thế hoa rũ rượi lượn đêm trường/ Từng mỹ thể rạc hơi đèn phù thể/ Ta đi giữa đường dương thế/ Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây”… Đây là thi phẩm đánh dấu sự thay đổi mang tính bước ngoặt: từ một Văn Cao lãng mạn sang một Văn Cao hiện thực, một Văn Cao mộng ảo sang một Văn Cao trần thế với nỗi đau người. Có thể cắt nghĩa về sự thay đổi trong quan niệm và thực hành nghệ thuật Văn Cao từ nhiều lý do khác nhau như sự tác động của Vũ Quý, quá trình tham gia cách mạng, lòng yêu nước của người nghệ sĩ biết gắn bó với đất nước, nhân dân nhưng trước hết, đó là sự thay đổi xuất phát từ nhận thức của chính nhà thơ về thực tại. Vì thế, nếu ở Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc chứng kiến một Văn Cao buồn đau ai oán thì đến Ngoại ô mùa đông 1946 là một Văn Cao hân hoan trước trước sức mạnh thác lũ của những người cùng khổ đứng lên tự giải phóng mình khỏi vòng nô lệ:

    “Reo lên! A reo lên
    Xóm cùng khổ
    Reo lên! Reo lên!
    Băng mình vào đạn lửa
    Cuồn cuộn chảy xô lòng Hà Nội vỡ”
                               (Sóng lũ Hồng Hà)

    Cùng với “tam tuyệt thi” là Nhớ máu (Trần Mai Ninh), Hải Phòng 19/11/1946 (Trần Huyền Trân), Đèo Cả (Hữu Loan), Ngoại ô mùa đông 1946 của Văn Cao đã góp phần xác lập kiểu diễn ngôn nghệ thuật mới của thời đại ngay trong những ngày đầu kháng chiến. Đó là kiểu diễn ngôn tràn đầy lạc quan, khác hẳn kiểu diễn ngôn buồn thương thời Thơ mới mà trước đó chưa lâu ông vẫn còn bị ảnh hưởng.

    Có một thực tế là Văn Cao làm thơ nhiều nhất trong thời kỳ “bóng tối”, khi ông bị đẩy ra “bên lề” sau tai nạn Nhân văn – Giai phẩm. Thời gian này, Văn Cao chủ yếu lo mưu sinh, lặng lẽ tập trung vào đồ họa và viết nhạc khi có đặt hàng. Đó là cả một quãng thời gian rất dài, Văn Cao chìm trong cô đơn. Người ta hầu như không còn nhìn thấy nụ cười trên “khuôn mặt nhàu nát” của ông. Phương cách tự cân bằng sinh thái tinh thần duy nhất là ký thác nỗi uất nghẹn “bất phùng thời” vào thơ ca, “vịn vào câu thơ mà đứng dậy” để không bị “ngã lòng”. Đây cũng là giai đoạn Văn Cao viết nhiều về bè bạn. Chủ yếu họ hiểu nhau qua giao cảm không lời vì đó là cách giao cảm của những kẻ “cùng một lứa bên trời lận đận”. Vì thế, viết về bạn bè là cách để Văn Cao được nhìn thấy mình trong họ, thấy họ trong mình, từ đó vững tin hơn về sự trường tồn của các giá trị: “Cái chết của anh cái chết một nhà văn/ Không bao giờ là cái chết” (Với Nguyễn Huy Tưởng, 1960).

    Trong thơ Văn Cao, mắt xuất hiện nhiều như một ám ảnh. Mắt là tâm hồn, là tiếng nói, là nơi phân biệt thật, giả, ngay thẳng và đớn hèn. Đặc biệt, mắt là biểu tượng lớn về một tình yêu thanh khiết, thủy chung mà Văn Cao may mắn có được. Nó trở thành báu vật đi suốt đời ông, giúp ông vượt lên mọi ngặt nghèo số phận: “Và đôi mắt em/ như hai giếng nước”. Và chính Văn Cao, trong sự tự biểu hiện, vẫn biết nhận chân thế giới này bằng con mắt “lặng lẽ lấp lánh” còn lại, khi mà con mắt kia bị che phủ bởi “bóng đen” người khác (Nguyệt thực). Đó là bi kịch của chữ tài bị vùi dập bởi chữ tai. Nguyễn Thụy Kha đã hiểu được Văn Cao trong những thời điểm khốn khó ấy: “Lọc chắt từ đáy những tâm trạng, số phận, nỗi niềm, thơ Văn Cao đã sáng lên những kinh nghiệm qua những éo le”5. Tôi nghĩ, thứ kinh nghiệm lớn nhất mà Văn Cao có được chính là bản lĩnh để tồn tại, kiên định sáng tạo để vượt tình thế. Khi cuộc sống có quá nhiều bất trắc, hẳn không phải một lần mà rất nhiều lần Văn Cao rơi vào thảng thốt: “Có lúc/ một mình một dao giữa rừng đêm không sợ hổ/ Có lúc/ ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt/ Có lúc/ nước mắt không thể chảy ra ngoài được” (Có lúc, 1963). Thậm chí, một tiếng động cửa cũng tạo nên những giật mình kinh sợ:

    “Một tiếng động khóa
    Xin mời vào
    Cánh cửa mở ra thật rộng
    Chỉ thấy
    Một chiếc cầu thang nhà trên gác
    Và ánh sáng
    không động đậy
    Một giọt mồ hôi
    Lăn trên trán tôi”
                            (Cánh cửa, 1960)

    Hóa ra, đó là tiếng động của ảo giác. Thế mới biết những phấp phỏng, lo âu đã ăn sâu vào vô thức nhà thơ. Nhưng vượt lên nghịch cảnh, Văn Cao là một “khúc thép đỏ” được tôi rèn từ nghiệt ngã: “Tiếng kêu ở trong tôi/ Có xót xa có cả vui mừng/ Tiếng kêu của một khúc thép đỏ/ Trong chậu nước” (Cạn, 1958). Là “khúc thép đỏ”, Văn Cao lặng lẽ nuốt vào mình những nỗi đau thân phận. Bản lĩnh của Văn Cao là ở chỗ, ngay trong quãng thời gian trớ trêu nhất của số phận ông chưa bao giờ rời xa mĩ cảm nghệ thuật mà ông đã kiên trì theo đuổi. Nhưng Văn Cao không đi về phía duy ngữ kiểu Trần Dần, Lê Đạt, cũng không đưa thơ trôi về phía tượng trưng kiểu Hoàng Cầm mà tăng cường chất triết luận và màu sắc suy tưởng. Sức gợi của thơ ông bắt nguồn từ “khoảng trống giữa lời” và khả năng tiết chế cảm xúc để tạo hàm súc dư ba. Thơ Văn Cao giản dị nhưng hết sức tinh lọc. Các tầng nghĩa được nảy sinh từ những tương quan mà Văn Cao nối kết, phát triển tới cực đại, từ đó mở ra các chiều ngẫm ngợi cho người đọc. Đó cũng là phương cách tạo hiệu quả thanh lọc (catharsis) của riêng ông. Không phải ngẫu nhiên mà Văn Cao nói nhiều về mơ, vì mơ cũng là một thực tại, nơi ấy “cái tôi ẩn giấu” được thức dậy sau những ngủ vùi: “Khi đêm tối tất cả người tôi thức dậy/ Những đam mê quên ngủ suốt ngày” (Thức dậy). Trong số những thi phẩm của Văn Cao viết vào thập kỷ bảy mươi, Giấc mơ là một bài thơ độc, lạ:

    “Dưới mái nhà
    Một người đang ngủ
    Với giấc mơ của những vì sao
    Những vì sao đang kể chuyện
    Giấc mơ của mái nhà
    Giấc mơ của một người đang ngủ”

    Sự tài hoa của Văn Cao là ông đã nối kết các không gian rất tinh tế: giấc mơ của những vì sao và giấc mơ của mái nhà, của một người đang ngủ. Đây là những giấc mơ hô ứng, có khả năng xuyên qua mọi giới hạn để con người được sống trong sự “toàn nguyên” bản thể. Với bài thơ này, Văn Cao đã góp vào tư duy thơ Việt hiện đại một phóng chiếu khác, táo bạo vì những đường kỷ hà nghệ thuật khác lạ. Đó là những giấc mơ bình dị nhưng mang chứa sự giàu có nội tại. Nó là phía khác của bản lĩnh dám vượt qua sự kìm tỏa của “thức”. Cái phi thực trở nên rất thực bởi nó phản chiếu khát vọng tự do trong thực hành nghệ thuật.

    Nếu trong những sáng tác đầu tay của Văn Cao, sự kết hợp thơ-nhạc là hết sức nổi bật thì ở giai đoạn sau, cái nhìn hội họa chi phối cách kiến tạo cấu trúc thơ ông rất rõ nét. Đó là thứ kiểu họa lập thể chứ không phải là hội họa dẹt phẳng, một thứ họa có khả năng đánh thức động trong tĩnh. Yếu tố nhạc chìm xuống bề sâu qua cách xây dựng nhịp điệu và tổ chức cú pháp. Hệ quả, vang dội thơ Văn Cao chính là sự vang dội nội tâm. Một vang dội đủ sức tạo nên những khoái cảm thẩm mĩ bất ngờ:

    “Từ trời xanh
             rơi
               vài giọt tháp Chàm
                    quanh Quy Nhơn”

    Chùm thơ về Quy Nhơn gồm ba bài được Văn Cao viết vào giữa thập kỷ tám mươi, khi những éo le, nghịch cảnh bủa vây ông đã bắt đầu lùi lại phía sau. Văn Cao nhìn, nghĩ về đất và người Quy Nhơn – Nghĩa Bình bằng cái nhìn đôn hậu, ấm áp. Cả ba đoản khúc này tạo nên chuỗi liên hoàn về Quy Nhơn. Nếu Quy Nhơn 1 là bức khảm đầy mĩ thuật về địa lý nhân văn, Quy Nhơn 2 là chiều sâu văn hóa và những khuôn mặt thân thương thì Quy Nhơn 3 là tiếng vọng của lịch sử và khát vọng của một vùng đất. Dẫu viết về một Quy Nhơn mĩ lệ hay một Quy Nhơn hào hùng, giàu có thì đọng lại trong cảm nhận của Văn Cao vẫn là cái đẹp của tình người. Nhà thơ đã phát hiện vẻ đẹp Quy Nhơn bằng chiều kích mĩ học mới, đi qua lối mở không gian từ điểm nhìn trên cao để nhận thấy cội nguồn sâu thẳm làm nên sự vĩnh cửu: “đất này/ mọc lên/ từ/ nước mắt!”... Đó không phải là kiểu “đứng về phe nước mắt” của Dương Tường mà mang chứa một nội hàm khác. Nước mắt của đau thương, ý chí và sức mạnh, nước mắt của hi sinh, tình yêu và khát vọng mới là khởi thủy làm nên Quy Nhơn nói riêng và sự vĩ đại của đất nước này nói chung. Từ trong nước mắt, đi qua gian khó là những nụ cười, niềm hi vọng mà ông nhìn thấy ở Quy Nhơn hiện tại, và trước đó là Hải Phòng: “Sau những ngày động biển/ Nhu nhú trên những cành mận non/ Những nụ hoa đang nở hồng hồng/ Mát hai vai dưới rặng cây bóng lá/ Đôi lứa thanh niên đến tự tình” (Những người trên cửa biển). Sự thống nhất trong cách cảm nhận thế giới của Văn Cao nằm ở đấy: lắng sâu để nghe thấu mạch đời và những nguồn nhựa sống. Bí mật trong cách kiến tạo thi giới của Văn Cao một lần nữa hiện thị trong Người đi dọc biển (1970): “Người đi/ dọc biển/ Bình minh dưới chân/ Một cái chai lấp lánh/ Sóng biển còn hơirượu/ Người đi/ dọc biển/ Lối cát chưa có dấu chân/ Chân trời còn gối biển/ Người đi/ dọc biển/ Không để lại/ Dấu chân”. Nếu ở khổ thơ đầu, còn sắc (một chai lấp lánh, sóng còn hơirượu)thì đến khổ thơ sau, sắc mất dấu chỉ còn lại không. Trong sự chuyển dịch “sắc” -“không”, tất cả đều “trôi” và người đọc sẽ phải tự xác định tọa độ tùy thuộc vào sự lịch lãm, kinh nghiệm thẩm mĩ của họ. Đó là thời điểm “tác giả đã chết”, quyền “phán quyết” được trao cho người đọc. Đây cũng là biểu hiện của lối viết mở, không bao giờ đóng kín, vì với Văn Cao “sự thất bại thường gặp trong một bài thơ là sự khép lại”. Tôi nghĩ cách tổ chức cấu trúc lạ hóa, cách nhìn thời gian qua không gian, lấy không gian để đo ướm thời gian cũng như lối viết xuống dòng trong thơ Văn Cao hẳn sẽ giúp cho lớp hậu sinh say mê thơ thị giác một kinh nghiệm sống còn: dẫu phiêu lưu trong những cuộc chơi bất tận thì cuối cùng, vẫn phải đạt tính hàm súc vì đó là một yêu cầu rất cao của loại hình nghệ thuật tinh tế này6.

    Về phương diện thể loại, Văn Cao cũng để lại nhiều cách tân đáng chú ý. Có khi ông chọn hình thức ngắn như Nguyệt thực, Cạn, Thức dậy, Quên, Chọn, Đảo… Nhưng khi cần biểu đạt những bức tranh hoành tráng của lịch sử, ông tìm đến thơ dài. Những người trên cửa biển (1956) là một thử nghiệm thành công của Văn Cao. Với trường ca này, Văn Cao đã cắm dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển trường ca Việt Nam hiện đại. Nếu tính một cách chi li, trước Văn Cao, trường ca/ thơ dài đã từng xuất hiện với Tiếng địch sông Ô của Huy Thông hay Ngọn quốc kỳ, Hội nghị non sông của Xuân Diệu. Nhưng điều đáng nói là Văn Cao đã thi triển trường ca của mình bằng một chiến lược táo bạo và cái nhìn độc đáo:

    “Tôi yêu Hải Phòng như Việt Nam nhỏ lại
    Tôi yêu Việt Nam như tôi biết yêu tôi”.

    Đó là một Hải Phòng hiện lên từ nhưng chi tiết nhỏ nhưng có khả năng khắc sâu được khí chất, đặc tính của nơi đây:

    “Sinh tôi ra đã có Hải Phòng
    Đầu nhà mới trồng cây mận
    Bãi sú bồi thành bến
    Nhà máy xi măng đã dựng bên sông
    ...
    Hải Phòng mênh mông nhiều mây nhiều
    nước
    Mênh mông bốn phía chân trời”

    Thế mạnh của tư duy nghệ thuật và khả năng phối kết các chiều giác quan đã được Văn Cao thể hiện sinh động trong bản giao hưởng thi ca này. Ông đã làm sáng lên chân dung Hải Phòng từ góc nhìn địa lý nhân văn, góc nhìn lịch sử, khảo cổ học, xã hội học... Đó là một Hải Phòng chân thực, lam lũ, khó nhọc nhưng ngang tàng, quyết liệt, đầy khát vọng. Bản lĩnh nghệ thuật Văn Cao là ông triển khai trường ca trên nguồn cảm hứng sử thi nhưng không bị sử thi chi phối mà biết tạo nên những góc nhìn phản tỉnh. Điều đó giúp Văn Cao nhận thấy trong Hải Phòng hôm nay có cả cái xấu, cái ác, cái cơ hội đang ẩn mình chờ thời - những “loài sâu nằm tròn trong cuống”. Đây là những phát hiện rất tinh nhờ khả năng tiên báo vượt thời gian của Văn Cao. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tự sự và trữ tình, giữa thực tại ngổn ngang và dự tưởng tương lai, giữa chi tiết cụ thể và tầm khái quát cùng với cách tổ chức cấu trúc “Ai biết Hải Phòng là đâu” – “Tình yêu và khát vọng” – “Những ngày động biển” – “Những ngày báo hiệu mùa xuân” để biểu đạt những chuyển mình của lịch sử rồi sẽ được thế hệ cầm bút về sau kế thừa và phát triển.

    Khi nói đến tầm tư tưởng và những cách tân nghệ thuật của Văn Cao không thể bỏ qua các bài thơ viết theo lối giả tưởng mà trong đó, Năm buổi sáng không có trong sự thật (1960) là một thi phẩm được nhiều người nhớ. Bài thơ có cấu trúc hết sức độc đáo. Bốn buổi sáng I, II, III, IV là sự “biến mất” của thực tại. Chỉ đến buổi sáng thứ V, sự sống mới tái sinh bởi hơi ấm tình yêu và vũ điệu giao tình đưa “chúng ta đi vào bí mật của mùa xuân”. Chìa khóa đi vào giấc mơ phi lý này nằm ngay trong đề từ tác phẩm, nó tương hợp với độ mở trong mĩ học Văn Cao: “Những mái nhà ủ những cánh chim đêm/ Ủ những giấc mơ dưới sao trời lồng lộng”. Về bản chất, đó cũng là vào sự lịch lãm của mơ, không phải giấc mơ của một người đang ngủ mà là giấc mơ này sinh từ dự phóng về tương lai của một người hiểu rõ bản chất của tồn tại, sức mạnh của tình yêu và sự thăng hoa của khát vọng. Bởi thế, việc Văn Cao cảnh báo về sự hoang vắng của một thế giới vô cảm thực chất là đối thoại với cái nhìn sơ lược, lãng mạn một cách thái quá trong văn học giai đoạn này. Biện chứng của tinh thần đối thoại này là ở chỗ, đi qua những chấn thương tinh thần, Văn Cao vẫn hằng tin vào những giá trị nhân văn cao cả, tin vào tình yêu và sức mạnh của nghệ thuật chân chính. Tất thảy đều in dấu trong Thời gian, một thi phẩm thể hiện sinh động quan niệm, cá tính và khuynh hướng thẩm mĩ của Văn Cao:

    “Thời gian qua kẽ tay
    Làm khô những chiếc lá
    Kỷ niệm trong tôi
    Rơi
           như tiếng sỏi
                 trong lòng giếng cạn
    Riêng những câu thơ
           còn xanh
    Riêng những bài hát
           còn xanh
    Và đôi mắt em
           như hai giếng nước”

    Thuộc số những nghệ sĩ mở đường tài năng, dám vắt kiệt mình để sáng tạo, di sản nghệ thuật Văn Cao là bất tử. Nhưng dường như ông chưa muốn dừng lại. Đâu đây như vẫn còn vọng bước chân ông và trong những bước chân trĩu nặng suy tư ấy là một khắc khoải được chạm vào vô lượng của biển khơi: “Tới bao giờ tôi gặp được biển!”.

 

Chú thích:
1 Tạ Tỵ (1996): “Văn Cao - Một tinh cầu riêng biệt”, in trong Văn Cao - cuộc đời và tác phẩm, Lữ Huy Nguyên tuyển chọn, NXB Văn học, tr. 185.
2 Trịnh Công Sơn (1996): “Trong âm nhạc, Văn Cao sang trọng như một ông Hoàng”, in trong Văn Cao - cuộc đời và tác phẩm, Lữ Huy Nguyên tuyển chọn, NXB Văn học, tr. 247.
3 Tập Lá, NXB Tác phẩm mới - Hội Nhà văn Việt Nam, 1988; Tuyển tập Văn Cao Thơ, NXB Văn học, 1994.
4 Đặng Tiến (2009), Thơ - thi pháp & chân dung, NXB Phụ nữ, tr. 266.
5 Thụy Kha (1996): “Về một bản lĩnh thơ”, in trong Văn Cao - cuộc đời và tác phẩm, Lữ Huy Nguyên tuyển chọn, NXB Văn học, tr. 343.
6 Thơ bậc thang của Maiacovxky có ảnh hưởng rất lớn đến những cây bút cách tân thập kỷ 60-70 thế kỷ XX. Có thể nhìn thấy rất rõ sự ảnh hưởng này trong thơ Lê Đạt, Trần Dần, Dương Tường và cả Văn Cao. Dĩ nhiên, từ tiếp thu đến tiếp biến ở mỗi tác giả là hết sức khác nhau.

 

CHẤT THƠ TRONG CA TỪ CỦA VĂN CAO

PGS, TS NGUYỄN THÀNH

    Văn Cao là một trong những nhạc sĩ tài hoa đỉnh cao của nền âm nhạc hiện đại ở Việt Nam. Cũng như khá nhiều nhạc sĩ tài hoa khác, trong tâm hồn ông, thiên bẩm một cái tôi nghệ sĩ: đa tình, lãng mạn và đa tài. Ông cùng một lúc có khả năng làm thơ, viết nhạc và vẽ tranh. Văn Cao bắt đầu sự nghiệp sáng tác chủ yếu bằng tự học, vươn lên bằng tự lập và khẳng định tên tuổi bằng tài năng và nhân cách của một con người có ý thức tự tôn dân tộc, giàu lòng yêu nước, lòng trắc ẩn với thân phận con người. Thế giới thơ và âm nhạc của ông có một sự hòa kết, tương giao trên nền tảng của cái tôi nghệ sĩ đó. Nói cách khác, trong thơ của ông, giàu nhạc tính và trong lời nhạc của ông, đậm thi tính.

    Âm nhạc của Văn Cao là sự bao gộp của những ca khúc cách mạng hào hùng và những ca khúc trữ tình lãng mạn. Có khi tình ca và hùng ca hài hòa làm một. Cả hai loại ca khúc này, Văn Cao đều có khả năng đẩy chúng đạt đến trình độ tuyệt tác. Trường ca Sông Lô, xét về ca từ, đã có sự luyến láy, tạo nhịp điệu và tiết tấu, với độ ngân vang trữ tình da diết: “Sông Lô sóng ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u/ Thu ru bến sóng vàng từng nhà mờ biếc chìm một màu khói thu/ Sông Lô, sóng ngàn kháng chiến cháy bờ lau thưa đã tàn thôn trang/Ai qua bến nắng hồng lặng nhìn màu nước sông Lô xưa”. Hình ảnh dòng sông Lô mênh mông, êm dịu trong tiết trời mùa thu phảng phất chút đượm buồn sau những ngày chinh chiến gian khổ nhưng đầy hoài niệm là “khổ thơ” mở đầu cho một ca khúc vừa trữ tình, vừa hào hùng, mạnh mẽ. Sông Lô không chỉ là hình ảnh của thiên nhiên tình tứ “bến sóng vàng”, “bờ lau thưa”, mà còn là hình ảnh ghi dấu những chiến công oanh liệt của quân và dân ta trong Chiến dịch Thu Đông năm 1947 với “đầy sông đám xác thù”. Và ấn tượng đọng lại cuối ca khúc là hình ảnh quân dân reo mừng chiến thắng cùng với những sinh hoạt lao động nhộn nhịp, rộn ràng hòa cùng điệp khúc “vui hát ca hòa vui hát ca” lặp đi lặp lại trong niềm hân hoan, xao xuyến vô bờ…

    Những ca khúc viết về lãnh tụ, về công nhân và chiến sĩ của Văn Cao bao giờ cũng đầy rung cảm trong từng giai điệu và tứ thơ (Ca ngợi Hồ Chủ tịch, Công nhân Việt Nam, Tiến quân ca…). Viết về Bác Hồ, Văn Cao cảm nhận Hồ Chí Minh, sau ngày Cách mạng thành công, là người đem đến niềm vui, mùa xuân và ánh sáng cho dân tộc Việt Nam. Mở đầu ca khúc Ca ngợi Hồ Chủ tịch là một tứ thơ cô động, súc tích về công lao to lớn của Người đối với nước Việt: “Người về đem tới ngày vui/ Mùa thu nắng cỏ Ba Đình/ Với tiếng Người còn dịu dàng như tiếng đất trời/ Người về đem tới xuân đời từ đất nước cằn/ Từ bùn lầy, cả cuộc đời bừng lên”. Kết thúc ca khúc là một ý thơ về khả năng hội tụ, tạo nên sức mạnh to lớn từ vị lãnh tụ thiên tài: “Cụ Hồ Chí Minh, ý muôn người trong một người/ Cụ Hồ Chí Minh, tên quê hương, hồn đất nước Bắc Nam/ Cụ Hồ Chí Minh, đế quốc tan tành hết trước sức dân trào cuốn/ Vinh quang nhân dân Việt Nam”.

    Viết về giai cấp công nhân, ông tự hào với sức sống vươn dậy của tầng lớp lao động, đồng thời thấy được tương lai to lớn của giai cấp này khi họ có lực lượng đông đảo của khối đoàn kết quốc tế: “Ngày mai trên thế giới, bao đất đai, bao máy to giống người sinh sống chung kết đoàn/ Ngày mai công nhân ơi! Ánh sáng đang vươn lên khắp đời đồng ca toàn thắng”. Ca khúc Bắc Sơn cũng chứa đựng âm hưởng hào hùng, với những ca từ đậm sắc thái trữ tình, bi tráng: “Ôi còn đâu đâу sắc chàm pha màu gió/ Ðau lòng bao năm sống lầm than đâу đó/ Ai về châu xưa nhớ hồi máu thắm câу rừng/ còn vang khe núi tiếng quân oai hùng”.

    Trong ca khúc Văn Cao, ca từ, cách gieo vần, ngắt nhịp thường theo nguyên tắc của thi ca. Tính tạo hình, liên tưởng đều rất nổi bật. Nhạc tính hài hòa với thi tính. Đó là một trong những sở trường của người nghệ sĩ tài hoa này. Tiến quân ca, về mặt âm nhạc, không phải là ngoại lệ trong nhóm ca khúc cách mạng hào hùng của Văn Cao, nhưng từ góc độ thi ca, ca khúc này đạt đến độ hàm súc, cô đọng, bộc lộ một cách tập trung khí thế và khát vọng độc lập, tự do của toàn dân tộc. Lời bài hát là lời thơ hào hùng tựa như vang vọng lời sông núi, với hình ảnh đoàn quân Việt Nam, bước chân dồn vang, với màu cờ đỏ in màu máu thắm và ánh sao vàng rực rỡ, cùng với ý chí quyết tâm tiến lên đánh đuổi giặc thù ra khỏi bờ cõi, giành lại giang sơn, Tổ quốc, để nước Việt Nam mãi mãi vững bền. Cùng với Tiến quân ca là ca khúc Tiến về Hà Nội được Văn Cao viết xong vào dịp mùa xuân năm 1949, như một dự báo về ngày đoàn quân trở về Hà Nội sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Lời bài hát đầy tự hào và xúc động với hình ảnh “trùng trùng quân đi như sóng”, “cờ tung bay trên phố” và “quân thù đầu hàng”. Văn Cao đã diễn tả khúc ca khải hoàn bằng những liên tưởng và so sánh đầy mĩ cảm về Hà Nội: “Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về như đài hoa đón mừng nở năm cánh đào/ Chảy dòng sương sớm long lanh/ Chúng ta ươm lại hoa sắc hương say ngày xa/ Ôi phố phường Hà Nội xưa yêu dấu”.

    Trong nền âm nhạc hiện đại Việt Nam, những ca khúc cách mạng hào hùng của Văn Cao đã hòa cùng với giai điệu âm nhạc hùng tráng của thế hệ nhạc sĩ tài hoa và chảy bỏng tình yêu nước như Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Hoàng Việt, Nguyễn Đình Thi… Là thế hệ của nghệ sĩ “tiền chiến”, Văn Cao tiếp nhận chất lãng mạn của nghệ thuật phương Tây hiện đại, lại may mắn được sống và trải nghiệm trong những thời điểm hào hùng của cuộc kháng chiến chống Pháp, ông nhanh chóng tạo nên sự hòa điệu giữa tình ca và hùng ca trong âm nhạc và thi ca.

    Trong những ca khúc thuần túy trữ tình, người nghe dễ dàng cảm nhận được chất lãng mạn bàng bạc, lan tỏa, với độ ngân da diết. Nghe ca khúc về tình yêu và thiên nhiên của Văn Cao, người nghe có khi mất hút vào không gian huyền diệu. Và cũng chính ở mảng ca khúc trữ tình này, ngôn ngữ thơ của ông đạt đến độ rõ nét và ấn tượng. Bến xuân, Cung đàn xưa, Suối mơ, Thiên thai… những ca khúc, từ cái tên, đã gợi thức một không gian mơ tưởng, lãng mạn, một hoài niệm gắn với ký ức xa mờ. Mở đầu Bến xuân là cuộc gặp gỡ của tôi và em trong không gian nên thơ, đầm ấm với những hình ảnh về sự hòa hợp, hạnh phúc: “Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước/ Em đến tôi một lần/ Bao lũ chim rừng hợp đàn trên khắp bến xuân/ Từng đôi rung cánh trắng ríu rít ca/ Cành đào hoe nắng chan hòa”. Kết bài là cảnh ly biệt, mỗi người mỗi ngả và không gian trở nên tiêu điều, hoang vắng “em vắng tôi một chiều”, “bến nước tiêu điều” nhưng vẫn còn “hằn in nét đáng yêu”, rồi tất cả chỉ còn là kỷ niệm, trong sự nuối tiếc, xót xa.

    Suối mơThiên thai là thế giới của ước vọng, là hữu thức mà cũng là vô thức của chàng trai trẻ đa tình. Thế giới cảnh vật trong Suối mơ như tranh vẽ, bên rừng thu vắng, dòng nước trôi lững lờ và đôi cây thùy dương xanh ngát trong bóng nắng chiều. Đây cũng là không gian quen thuộc trong thơ, nhạc Văn Cao: một miền sơn cước, có suối đèo, sông núi hữu tình diễm lệ, thấp thoáng tiếng gió, tiếng đàn sáo dìu dặt, tha thiết và bóng dáng giai nhân trong sự tương tác với cái tôi hướng nội, đầy hoài niệm của người nghệ sĩ. Cuối cùng, suối mơ cũng là một hoài niệm về tình yêu: “Từng hẹn mùa xưa cùng xây nhà bên suối/ Nghe suối róc rách trôi hoa lừng hương gió ngát/ Đàn nai đùa trong khóm lá vàng tươi”. Những ca từ của Văn Cao, thực ra không chỉ giàu tính thơ mà còn đậm nét tính họa. Đây cũng chính là phong cách của ông.

    Thiên thai là đỉnh cao của tân nhạc hiện đại Việt Nam, nó thể hiện sự hòa quyện giữa âm nhạc truyền thống của người Việt với sự tiếp biến âm nhạc lãng mạn của phương Tây hiện đại. Xét từ góc độ ca từ, Thiên thai là sự siêu thoát của tâm hồn người nghệ sĩ, tạm rời cõi thực của trần thế để chạm đến cõi mơ, cõi xưa. Dựa trên tích chuyện Lưu, Nguyễn ngày xưa lạc vào thế giới của cõi tiên để được tận mắt cảm nhận vẻ đẹp tuyệt mĩ của một thế giới khác, Văn Cao bộc lộ một khát vọng mang tính vĩnh hằng của con người: “Âm ba thoáng rung cánh đào rơi/ Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời/ Lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan1/ Quê hương dần xa lấp núi ngàn/ Bâng khuâng chèo khua nước Ngọc Tuyền/ Ai hát trên bờ Đào Nguyên”.
   Thơ, nhạc Văn Cao (trước tháng 8/1945) cũng như Thơ mới và nhạc tiền chiến đều có chung một giọng điệu/ giai điệu trầm buồn, cái buồn sâu lắng và thanh thoát, có sức truyền cảm và lan tỏa. Đó là căn cốt của mĩ cảm nghệ thuật lãng mạn, được thế hệ trí thức Tây học đầu tiên ở Việt Nam thẩm thấu qua công cuộc giao lưu văn hóa Đông - Tây và lưu giữ trong những tâm hồn vốn thấm đẫm văn hóa phương Đông tinh tế, bột phát thành thi ca, âm nhạc hiện đại. Mĩ cảm nghệ thuật này được định danh bởi sự mơ tưởng về cái - đẹp - buồn, cái đẹp của dư âm, của hoài niệm, luyến tiếc. Nó thực sự được đánh thức khi người nghệ sĩ trải nghiệm bởi cái tôi khát khao vô bờ bến gặp phải những giới hạn của không gian và thời gian. Đó là lý do vì sao thơ, nhạc Văn Cao cũng như thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính…; nhạc Đặng Thế Phong, Dương Thiệu Tước, Hoàng Quý, Đoàn Chuẩn, Cung Tiến… thường viết rất hay những chuyện tình yêu của ngày đầu gặp gỡ cũng như những cảnh ngộ xa cách, ly biệt với nhiều nhớ nhung, tiếc nuối. Nhiều ca khúc tình yêu của Văn Cao có khả năng níu giữ người nghe bởi lời ca trữ tình, trong trẻo và xao xuyến. Buồn tàn thu, Cung đàn xưa… đều thực sự réo rắt, da diết. Cấu trúc lời ca khúc Buồn tàn thu không khác gì một bài thơ tự do. Ngôn từ mềm mại, uyển chuyển, vừa trữ tình, vừa tự sự. Nó là tâm trạng yêu thương đến khắc khoải, xót xa của thiếu phụ mùa thu ngồi đan áo cho người mình yêu năm xưa “kề má say sưa” nay đi biền biệt “ngoài sương gió”, “quên hết lời thề” khiến em “bẽ bàng” thân phận. Điệp ngữ “mùa thu chết rơi theo lá vàng” vừa gợi cảm giác tiếc nuối, vừa nói lên nỗi sầu buồn hoang hoải. Cung đàn xưa cũng kể một chuyện tình ly biệt, được trải lòng trong nỗi đau mơn man tê dại của người trong cuộc: “Hồn cầm phong hương2 hình dáng xuân tàn/ Ngày dần buông trôi sầu vắng cung đàn/ Từ người ra đi chờ vắng tin người/ Từ người ra đi là hết mơ rồi”. Cung đàn xưa là âm thanh của u hoài, hoài niệm, “buồn tê tái”, “buồn như xuân sắp tàn”. Có những ca từ thanh thoát, được đan dệt bằng nhiều thanh bằng: “Chiều năm xưa gót hài khai hoa/ Mắt huyền lưu xuân, dáng hồng thơm hương/ Chiều năm nay bóng người khơi thương/ Tiếng đàn gieo oan giấc mộng chàng Trương”. Với nghệ thuật lãng mạn, Văn Cao không phải là ngoại lệ trong bức tranh chung của âm nhạc, thi ca, hội họa thời tiền chiến nhưng ông và nhiều nghệ sĩ khác cùng thời đều có dấu ấn riêng. Nhạc và thơ Văn Cao nghiêng về hiện đại của phương Tây hơn là truyền thống. Cái buồn của Văn Cao, vì thế, bảng lảng và xa vời như mây khói. Ông không oán trách người cũng không tự trách mình. Dường như ông cảm nhận những gì mà mình có được đã là diễm phúc lớn lao rồi. Ông chắt chiu lưu giữ và ủ hương cho kỷ niệm. Rồi đến một thời khắc nào đó, khi tâm hồn xao xuyến thì kỷ niệm thăng hoa thành nghệ thuật. Ca khúc Trương Chi, có thể là một độc thoại của người nghệ sĩ đa tình và tài hoa. Văn Cao không giấu cái tôi nhập vai, cái tôi tự nghiệm khi viết ca khúc này, do vậy, nàng Mỵ Nương xinh đẹp, quyền quý có thể là không có thật nhưng chàng Trương Chi ở đây là có thật. Chàng đang hiện hữu như một thi sĩ đa tình, lãng mạn: “Từ ngày trăng mơ nước in thành thơ/ Lạc loài hương thu thoáng vương đường tơ/ Ngây ngất không gian rên xiết lay bờ/ Bao tiếng cầm ca rung ánh sao mờ”. Nhiều khổ nhạc (cũng là khổ thơ) ở đây điệp vần một cách tài hoa như để diễn tả sự níu kéo, giăng mắc của những thân phận.

    Thực ra, Văn Cao không chỉ viết hay về sự chia ly. Ông còn có khả năng viết rất hay và đầm ấm về sự sum họp. Mùa xuân đầu tiên là một ca khúc như thế. Ca khúc này được viết cuối năm 1976 (chưa đầy hai năm sau ngày Miền Nam được hoàn toàn giải phóng). Lời bài hát trĩu nặng niềm vui và nước mắt, với tâm trạng mừng mừng tủi tủi trong những ngày đất nước được hòa bình, anh em Nam Bắc được quây quần đoàn tụ, sum họp một nhà. Mùa xuân đầu tiên là mùa đoàn viên sau mấy mươi năm chiến tranh ly tán, với bao máu và nước mắt đã đổ xuống. Mùa xuân đầu tiên cũng là mùa của hòa giải, hòa hợp dân tộc để tình yêu nước Việt dâng đầy trong tình huynh đệ. Đó là điều Văn Cao muốn gửi gắm: “Ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên/ Ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm/ Từ đây người biết quê người/ Từ đây người biết thương người/ Từ đây người biết yêu người”.

    Đối tượng trữ tình trong các tuyệt tác âm nhạc của Văn Cao thường là mùa thu và mùa xuân. Mùa thu trong nghệ thuật thường gắn với hoài niệm, còn mùa xuân thì gắn với đoàn tụ, sum họp. Trong sáng tác của ông, mùa thu thường đẹp buồn, mơ màng và xa vắng (Buồn tàn thu, Suối mơ, Thu cô liêu, Trương Chi…), còn mùa xuân thường ấm áp, đằm thắm nhưng lắng dịu, không rộn ràng, náo nhiệt (Bến xuân, Mùa xuân đầu tiên,…). Mùa thu và mùa xuân là đối tượng xúc cảm của nhiều nghệ sĩ lãng mạn giai đoạn 1932-1945 (Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Đặng Thế Phong, Cung Tiến, Đoàn Chuẩn,…). Văn Cao của thời tiền chiến và trong những năm kháng chiến chống Pháp (1945-1954) với cái tôi trữ tình đầy ắp cảm hứng lãng mạn (lãng mạn tình yêu và lãng mạn cách mạng), ông đã tạo nên nhiều tình khúc bất hủ.

    Trong âm nhạc hiện đại, Văn Cao được đánh giá là một trong ba cái đỉnh của tam giác tân nhạc ở Việt Nam thế kỷ XX cùng với Phạm Duy và Trịnh Công Sơn. Điều đó cũng có cơ sở. Âm nhạc của Phạm Duy giàu chất dân ca, tình tứ và duyên dáng; nhạc của Trịnh Công Sơn giàu triết lý về thân phận con người, nhạc của Văn Cao đầy bâng khuâng, bảng lảng của sông nước, mây trời. Điểm gặp gỡ của cả ba ông là sự hòa trộn của tâm hồn Việt với văn hóa truyền thống và giai điệu, tiết tấu của âm nhạc hiện đại. Và một lợi thế khác của cả Văn Cao, Phạm Duy và Trịnh Công Sơn là ca từ trong nhiều ca khúc của họ không khác gì lời thơ của những thi phẩm nổi tiếng xưa nay trên thế giới.

 

Chú thích:
1 Có bản chép là thuyền nan (loại thuyền nhỏ đan bằng nan tre). Tuy nhiên, trong ca khúc lãng mạn, sang trọng này, có lẽ, Văn Cao dùng cụm từ thuyền lan (theo Hán ngữ là “lan chu” hay “mộc lan chu”, tức con thuyền làm bằng gỗ mộc lan, thường được gọi là thuyền lan).
2 Trong hồi ký của Phạm Duy, ông nhớ Văn Cao viết là “Hồn cầm phong hương” chứ không phải là “phong sương” như nhiều bản chép. “Hồn cầm phong hương hình dáng xuân tàn” có nghĩa là hương sắc mùa xuân đã được phong kín trong hồn đàn. Giải thích như thế có thể hợp lý và có nghĩa tường minh.

 

NHỮNG CHUYỂN ĐỘNG ĐA CHIỀU TRONG TƯ DUY NGHỆ THUẬT VĂN CAO

THIÊN SƠN

    Văn Cao sinh ra ở Hải Phòng trong một gia đình công chức. Cha của Văn Cao là đốc công Nhà máy Nước Hải Phòng. Thuở nhỏ, ông hoc ở trường tiểu học Bonnal, sau lên học trung học tại trường dòng Saint Joseph, đó là nơi ông bắt đầu học âm nhạc. Năm 1938, mới 15 tuổi, vì gia đình sa sút, Văn Cao bỏ học sau khi kết thúc năm thứ hai bậc thành chung. Qua những tác phẩm còn lại thì 16 tuổi ông đã làm thơ, viết nhạc và giành được những thành công đầu tiên. Tuy nhiên, theo nhà thơ Văn Thao, con trai ông, thì Văn Cao làm thơ lúc chỉ mới 12, 13 tuổi. Văn Cao đến với thơ trước khi đến với nhạc, họa và thơ cũng là cõi riêng ông thổ lộ những suy tư thăm thẳm về cuộc đời mình, những chiêm nghiệm trước hiện thực ngặt nghèo mấy mươi năm thăng trầm của một thế kỷ đầy bão táp.

    Nhà thơ Văn Thao cho biết, hồi còn học ở trường Saint Joseph, Hải Phòng, Văn Cao tham gia làm một tờ báo cùng các bạn trong lớp. Lúc ấy, ông đã tự tay trình bày báo và biên tập thơ của bạn hữu đăng lên. Văn Cao cũng tham gia hướng đạo sinh, trở thành đại biểu của tổ chức này được mời đi dự hội nghị toàn Đông Dương tổ chức ở Huế. Sau khi bố ông mất, chị gái ông lấy chồng trong Nam ra chịu tang cha, Văn Cao có thời kỳ theo chị vào Sài Gòn kiếm sống nhưng do có nhiều khó khăn, ông không muốn phiền đến gia đình anh chị nên trở lại Miền Bắc. Khoảng cuối năm 1943, đầu 1944, Văn Cao rời Hải Phòng lên Hà Nội học thêm. Những năm lưu lạc ấy đã giúp Văn Cao lăn lộn trong giông tố cuộc đời và hiểu thêm chuyện thế sự. Nhưng rồi, như một tất yếu, hầu hết những nghệ sĩ lớn hồi đó đều tham gia Việt Minh, Văn Cao cũng thế. Ông được ông Vũ Quý giác ngộ và gợi ý ông dùng tài năng của mình phục vụ cho cách mạng. Từ đây, ông trở thành một nghệ sĩ lớn của cách mạng với hoạt động sôi nổi. Lúc tham gia vào một đội biệt động của Việt Minh tại Hà Nội, khi theo lệnh của tổ chức lên hoạt động ở Lào Cai, Vĩnh Yên và nhiều nơi khác của Việt Bắc với nhiều nhiệm vụ quan trọng, rồi sau đó trở thành lãnh đạo của văn nghệ kháng chiến cho đến khi trở về Hà Nội sau năm 1954.

    Văn Cao là một con người đa tài, đa diện. Mơ mộng, hoài cổ, đắm chìm trong thế giới thuần khiết của mộng ước nhưng cũng có lúc hòa vào dòng chảy cuồn cuộn của lịch sử với khí thế hào hùng của cách mạng, của chiến tranh. Khiêm nhường giản dị, nhiều lúc nhẫn nhịn đến tận cùng nhưng cũng có lúc bôn ba trong những hiểm nguy sóng gió. Trầm lắng, kiệm lời nhưng cũng có khi vút cao lên như vượt qua mọi giới hạn, ào ạt như biển động. Từ hiện thực vào hư ảo, từ trần trụi đến tinh khiết, từ sâu lắng trầm hùng đến thanh cao réo rắt… Tất cả đó, tạo thành điệu tâm hồn ông, hòa quyện, phát lộ trong thơ, trong nhạc và trong hội họa.Chỉ trong vòng chưa đến mười năm, từ ca khúc đầu tiên Suối mơ (1939) đến khi ra đời Trường ca Sông Lô (1948), Văn Cao đã làm nên một sự nghiệp to lớn với những tác phẩm bất hủ, đánh dấu bước chuyển biến chưa từng có của nền âm nhạc Việt Nam.

    Văn Cao xuất hiện khi nền tân nhạc nước nhà vẫn còn trong giai đoạn hình thành. Cũng như nhiều nhạc sĩ cùng thời, ông ảnh hưởng sâu sắc âm nhạc phương Tây, đầu tiên là các bài thánh ca trong các giáo đường và làm quen với nhạc nhà binh, với những đội kèn đồng; dần dần tiếp cận với nhạc khiêu vũ, nhạc cổ điển châu Âu. Từ năm 16 tuổi, Văn Cao đã có ca khúc đầu tay là Buồn tàn thu được đồng nghiệp đánh giá cao và được người nghe ưa chuộng. Tiếp đó, Văn Cao đã cắm những cột mốc trong âm nhạc với Suối mơ, Thiên thai, Cung đàn xưa, Bến xuân, Thu cô liêu… Đó là những nhạc phẩm trở thành đỉnh cao của nền tân nhạc nước nhà, được công chúng yêu thích và có sức sống lâu bền.

    Xu hướng lãng mạn ở Văn Cao thể hiện sinh động qua việc tạo nên một không gian tinh khiết, một cõi vắng xa hoặc sa vào kỷ niệm với những lưu luyến, nhớ tiếc về tình yêu dang dở, chia ly. Âm điệu lúc dịu êm tha thiết, ngân vọng, lúc lắng sâu vào những nỗi niềm u uẩn. 

    “Đêm mùa thu chết
    Nghe mùa đang rớt rơi theo lá vàng
    Em ngồi đan áo
    Lòng buồn vương vấn
    Em thương nhớ chàng…”
                                 (Buồn tàn thu)

    “Âm ba thoáng rung cánh đào rơi
    Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời
    Lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan
    Quê hương dần xa lấp núi ngàn
    Bâng khuâng chèo khua nước NgọcTuyền
    Ai hát trên bờ Đào Nguyên…”
                                          (Thiên thai)

    Điều đặc biệt ở Văn Cao mà có lẽ không nhạc sĩ đương thời nào có được là ở chỗ từ thiên hướng lãng mạn, chỉ trong một thời gian ngắn, ông chuyển sang hùng ca. Điệu tâm hồn ông đã khác. Xa dần với những những bản tình ca, ông bắt đầu viết về lịch sử, về dân tộc, về khí thế hào hùng của thời đại. Những tác phẩm gây ấn tượng như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca đã đưa Văn Cao đến với Việt Minh. Năm 1944, khi mới 21 tuổi tại căn gác nhỏ số nhà 171 phố Mông-gơ-răng (nay là 45 phố Nguyễn Thượng Hiền) ông đã viết Tiến quân ca, để rồi sau đó bài hát lần đầu tiên được in trên Báo Độc Lập vào tháng 11/1944 và được Hồ Chủ tịch và quốc dân đại hội Tân Trào chọn làm Quốc ca của nước Việt Nam vào tháng 8 năm 1945.

    Trong ký ức của mình, Văn Cao không thể nào quên được hình ảnh ngày 18 tháng 8 năm 1945, trong một cuộc mít tinh tại Nhà hát Lớn. Thật bất ngờ khi trên bao lơn của Nhà hát, một lá cờ đỏ sao vàng rất lớn được thả xuống, một thành viên trong Đội danh dự Việt Minh sau khi tung cờ, nhảy xuống cầm micro hát bài Tiến quân ca. Rồi ngay sau đó, cả một biển người cùng cất tiếng hát. Lời bài hát vang lên như sấm rền giữa đoàn người rùng rùng chuyển động Văn Cao gọi giờ khắc ấy là giờ khắc Tiến quân ca thuộc về nhân dân và nước mắt ông trào ra vì cảm động.

    “Đoàn quân Việt Nam đi
    Chung lòng cứu quốc
    Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa
    Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước
    Súng ngoài xa chen khúc quân hành ca…”

    Từ đó, Quốc ca đã trở thành khúc hát thiêng liêng, in hằn vào tâm tư của hàng triệu con người Việt Nam suốt gần 80 năm với biết bao oanh liệt, đau thương và hào hùng của dân tộc.

    Trong những năm sau cách mạng, Văn Cao tiếp tục mạch hùng ca và đã sáng tạo nên những nhạc phẩm được xếp vào hàng kiệt tác.

    Trường ca Sông Lô mở đầu bằng hình ảnh một dòng sông trong không gian rộng lớn, huyền ảo và gợi dần vẻ điêu tàn mang gương mặt của chiến tranh:

    “Sông Lô sóng ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u.
    Thu ru bến sóng vàng từng nhà mờ biếc chìm một màu khói thu
    Sông Lô, sóng ngàn kháng chiến cháy bờ lau thưa đã tàn thôn trang
    Ai qua bến nắng hồng lặng nhìn màu nước sông Lô xưa”.

    Bài hát dần tái hiện niềm vui chiến thắng của nhân dân Việt Bắc và hình ảnh đời sống muôn mặt trong sản xuất, chiến đấu của nhân dân ta. Có thể nói, Trường ca Sông Lô là một tổng phổ phức hợp, vô cùng phong phú cả về nội dung và hình thức. Tất cả hòa quyện trong những cung bậc tinh tế, sinh động vừa hùng tráng, vừa trữ tình sâu lắng. Nhạc sĩ Phạm Duy đã đánh giá rất cao Trường ca Sông Lô. Ông cho rằng: “Về hình thức, bài hát chẳng thua gì bất cứ một tuyệt phẩm nào của loại nhạc cổ điển Tây Phương. Nét nhạc của trường ca rất mạnh khỏe, rất tươi sáng. Nhịp điệu vô cùng phong phú với những chuyển đoạn rất tài tình. Bài này đánh dấu sự trưởng thành của Tân nhạc”. Ông nhấn mạnh: “Nếu Thiên thai chỉ nằm trong một giọng Re (mineure và majeure) và Trương Chi chỉ chuyển nhịp, chuyển điệu trong hai giọng Re và Sol… thì Trường ca Sông Lô có tới sáu lần chuyển âm (modulations) cũng như chuyển tiết tấu (changing rythmes). Trường ca Sông Lô là bản hát dài đầu tiên của chúng ta là một tuyệt phẩm mà những người đi sau Văn Cao (như tôi) đã học hỏi được rất nhiều ở ông để tiếp tục làm giầu cho âm nhạc Việt Nam”.

    Sự nghiệp Văn Cao còn ghi dấu với những ca khúc nổi tiếng Ca ngợi Hồ Chủ tịch được đánh giá là bài hát hay nhất về Bác Hồ, bài Làng tôi, Ngày mùa nói tới vẻ đẹp của nông thôn Việt Nam trong chiến tranh và niềm vui lao động. Hay bài Tiến về Hà Nội với âm nhạc hùng tráng, rộn vang gợi tả niềm vui chiến thắng ngày trở về của quân ta. Điều đặc biệt là bài hát này đã chứng tỏ khả năng dự báo của Văn Cao. Được viết từ năm 1948 và 6 năm sau thì những điều mơ ước trong bài hát đã thành sự thật. Có thể nói, đây là bài hát hay nhất về niềm vui chiến thắng của dân tộc và suốt mấy chục năm nay nó vẫn luôn cất lên trong những đêm nhạc tái hiện dấu ấn một thế kỷ hào hùng.

    Trong khoảng 20 năm từ 1956 đến 1976, Văn Cao ít sáng tác nhạc. Cuộc sống của ông giai đoạn này cũng có nhiều khó khăn, bất trắc. Nhưng trong cái im lặng tưởng chừng vô tận ấy, từ tâm khảm Văn Cao đã dần hun đúc nên một khát vọng, một tư tưởng lớn lao để rồi viết nên một kiệt tác bất tử Mùa xuân đầu tiên.

    Chiến tranh qua rồi sẽ đến hòa bình. Đó là quy luật tất yếu của lịch sử. Nhưng đó cũng là niềm mong ước lớn lao, thẳm sâu nhất của một dân tộc suốt bao nhiêu năm chìm trong chiến tranh. Bài hát này của Văn Cao xuất hiện trong khoảnh khắc đặc biệt đó, khoảnh khắc mùa xuân hòa bình đầu tiên và ca lên giai điệu thanh bình, thiết tha, sâu lắng:

    “Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về
    Mùa bình thường mùa vui nay đã về
    Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
    Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
    một trưa nắng cho bao tâm hồn…
    Ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên
    Ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm
    Từ đây người biết quê người
    Từ đây người biết thương người
    Từ đây người biết yêu người”

    Nói về kiệt tác này của nhạc sĩ Văn Cao, nhà phê bình Đỗ Anh Vũ cho rằng: “Mùa xuân đầu tiên là một ca khúc được viết theo điệu valse, một điệu thức trước đó nhiều lần được Văn Cao sử dụng qua các nhạc phẩm như Cung đàn xưa hay Ngày mùa. Nhưng với bản valse mùa xuân này, tưởng như đây là một điệu luân vũ dặt dìu bất tận trong niềm hạnh phúc khôn nguôi, khi những giọt nước mắt lặng lẽ rơi xuống nghẹn ngào trong cả người nghe, người hát và chính người sáng tác”.

    Mùa xuân đầu tiên được xem như kiệt tác cuối cùng khép lại cuộc đời sáng tác âm nhạc đầy thành tựu của Văn Cao. Trong cảm thức của người Việt Nam, thế giới âm nhạc của Văn Cao mãnh liệt, hào hùng có sức cổ vũ lớn lao toàn dân tộc trong một thời kỳ lịch sử đầy máu lửa, nhưng đó cũng là thế giới của những điều bình thường, giản dị mà sâu lắng, nơi những rung cảm của trái tim cất lên thành giai điệu ngọt ngào tha thiết của nó, nơi những khát vọng ngàn đời của cả một dân tộc dồn tụ lại. Nếu như về âm nhạc Văn Cao đã được khẳng định ở vị trí số một Việt Nam trong thế kỷ XX thì các lĩnh vực sáng tác khác là họa và đặc biệt là thơ của ông dường như chưa có sự nghiên cứu thấu đáo.

    Giờ nhìn lại sự nghiệp thơ Văn Cao, ta không khỏi ngạc nhiên, khi chỉ trong hơn 10 năm kể từ khi có tác phẩm thơ đầu tiên, từ một nhà lãng mạn cuối mùa, ông đã làm một hành trình dài “lao thẳng” vào hiện đại như một cánh chim xuyên qua bão táp của những thành kiến trong thời đại mình để trở thành một nhà tiên phong, mở ra một cánh cửa mới cho thơ hiện đại Việt Nam, mà cho đến nay chúng ta chưa đi hết cung đường mà ông đã vạch ra.

    Ngọn lửa thơ của Văn Cao sung sức và bùng cháy nhất chính ở thời điểm ông viết trường ca Những người trên cửa biển năm 1956. Cảm xúc sôi trào. Ý tứ sắc sảo. Câu thơ hoạt. Hình tượng thơ gây nhiều ám ảnh. Từ thời điểm này về trước, Văn Cao thiên về cảm xúc, cảm giác và những hình ảnh lãng mạn. Sau thời điểm này, Văn Cao chuyển dần sang ẩn dụ, tượng trưng với những hình ảnh biểu tượng hết sức sâu sắc và những suy tư mang nhiều cay đắng.

    Cuối những năm 30, đầu những năm 40 thế kỷ trước, phong trào Thơ mới bắt đầu cạn dần dòng chảy của nó. Những sáng tác đầu tiên của Văn Cao (bài thơ đầu tiên giữ lại được sáng tác năm 1939) chịu ảnh hưởng của tư duy Thơ mới, nhưng lối dùng chữ vẫn còn nặng về Hán Việt, nhạc thơ còn chưa thật nhuần nhuyễn. Nhưng, chỉ khoảng một năm sau, khi ông viết Một đêm đàn lạnh trên sông Huế (1940) thì độ điêu luyện, mượt mà đã không kém các bậc đàn anh trong Thơ mới trước đó. Và cũng chỉ mấy năm sau, ông viết Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc thì không chỉ độ điêu luyện đã lên đến đỉnh, mà còn cho thấy cách nhìn, cách miêu tả hiện thực sắc sảo, trực diện trước thảm họa khủng khiếp của dân tộc ta trong nạn đói năm 1945. Đó là thời điểm Văn Cao đã hoàn toàn vượt qua ảnh hưởng của Thơ mới và nghiêng theo chủ nghĩa hiện thực. Nhưng rồi sau đó, Văn Cao chủ yếu chuyển sang nhạc, liên tiếp giành được những thành tựu lớn trong âm nhạc, còn đường thơ thì dần trở nên thưa thớt.

    Nửa cuối thập niên 40 của thế kỷ trước, Văn Cao có vài bài thơ, mà đáng chú ý phải nói đến Ngoại ô mùa thu năm 1946. Sự biểu đạt về ngôn từ ở đây đã thoát thai ra khỏi lối ước lệ cổ điển và cập nhật những từ ngữ mới mang hơi thở đời sống. Cũng phải nói rằng, chính cuộc sống chiến đấu và lao động mới sau Cách mạng tháng Tám đã giúp nhào nặn lại ngôn ngữ thơ của Văn Cao và đưa ông lên tuyền đầu với những ước mơ và khát vọng sáng tạo mới cho thơ.

    Trở lại với thời điểm bước ngoặt trong thơ Văn Cao, chính là khi ông viết trường ca Những người trên cửa biển. Ở trường ca này, Văn Cao lấy Hải Phòng làm một hoán dụ như “Việt Nam thu nhỏ”. Hải Phòng hiện lên trong thác lũ của chiến tranh và trong mơ ước nhào nặn lại hình hài của mình vươn đến cuộc sống mới. Cũng chính ở đây, bên cạnh những thành công và mơ ước, Văn Cao đã không ngại ngần đề cập đến những hiểm họa khó trừ trong hàng ngũ những người cách mạng:

    “Kẻ thù của chúng ta xuất hiện
    Những con rồng đất khi đỏ khi xanh
    Lẫn trong hàng ngũ
    Những con bói cá đậu trên những dây buồm
    Đang đo mực nước
    Những con bạch tuộc
    Bao tay chân cố dìm một con người…
    Đất nước đang lên da lên thịt
    Đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày
    Ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải
    Đã thấy loài sâu nằm dài trong cuống…
    Những tên muốn ôm cây mùa xuân không cho mọc
    Những tên muốn cây to che cớm mầm non”.
    Và ông cũng đã thấy những bi kịch lặng thầm:
    “Không có tiếng vỡ trong không gian
    Sao có tiếng vỡ trong lòng tiếng vang âm rên rỉ”

    Bản lĩnh Văn Cao, sự trung thực của ngòi bút, tính dự báo sâu sắc bắt đầu được thể hiện mãnh liệt. Và hẳn nhiên, điều này làm cho không ít người có quan điểm hẹp hòi lấy làm khó chịu.

    Cũng tại thời điểm này, Văn Cao viết bài Mấy ý nghĩ thơ như một tuyên ngôn về thơ, đặt ra những vấn đề lớn cho thơ hiện đại. Văn Cao đặc biệt nhấn mạnh đến tính tư tưởng của thơ: “Chúng ta đã qua một thời kỳ dài thiên về cảm xúc và một thời kỳ cảm giác, cái thời kỳ thiên về tư tưởng có phải đang bắt đầu không?”. Văn Cao bắt đầu có những đột phá cả trong khai thác đề tài và nghệ thuật biểu hiện. Bài Anh có nghe thấy không là một cách đặt vấn đề về nội dung mới cho thơ. Trong lời đề từ, Văn Cao ghi: “Gửi một nhà thơ”. Ông viết: 

    “Chỗ nào cũng có tiếng
    Chưa nói lên.
    Văn Cao không ngại ngần chỉ ra:
    Chung quanh còn những người khôn ngoan
    Không có mồm
    Mắt không bao giờ nhìn thẳng
    Những con mèo ngủ yên trên ghế
    Trong một cuộc dọn nhà
    Những con sên chưa dám ló đầu ra
    Những dây leo càng ngày càng tốt lá”

    Kẻ thù lớn nhất của cách mạng chính là những kẻ xảo trá, cơ hội lẫn vào hàng ngũ những người cách mạng để phá hoại nó. Hiện thực mà Văn Cao cảnh báo, tiếc thay, một thời đã không được khắc phục, không được chỉnh đốn kịp thời để sau này trở thành một hiểm họa lớn.

    Trong cái thời sung sức ấy, Văn Cao cũng chú trọng đến cách tân hình thức. Điều đáng nói là Văn Cao đề cao sự phù hợp giữa nội dung và hình thức thơ. Trong bài Gửi những nhà thơ, ông viết:

    “Hãy xếp lại thang âm
    A ba ca
    Da đa la ma
    Ôi vần thơ nhạc điệu
    Trong trúc trắc nặng nề ngột ngạt
    Trong chua chát ngậm ngùi hàng ngày quằn quại
    Chết mòn chết mòn chết mòn”

    Ở một sáng tác khác, ông cũng ví cánh thơ du dương như “chiếc máy bay của người đầu tiên tập lái”. Ông cho rằng, nhà thơ “hãy giữ lại thang âm và đôi cánh/ Trong cuộc đời cao tiếng hát du dương”. Tiếc thay, nửa cuối của thập niên 50 của thế kỷ trước, tài năng của ông đã không còn nhiều cơ hội được thể hiện trước công chúng.

    Từ những năm 60 của thế kỷ trước, cuộc sống của Văn Cao trở nên nặng nề, cô độc và thậm chí nơm nớp vì một sự đe dọa vô hình. Ông gần như không làm nhạc, phải vẽ minh họa cho báo hoặc vẽ bìa sách để kiếm sống và thường phải chịu cảnh đói nghèo. Ông cũng ít làm thơ. Hầu hết thơ ông viết không in được, chép trong sổ tay, thỉnh thoảng mới được đọc lên chia sẻ với bạn hữu trong những cuộc rượu.

    Mãi mấy chục năm sau, khi đất nước đã mở cửa, đổi mới thì thơ Văn Cao mới được in lại trong một tập . Sau khi Văn Cao mất, những tuyển thơ của ông mới dần dần được in nhưng vẫn còn một số bài thơ gai góc đến giờ vẫn chưa xuất hiện chính thức trong tập nào.

    Càng về sau, Văn Cao làm thơ như là một cuộc độc thoại với chính mình. Trước đây có lần ông muốn hét to lên, cảnh báo về những hiện trạng nguy hiểm đang dần dần lộ diện trong đời sống, nhưng chẳng ai nghe thấy, tiếng thét của ông tựa như gặp một triền núi dựng đứng chắn lại:

    “Khi tôi hú lên thật to
    Không nghe tiếng tôi nữa
    Như viên đá rơi vào im lặng
    Những ngọn núi dựng lên đen trũi
    Bờ một cái vực khổng lồ
    Nơi cả mặt trời mặt trăng
    Thường lặn xuống không tiếng động”
                                                (Lòng núi)

    Đến lúc chìm trong cô độc, ưu tư, Văn Cao chua xót nhận ra:

    “Bỗng nhiên
    Bóng người ấy che mất
    Nửa mặt của tôi”
                           (Nguyệt thực)

    Dù sao, thơ Văn Cao vẫn tiến những bước dài trong sự chiêm nghiệm về thân phận con người, về những nghịch lý của thời đại và trong nghệ thuật biểu hiện, ông đã chọn lối ẩn dụ, tượng trưng như một phương thức biểu đạt chính, tạo ra những bài thơ trùng điệp các tầng ngữ nghĩa, gợi liên tưởng và ngẫm suy không dứt.

    “Sự thất bại thường gặp trong một bài thơ là khép lại: Khép tất cả sự muốn nghĩ và muốn nói”. Văn Cao đã từng quan niệm như vậy, và ông đã thành công khi biến mỗi bài thơ của mình thành một tác nhân kích thích suy nghĩ của độc giả. Có thể coi mỗi bài thơ như một câu hỏi nhức buốt về sự sống, hoặc một tấm gương để độc giả soi vào và tự ngẫm suy về chính mình, về thời đại mình. Thơ Văn Cao vì thế không phải là một văn bản chết, cứng đờ trên giấy, nó lung linh, sống động và biến hóa tùy theo sức cảm và nghĩ của độc giả. Đó chính là sự hấp dẫn đặc biệt của thơ Văn Cao, thâm trầm, sâu sắc và liên tục gợi mở. Tính hiện đại của thơ Văn Cao biểu lộ rõ nét ở điểm này. Nó vượt thoát khỏi dòng thơ tuyên truyền đương thời. Nó xác lập một cá tính riêng, làm phong phú thêm cho thơ Việt và mở đường cho những dòng chảy mới của thơ sau này.

    Bài Năm buổi sáng không có trong sự thật là một thành công quan trọng trong nỗ lực hiện đại hóa thơ của Văn Cao. Bài thơ mở ra thế giới của tưởng tượng, của giả tưởng. Buổi sáng thứ nhất, khi tỉnh dậy bỗng “cả phố biến đâu mất”, “Mặt đất đỏ màu gạch nung/ như miệng quả núi lửa”. Buổi sáng thứ hai tỉnh dậy “không nghe tiếng chim hót”, không nghe tiếng chân đi, “không ai nhìn miệng tôi gào thét”. Tất cả chỉ có im lặng. Và nhà thơ cảm thấy “Hình như nơi đây bị đày trong im lặng”. Buổi sáng thứ ba, nhà thơ thấy “không phải mình thức dậy/ một người nào đó trong tôi đang thở”, thế rồi từ đó, bao nhiêu điều khủng khiếp đã diễn ra. “Từ khi ấy, chúng tôi hai người suy nghĩ/ Hai kẻ thù nhau/ Hai thái cực tâm hồn/ Hai người ấy trong một người chịu đựng/ mưu hại lẫn nhau”. Buổi sáng thứ tư, cả phố phường như mở hội. “Mọi con người đeo mặt nạ đi chơi” nhưng nhà thơ lại nhìn thấy “Nước mắt mồ hôi/ chảy ra trên từng mặt nạ”. Bài thơ kết lại bằng buổi sáng thứ năm ấm áp. Trong căn phòng trong suốt thủy tinh, “Em ở đây với anh”, “Da thịt em cho anh sưởi”, “Chúng ta đi vào bí mật của mùa xuân”. Năm buổi sáng là năm tình huống, năm cung bậc của cảm xúc, suy tưởng, tưởng tượng. Dù nó được vẽ nên mang màu sắc giả tưởng nhưng lại không xa lạ với hiện thực. Bài thơ khép lại mà sức gợi của nó không dứt, tựa như một chất xúc tác nhào nặn lại những suy nghĩ của độc giả.

    Nếu như Năm buổi sáng không có trong sự thật hướng ngoại, mô tả những cảnh ngộ chung của nhiều người, hoặc khái quát về cái chung, thì Ba biến khúc tuổi sáu lăm là một lối thơ nghiêng về ẩn dụ nói lên cảnh ngộ của một con người. Biến khúc thứ nhất, kể rằng, “một người cho tôi con dao găm” và tác giả vô tình ném con dao qua cửa sổ trong đêm. Bỗng có tiếng ngã ngoài sân, “một người trúng tim đã chết”. Tác giả thanh minh: “Tôi không hề biết người ấy/ Tôi là kẻ không muốn giết người/ Chỉ biết bóng tối/ mà tôi đã ném dao”. Biến khúc thứ hai kể về một oan khiên: “Bỗng nhiên mọi người nhìn tôi/ một ai đó kêu lên thằng ăn cắp”. Thế rồi, khi chạy hết cả cuộc đời, sắp gục xuống, “tỉnh dậy mồ hôi chảy/ tôi lại thấy tôi là người chưa phạm tội”. Biến khúc thứ ba, kể: “Tôi rơi vào mạng nhện/ mạng nhện cuốn lấy tôi/ không còn cách gì gỡ được”. Đây là một bài thơ đau đớn, nói về sự vô tình nghiệt ngã, sự xô đẩy của thời thế tạo nên số phận oan nghiệt của một con người. Dù tất cả hình ảnh trong bài thơ đều mang tính biểu trưng, nhưng hầu như những mâu thuẫn, những kịch tích lại khá rõ ràng và có thể hiểu được khá rõ.

    Trừ một số bài thơ dài, mà trường độ cảm xúc và tính khái quát không thua kém những trường ca, về cơ bản, thời kỳ những năm 60, 70 của thế kỷ trước, thơ Văn Cao ngắn gọn, cô đúc. Ông tìm sự liên kết trong ý tứ, hình ảnh, trong nhạc điệu, tức là sự liên kết từ bên trong chứ ít khi sử dụng những vần điệu vang vọng. Hình ảnh trong thơ ông thường biến nghĩa, cấu trúc câu cũng linh hoạt khơi gợi sự ngẫm ngợi. Hầu hết thơ ông quãng sau nghiêng về nghĩa bóng, mỗi bài thơ đặt ra những thách thức bí ẩn khiến người đọc phải giải mã điều thực sự nhà thơ muốn nói phía sau mỗi câu từ.

    Dù không sáng tác nhiều thơ (theo số liệu công bố gần đây 63 bài thơ và 2 trường ca), Văn Cao cũng đã ôm chứa trong ông bước dịch chuyển lớn lao mang dấu ấn của hơn nửa thế kỷ tìm đường của thơ Việt. Từ một nhà lãng mạn, Văn Cao đã nỗ lực để trở thành một nhà thơ hiện thực, từ một nhà hiện thực, Văn Cao đã tiến thêm một bước vào lãnh địa của thơ tượng trưng. Trong thơ ông người ta tìm thấy cả dấu ấn thân phận nhà thơ, lẫn nỗi cay đắng của một lịch sử đầy gấp khúc.

    * * *

    Sẽ là thiếu sót nếu không nói đến những cống hiến của Văn Cao trong lĩnh vực hội họa. Nhiều nghệ sĩ cùng thời với Văn Cao đều ghi nhận rằng, Văn Cao có nhiều bức tranh được giới mĩ thuật đánh giá cao. Đấy là những bức vẽ như có thần. Đôi khi chỉ bằng vài nét bút đã có thể gợi lên cái hồn của cảnh vật hoặc tâm tư của con người. Văn Cao vẽ nhiều chất liệu, nhưng sơn dầu là chính. Nhà văn Đỗ Chu cho biết, thời đất nước còn nghèo, Văn Cao sống chủ yếu bằng việc vẽ tranh và minh họa bìa sách. Văn Cao “Vẽ đến đâu người ta đến rước đến đấy… Có bức còn bày trong bảo tàng Mỹ thuật, có bức trong nhà ai đó quanh Hà Nội và có bức đã bay ra nước ngoài. Chỉ trừ có một bức ông vẽ bà Băng (vợ ông) mặc áo dài tím cánh sen rất nhã là ông không bán mặc dù rất nhiều người nài nỉ đòi mua”.Là một nghệ sĩ lớn nhưng Văn Cao luôn khiêm nhường và vô cùng bình dị. Ông đã sống như một người bình thường, yêu thương và trân trọng tất cả những gì xung quanh mình. Chính từ những điều bình thường ấy đã tích tụ dần, hình thành trong ông những khát vọng như mang cả tâm tư con người trong một thời đại. Những kiệt tác của ông đã từng được yêu chuộng trong những thập kỷ qua, sẽ còn đồng hành với con người và dân tộc Việt Nam trên những chặng đường mới, trong thế kỷ mới. Văn Cao là trường hợp điển hình về một nghệ sĩ đã đồng hành cùng dân tộc và thời đại mình để bằng tài năng và tâm huyết sáng tạo nên những tác phẩm bất hủ.

 

Bình luận

    Chưa có bình luận