Khao khát kiếm tìm sự cứu rỗi là một hành trình tinh thần “giày vò tôn giáo”1 của con người xuyên suốt mạch nguồn văn học Nga. Hành trình đó kiến tạo nên “dân tộc tính” sâu thẳm trong mỗi con người Nga, tạo nên chất Nga độc đáo và đầy bí ẩn. Tư tưởng cứu thế được xem là một cổ mẫu trong văn hoá Nga2. N. Berdyaev khi viết về tâm hồn Nga đã nhận định: “Từ thời xa xưa đã có những linh cảm rằng nước Nga được tiền định cho một điều gì đó vĩ đại […]. Tư duy dân tộc Nga được nuôi dưỡng bởi cảm giác nước Nga đã được Chúa tuyển chọn và mang sứ mệnh của Chúa. Điều đó xuất phát từ tư tưởng xa xưa về Moskva, như một La Mã thứ Ba, thông qua chủ nghĩa Slavơ đến với Dostoievski, Vladimir Soloviev và đến những người tân Slavơ chủ nghĩa đương đại”3. Tất cả những giai đoạn lịch sử nước Nga từ nước Nga Kiev - nước Nga Matxcơva - nước Nga Xô viết đều liên quan đến những dịch chuyển từ mẫu gốc cứu thế. Trong công trình “Cứu thế như một cổ mẫu trong văn hoá và văn học Nga”, nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Như Trang khẳng định tư tưởng nước Nga thần thánh bắt đầu hình thành từ thời cổ đại xa xưa. Sau cái chết của nước Nga Bizatyum quốc gia chính thống giáo cuối cùng vẫn tồn tại. Cuối cùng có nghĩa là đứng ở giới hạn của lịch sử, kết thúc một tiến trình lịch sử và đứng ở mức cao nhất trong thang giá trị4. Từ đó mệnh đề nổi tiếng xuất hiện: hai Rome đã sụp đổ, Rome thứ ba vẫn còn, Rome thứ tư không tồn tại. Do đó, khi Moskva – Rome thứ ba được xem là quốc gia Chính thống giáo cuối cùng – đứng ở đỉnh cao và tận cùng lịch sử thì sự biến đổi và suy thoái của tư tưởng cứu thế trong giai đoạn tiếp theo cũng là tất yếu.
Văn học Nga thế kỷ XIX đã chứng minh toàn bộ lịch sử nước Nga được bao bọc bởi một ánh sáng của Chúa Kitô qua thế giới quan của A. Chekhov, L. Tolstoy và F. Dostoievski. Sứ mệnh cứu rỗi phổ quát của Nga đã luôn là sứ mệnh “cứu rỗi thế giới”. Đại tự sự ấy tiếp tục phát huy sức mạnh khi nước Nga phải đối mặt với những bi kịch lịch sử của thế kỷ XX. Giấc mơ thiên niên kỷ của Nga với sức mạnh ân điển của Chúa vẫn được nối dài đến trang văn của I. Bunin hay những thế giới huyền ảo được tạo lập trong văn của M. Bulgakov.
Bước sang thế kỷ XXI, sau sự tan rã của Liên bang Xô viết, nước Nga với giai đoạn chuyển giao hậu Xô viết đã cho thấy diễn tiến tiếp theo của tư tưởng hậu cứu thế. Tư tưởng cứu thế rơi vào khủng hoảng khi con người mất niềm tin và liên tục khước từ, chối bỏ mọi ánh sáng ân điển của Thượng đế trong một thế giới hỗn loạn. Tác phẩm Vô hồn - Chuyện một người không chân chính của S. Minaev đã phác hoạ một thế giới hậu Xô viết với những không gian lạnh lẽo, ngập ngụa danh vọng và vật chất qua những địa điểm ăn chơi trác táng của xã hội “xác ướp” mà không chứa đựng bất kỳ một niềm tin hay cảm giác tâm linh, thần thánh nào. Luận điểm của N. Berdyaev: “Thành phố là số phận bi thảm của con người”5 như một lời tiên tri rằng sự phát triển của hệ thống đô thị sẽ tạo ra một nhà tù vô hình với nỗi đau khổ bao bọc lấy con người và càng làm nảy sinh những cuộc khủng hoảng tinh thần sâu sắc. Bóng tối phủ vây trên đất nước Nga đã thúc đẩy con người đi tìm ánh sáng chân lý và sự cứu rỗi của Thượng đế nhưng liên tục bị thất bại trong chính cảm giác về vai trò cứu chuộc của mình.
Trong công trình của mình, P. Duncan coi tư tưởng cứu thế là một hiện tượng có tính tiếp nối và logic6. Tính tiếp nối và sự biến hoá của tư tưởng cứu thế đã được nhiều nhà nghiên cứu phát hiện và chứng minh xuyên suốt lịch sử văn hoá Nga, từ thế kỷ XVI đến tận thế kỷ XX-XXI. Một trong những nhà trí thức ủng hộ mạnh mẽ học thuyết Rome thứ ba, coi nó là biểu tượng trung tâm cho sứ mệnh cứu thế của Nga chính là Nikolai Berdiaev. Berdiaev tin rằng khát vọng xây dựng một vương quốc công lý và tinh thần toàn nhân loại đã thấm nhuần văn hóa Nga từ lâu. Sau Cách mạng tháng Mười, dù ban đầu thất vọng, Berdiaev đã tái diễn giải tư tưởng cứu thế Nga, cho rằng chủ nghĩa Cộng sản Xô viết là một sự thế tục hóa và biến dạng của sứ mệnh ban đầu, một con đường vòng đau khổ để cuối cùng trở lại “Rome thứ ba” đích thực. Qua các tác phẩm Nguồn gốc của chủ nghĩa Cộng sản Nga và Tư tưởng Nga7, Berdiaev đã định hình cách hiểu hiện đại về tư tưởng cứu thế Nga, coi đó là một yếu tố tinh thần của dân tộc, có khả năng giải thích lịch sử và thậm chí cả sự trỗi dậy của chủ nghĩa Cộng sản. Đối với ông, chính tư tưởng cứu thế đã bị thế tục hóa và biến đổi thành một cuộc đua chinh phục thế giới của Liên Xô.
Tư tưởng cứu thế Nga luôn hiện diện, chi phối và có sự biến đổi theo từng thời kỳ trong các tác phẩm văn học. Bài viết đi sâu vào giai đoạn hậu cứu thế của xã hội hậu Xô viết, cùng khuynh hướng giải ảo chính nó qua hình ảnh đô thị Moskva được khắc hoạ trong tiểu thuyết Vô hồn - Chuyện một người không chân chính của S. Minaev. Trong tác phẩm này, quá trình rạn vỡ của tư tưởng cứu thế trong thế kỷ được thể hiện thông qua sự dịch chuyển của cấu trúc đô thị Moskva. Con người vô thần trong xã hội hiện đại trong tác phẩm không được xây dựng gắn liền với bất kỳ hệ thống tôn giáo nào. Con người trống rỗng và cô độc trong một đô thị hỗn loạn của chủ nghĩa tư bản và tư duy tiêu dùng phì đại với khát khao “dẹp loạn” và kiến tạo lại thế giới để rồi thất bại trong chính sứ mệnh đó. Mô hình đô thị trong tác phẩm này chính là một không gian dẫn đến sự lạc lối và khủng hoảng niềm tin của con người.
1. Cấu trúc đô thị trong Vô hồn và mô hình thế giới hậu cứu thế
Đại tự sự “Moskva – Rome thứ ba” hay ý thức kiêu hãnh về một “nước Nga thần thánh” được xem là một siêu cấu trúc, một cổ mẫu văn hoá và văn học Nga trong suốt chiều dài lịch sử. Thành phố Moskva được xem là một không gian trung tâm của mô hình tư duy cứu thế ấy. Song, bước sang thế kỷ XXI, sự dịch chuyển Moskva khỏi chính trung tâm của lịch sử, của sự bí ẩn của ân điển và cứu rỗi đã dần diễn ra. Trong công trình St. Petersburg and Moscow in Twentieth-Century Russian Literature (tạm dịch: St. Petersburg và Moscow trong Văn học Nga thế kỷ XX), nhà nghiên cứu về văn học và văn hoá Nga Isobel Palmer viết: “Moscow bị di dời khỏi vị trí địa lý và lịch sử của mình bằng những miêu tả “Tây hóa” về thành phố như một thủ phủ nhộn nhịp đầy ắp phương tiện giao thông và những tiện nghi hiện đại – một sự mở rộng của hiện tượng có thật: những stilyagi (“style hunters” – những kẻ chạy treo mốt, cái tên đặt ra để sỉ nhục giới trẻ phản văn hóa (counter-culture) sau chiến tranh) nhắc tới những con phố trong lòng những đô thị Xô viết là “Brodvei” (Broadway) – một sự phản kháng rõ rệt với những biểu tượng chính thức gắn liền với những không gian đô thị ấy. Nói chuyện với nhau bằng tiếng lóng đô thị thời thượng xen lẫn những từ mượn tiếng Anh và nhắc đến văn hóa phương Tây, những nhân vật này này nghe nhạc jazz và phần lớn thời lượng tiểu thuyết họ ở Riga – thành phố “Tây” nhất trong các thành phố Xô viết […] Do đó, sự trưởng thành của họ bao hàm sự chuyển dịch đi khỏi trung tâm mà Moscow là đại diện, thay vì tiến về trung tâm, như văn học hiện thực chủ nghĩa xã hội thời Stalin nhìn chung thường viết (Clark 1981)”8.
Như vậy, từ trước khi Liên Xô sụp đổ cho đến thời kỳ băng tan sau này, Moskva gần như chỉ còn là một không gian địa lý, tách biệt hoàn toàn với những cổ mẫu văn hoá quan trọng. Trong tiểu thuyết Vô hồn - Chuyện một người không chân chính, S. Minaev đã khắc hoạ một mô hình Moskva với những tụ điểm ăn chơi bậc nhất nước Nga, những nhà hàng, vũ trường và các khu mua sắm sang trọng và sự vắng bóng những địa điểm văn hoá, lịch sử hay tôn giáo. Đó là nơi mà sự thiếu vắng địa chỉ Viện bảo tàng Prado không đáng sợ bằng việc không biết địa chỉ của shop thời trang Prada. “Trong các cuốn cẩm nang du lịch ở Nga […], người ta dành khá nhiều giấy mực để nói kỹ càng về các mẫu quần áo thời trang mới, trong khi chỉ có vài ba trang lèo tèo đề cập đến giá trị văn hoá của những thành phố này”9. Sự vắng mặt kỳ lạ này đã chứng minh sự dịch chuyển, lùi xa khỏi trung tâm của tư tưởng cứu thế trong lịch sử; một sự “giải trung tâm” khỏi Moskva thu nhỏ của Chính thống giáo trước đây, nhường chỗ cho một thế giới hậu cứu thế với những kiến trúc không gian trống rỗng, vô hồn. “Còn ở Moskva ư? Chỉ rặt những hiệu quần áo thời trang hay quán rượu. Và thánh đường Chúa cứu thế vốn đã giống miếng mô cấy sinh học bằng silicon nay lại được các mụ già triệu phú xếp đặt lại theo ý mình với hi vọng sẽ dễ trông hơn”10.
Trong lịch sử văn học Nga, Moskva là một không gian quen thuộc trong nhiều tác phẩm của các nhà văn lớn như: A. Chekhov, L. Tolstoy, M. Gorki, I. Bunin, M. Bulgakov... với một cảm thức thần bí về sứ mệnh cứu rỗi thiêng liêng. Vào thế kỷ XX, những nhà văn phi chính thống như I. Bunin hay M. Bulgakov đã dự báo về một Moskva với sự tàn lụi của những niềm tin tôn giáo. Đó là Moskva trong Ngày thứ hai chay tịnh với rất nhiều địa danh gắn liền với truyền thống văn hóa Chính thống giáo như thánh đường Chúa Cứu Thế (1863), tu viện Chudov (1365), nhà thờ Iverskaia. Đối với Bunin, một Moskva hay một nước Nga đích thực chính là nước Nga với những trại ấp quý tộc và những nhà thờ Chính thống giáo. Sự gợi nhắc về những nơi chốn đã mất đã cho thấy dự cảm của ông về số phận tiếp theo của nước Nga với những suy tàn lịch sử – nơi mà chức năng cứu rỗi của Chính thống giáo có thể sẽ không còn. Trong cuốn tiểu thuyết Nghệ nhân và Margarita, M. Bulgakov đã xây dựng hai không gian song trùng là không gian hiện thực (Moskva) và không gian kinh thánh (Yershalaim), từ đó khẳng định một Moskva nếu thiếu đi Chính thống giáo, không có bất kỳ niềm tin về Đấng tối cao sẽ trở nên hỗn loạn và bi thảm.
Sự hỗn loạn của thế giới hậu cứu thế đã thật sự diễn ra với sự sụp đổ của những giá trị tinh thần và suy đồi đạo đức trong tầng lớp thượng lưu Moskva giàu có. Cấu trúc đô thị trong Vô hồn được xây dựng nhằm biểu đạt đời sống tinh thần trống rỗng ấy, thông qua một số địa điểm cố định như nhà hàng, vũ trường – đại diện cho đời sống trác táng, thói ăn chơi xa xỉ và văn phòng – nơi con người trở thành robot được lập trình để làm việc.
Không gian nhà hàng xuất hiện với tần suất dày đặc trong câu chuyện được ví như những “trại tập trung” thời hiện đại. Đó là một trong những địa điểm ăn chơi thời thượng của người dân thành phố. Nhà hàng Vogue - nơi bắt đầu Vô hồn, thông qua lời kể của người kể chuyện “vốn có tiếng là đồ ăn dở, bãi đỗ xe bất tiện, đám nhân viên phục vụ thô lỗ và quầy bar thường xuyên chật cứng vì đám người vây quanh”11. Những mô hình nhà hàng như thế này được so sánh như là trại tập trung của Đức Quốc Xã. Một điều ngược đời là những địa điểm càng nhiều tiếng xấu nhất thì lại càng có sức thu hút đủ loại khách hàng và trở thành chốn ăn chơi khét tiếng tại Moskva.
Trong toàn bộ cuốn tiểu thuyết, S. Minaev không chỉ tập trung xây dựng một địa điểm ăn chơi duy nhất là nhà hàng, mà còn có những tổ hợp giải trí trác táng khác, ví dụ vũ trường, quán bar và phòng vệ sinh nơi các “tay chơi” chia sẻ cho nhau “đồ trắng”. Tuy nhiên, mô hình nhà hàng lại được tác giả dành hẳn một chương đầu để mô tả. Phải chăng sự xuất hiện của nhà hàng cũng mang tính biểu tượng và liên quan đến một sự kiện lịch sử về sự sụp đổ của Liên Xô trước đó? Đó là một ngày đầu thập niên 90, trên bầu trời mùa đông của thủ đô Moskva, một cảnh tượng không tưởng tiên tri cho điều sắp đến: lá cờ đỏ búa liềm Cộng sản tung bay phấp phới cạnh lá cờ đỏ có chữ M vàng của thương hiệu đồ ăn nhanh Mcdonald’s. Ngày 31 tháng 1 năm 1990, cửa hàng Mcdonald’s đầu tiên mở cửa đón khách Nga, trên quảng trường Pushkin ở trung tâm Moskva. Dưới chân logo chữ M màu vàng rất lớn là lá cờ búa liềm với kích cỡ khiêm tốn. Từ bốn giờ sáng người ta đã xếp hàng và ngày đầu tiên, nhà hàng Mcdonald’s với 900 chỗ ngồi – chi nhánh lớn nhất trên thế giới khi đấy – sẽ phục vụ tới 30 nghìn thực khách12. Nhiều người Nga xếp hàng, nhiều người Nga rơi nước mắt. Ngày ấy trong lịch sử đánh dấu sự xâm lấn rõ rệt và không thể đảo ngược của chủ nghĩa tư bản vào giữa lòng nước Nga Xô viết. Gần hai năm sau, Liên bang Xô viết chính thức sụp đổ. Nhiều tác phẩm nghệ thuật giai đoạn này cũng sử dụng hình ảnh cửa hàng thức ăn nhanh Mcdonald’s để nói đến chủ nghĩa tư bản đã không còn chỉ len lỏi qua những kẽ hở giữa Bức Màn Sắt13, mà giờ đây ngang nhiên bành trướng. Nhiều người Nga đã chán ngắt sự kìm kẹp và niềm tin đã tha hóa từ lâu, giờ lại càng sùng bái và vội vã ôm lấy chủ nghĩa tư bản và nhốt mình trong những “trại tập trung” là nhà hàng. Nhà hàng đã trở thành một biểu tượng của sự Tây hoá, thời thượng; là thước đo cho sự giàu có, sang trọng; từ đó trở thành một không gian mấu chốt trong sự phát triển của đô thị.
Bên cạnh mô hình nhà hàng với tổ hợp ăn chơi truỵ lạc, một địa điểm quan trọng trong cấu trúc đô thị Nga lúc bấy giờ chính là hình ảnh văn phòng công ty của các tập đoàn đa quốc gia. Nhân vật trong Vô hồn gọi hình ảnh văn phòng làm việc và công ty của mình là Riverside Mordors – Địa phận của Chúa Tể Đen, pháo đài của sự độc ác vô hạn trong tiểu thuyết Chúa tể của những chiếc nhẫn. “Ngay từ ngày đầu đến làm việc tại đây, tôi chỉ thấy cái tháp này gắn với hình ảnh những lâu đài lạnh lẽo kiểu gô tích, hay những hang động của quỷ thần mà người ta vẫn thường bắt gặp trong các cuốn tiểu thuyết giả tưởng”14. Sự phát triển của đô thị hiện đại luôn gắn liền với hình ảnh những toà nhà cao tầng. Kiến trúc công ty hiện đại với cảm giác lạnh lẽo, vô hồn và cô lập, cho thấy dự cảm bất an, lo lắng trước mê cung không lối thoát luôn tồn tại những cặp mắt vô hình kiểm soát và theo dõi con người. Cũng tại những không gian văn phòng làm việc này, nhân vật nhận ra một vòng lặp luẩn quẩn của việc đi làm đúng giờ và tất tả chạy về khi tan làm, như một sự lập trình mà không ai trong đó đặt ra sự phản kháng.
Trong công trình The City in Literature (Đô thị trong văn học), nhà nghiên cứu Richard Lehan đã chỉ ra rằng sự phát triển của thành phố tạo ra sự đa dạng phức tạp mà chính nó vừa là chìa khóa cho sự khởi đầu của đô thị vừa là con rắn trong vườn địa đàng đô thị, thách thức các hệ thống trật tự và khuyến khích sự hỗn loạn, vô tổ chức. Thành phố công nghiệp mang theo ô nhiễm đô thị và các khu ổ chuột: ống khói trở thành một lối sống. Từ đó, đám đông đô thị càng bất ổn, nhiều biến động khó lường15. Một Moskva thế kỷ XXI trong xã hội hậu Xô viết với sự bành trướng của những chuỗi nhà hàng, địa điểm ăn chơi thời thượng đã cho thấy sự biến đổi của thành phố trở thành đô thị hiện đại với sự đa dạng, phức tạp đã mở ra thế giới đầy hỗn loạn.
Thởi kỳ hậu Xô viết với cấu trúc đô thị xa rời mọi giá trị tinh thần, tạo nên mô hình thế giới hậu cứu thế với những biến đổi của tinh thần cứu thế so với giai đoạn trước. Những văn phòng công ty hay các tổ hợp ăn chơi trác táng đã phản ánh bộ mặt xã hội đặt đồng tiền và danh vọng lên hàng đầu. Đó là những “trại tập trung” thời hiện đại, giam giữ và kiểm soát mọi hành vi của con người. Cũng trong đô thị hậu Xô viết, viện bảo tàng hay các triển lãm văn hoá, nghệ thuật hoàn toàn bị phủ một lớp bụi dày, không được quan tâm hoặc có chăng cũng chỉ là những xu hướng khoe mẽ, ra vẻ của đám thanh niên thích học đòi. Bởi vậy, chỉ còn lại một đô thị phát triển ở bề ngoài nhưng mục ruỗng bên trong. Không có bất kỳ một nhà thờ hay các địa điểm tâm linh được nhắc đến. Cũng ở đó, con người hoàn toàn không có những suy tư hay trăn trở, dằn vặt tôn giáo. Niềm tin về sự cứu rỗi gần như không thể nào hiện hữu bên trong những “xác ướp”. Sự bất lực hay cơn tuyệt vọng đầy hằn học và buồn nôn của nhân vật chính đã khiến cho niềm tin về sự thanh tẩy hay cứu chuộc không thể le lói.
2. Những đám đông đô thị: một xã hội “xác ướp” và “robot”
“Đô thị thường tự thể hiện một cách hoán dụ, được hiện thân bởi đám đông. Chúng ta nhìn xuyên qua đám đông – dù là những người chết biết đi của Eliot và Baudelaire hay đám đông bạo lực trong các tác phẩm của Dickens, Zola, Dreiser, West và Ellison—để thấy thành phố”16. Thông qua những đám đông điển hình hiện diện khắp nơi trong thành phố và cách nhà văn gọi tên chúng, chúng ta sẽ nhìn thấy rõ nét một Moskva thời kỳ hậu Xô viết với sự dịch chuyển khỏi trung tâm của tư tưởng cứu thế. Đó là một thành phố mục ruỗng, nơi con người rơi vào khủng hoảng niềm tin về Đấng tối cao và vai trò kiến tạo thế giới của chính mình.
Thế giới hậu cứu thế với sự sụp đổ của hệ thống Xô viết đã tạo ra một khoảng trống quyền lực và đạo đức, được lấp đầy bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩa tiêu thụ thái quá, sự thờ ơ chính trị và sự suy thoái các mối quan hệ xã hội. Các nhân vật trong Vô hồn đại diện cho một thế hệ trẻ giàu có, hưởng thụ những thành quả của nền kinh tế thị trường mới nổi nhưng lại hoàn toàn mất phương hướng về mặt tinh thần. Họ sống trong những bữa tiệc xa hoa, những mối quan hệ hời hợt và sự tìm kiếm vô vọng những thú vui vật chất mà không có bất kỳ mục đích hay ý nghĩa sâu sắc nào trong cuộc sống.
S. Minaev đã gọi xã hội đô thị nước Nga lúc bấy giờ chính là “thành phố xác ướp” – nơi những con người không hề sống mà chỉ tồn tại vật vờ với ham mê danh vọng, tiền bạc và thú đua đòi theo những giá trị xa xỉ, hào nhoáng. Đó là một thế giới của những cỗ máy làm việc và các xác ướp ăn chơi, hưởng lạc; hoàn toàn trống rỗng về linh hồn hay đời sống tinh thần. Trong cuốn tiểu thuyết này, S. Minaev đã khái quát ba kiểu con người đô thị điển hình lúc bấy giờ: (1) xác ướp hay còn gọi là các dân chơi đêm chỉ bắt đầu cuộc sống khi về đêm, trú ngụ ở các nhà hàng và tụ điểm ăn chơi; (2) robot làm việc thông qua những nhân vật thư ký, giám đốc, nhân viên văn phòng được tác giả ví thẳng thừng như một lũ đần; (3) hình ảnh người hùng thời đại theo kiểu Petsorin trong Một anh hùng thời đại của M. Lermontov – kẻ nhận ra bộ mặt thối tha của đời sống đô thị với những chiêu trò rẻ mạt nhất nhưng sống thiếu niềm tin và sa lầy trong thế giới ấy. Thông qua ba hình tượng nhân vật này, cuốn tiểu thuyết Vô hồn đã xây dựng nên thế giới con người đô thị hoàn toàn trống rỗng, cô đơn và đầy tuyệt vọng của xã hội Nga đương đại.
Những nhân vật “xác ướp” được miêu tả với đặc điểm luôn trau chuốt vẻ ngoài với quần áo hàng hiệu, trang điểm cầu kỳ. Cuộc sống của họ chỉ xoay quanh việc theo đuổi những thú vui phù phiếm, những giá trị vật chất. Họ sống trong một thế giới nhân tạo, nơi mà ánh đèn neon, mĩ phẩm, quần áo hàng hiệu trở thành những thứ quan trọng nhất. Đám “xác ướp” tồn tại khắp nơi, tỉ lệ thuận với sự gia tăng không ngừng của các mô hình nhà hàng tụ tập, quán rượu hay vũ trường. Bởi sự xuất hiện của những địa điểm ăn chơi ấy chính là nơi những xác ướp vật vờ bám víu lấy và khẳng định giá trị bản thân. Những giá trị đó chỉ dừng lại ở việc họ sành điệu như thế nào khi ghé thăm những nhà hàng mới mở, những quán bar cao cấp và chịu chi thế nào cho các bữa tiệc, những cuộc nhậu nhẹt và những chiếc túi hàng hiệu đắt đỏ.
Quá trình sa lầy vào vũng bùn của sự trống rỗng, vô tri thực chất là một quá trình tha hoá bởi sức nặng đồng tiền bao trùm lên thành phố này. Cuộc sống của những xác ướp đã từng là con người chính xác là những vòng lặp của áp lực vật chất. Trong vở kịch The Rock (1934), T. S. Eliot cũng đã cho thấy những băn khoăn về sự xa rời khỏi đức tin của con người bị đè bẹp bởi đồng tiền trong một thành phố hiện đại hoá “Lời khách lạ vọng đến: “Thành quách này thật sự có ý nghĩa gì? Lẽ nào các người tụ lại, san sẻ hơi ấm vì lòng mến ái?” Ngươi sẽ trả lời ra sao? “Chúng ta cùng nương náu dưới mái nhà đô hội này, chẳng qua cũng vì mưu cầu lợi lộc cho riêng mình mà thôi””17. Đây cũng là tấn bi kịch thời đại khi con người bế tắc trong việc tìm kiếm những giá trị hay ý nghĩa của sự hiện hữu trong cuộc đời giữa thành phố huyên náo này. S. Minaev cho rằng sự tha hoá bắt đầu từ việc họ luôn trốn tránh mọi nỗi sợ, sự đau buồn hay bất kỳ cơn trầm cảm thời đại nào ập đến. “Depressia (cơn trầm cảm, tuyệt vọng) là chữ D thứ tư mà người ta không nhắc đến ở đây. Người ta sợ nó và trốn chạy khỏi nó. [...] Họ tổ chức những bữa tiệc linh đình không thể tưởng tượng, mua những bộ trang phục ngớ ngẩn với cái giá ngớ ngẩn […] họ cố tỏ ra điên khùng, mất trí, mà cái trí khôn của họ cũng làm gì còn”18. Bản thân xác ướp luôn phải giữ mình là một xác ướp, bán linh hồn của mình để chạy trốn khỏi những cơn dằn vặt, nỗi sợ hãi vốn tất yếu xảy ra giữa một nhà tù lạnh lẽo và kín mít, đáng sợ của thời đại. Họ sa lầy vào đời sống ăn chơi hưởng lạc, vùi mình trong thói quen tiêu dùng phì đại bởi sự sống vô tri luôn dễ dàng hơn nhiều so với những đau khổ, giằng xé hiện sinh để khẳng định ý nghĩa cuộc sống.
Cùng với hình tượng “xác ướp” đô thị là sự xuất hiện của “robot” văn phòng, được S. Minaev xây dựng thông qua những nhân vật thư ký làm việc trong các công ty, đám nhân viên văn phòng chỉ biết làm theo và phục tùng mọi yêu sách từ cấp trên, được lập trình để đi làm và trở về nhà. Họ không hề tồn tại bất kỳ năng lực phản kháng nào mà để mặc cho xã hội, công việc đày ải cuộc đời họ. “Riêng tôi biết rất rõ rằng, đám thư ký này là những cỗ người máy. Và rõ là cần phải cắm điện thì họ mới làm việc được”19.
Người kể chuyện liên tiếp thể hiện sự chán chường và khinh miệt đối với những “robot” này, gọi họ là “lũ đần” và miêu tả dáng vẻ của họ theo cùng một kiểu, mối quan tâm cũng chỉ dừng lại ở thói quen tiêu dùng phì đại bởi ham mê vật chất vô độ. Đám robot này chỉ là những công cụ để thực hiện các nhiệm vụ được giao, không có khả năng vượt ra khỏi khuôn khổ đã được định sẵn. Sâu xa hơn, nhà văn đã cho thấy một hiện thực trong xã hội tư bản: con người trở nên quá máy móc, quá lệ thuộc vào hệ thống đến mức đánh mất đi những phẩm chất đơn giản của con người như sự sáng tạo, tình cảm, hay khả năng tư duy độc lập. Thực chất, họ cũng không khác đám “xác ướp” là bao, ngoại trừ chức năng làm việc và không gian tồn tại.
Thành phố biến đổi khi chức năng của nó thay đổi. Nếu người ta không còn tin vào Moskva – Rome thứ ba thì rõ ràng Moskva không còn chuyển tải niềm tin tâm linh theo Chính thống giáo Nga, thành phố này sẽ không còn được phủ lên màn sương bí ẩn của sứ mệnh cứu rỗi mà trở nên rỗng tuếch với những đám đông chỉ biết chạy theo đồng tiền và danh vọng. Nhà nghiên cứu Richard Lehan khẳng định: “Khi thành phố biến đổi theo sự thay đổi chức năng của nó, trung tâm trở nên phức tạp hơn khi cả công việc và dân số đều trở nên đa dạng hóa. Sự đa dạng như vậy tất yếu dẫn đến sự xuất hiện của “Kẻ Khác” - một yếu tố đô thị, thường là một nhóm thiểu số, bị coi là “bên ngoài” cộng đồng. Nhưng về mặt biểu tượng huyền thoại, hiện thân của Kẻ Khác là người lạ bí ẩn - hình tượng Dionysus trong thành phố sơ khai, người đàn ông bí ẩn từ hư vô, kẻ phá vỡ thành phố từ bên trong”20. Trong Vô hồn, toàn bộ thành phố hậu cứu thế được nhìn nhận rõ nét và mỉa mai giễu cợt qua đôi mắt của một “kẻ khác” là nhân vật “tôi” – một doanh nhân thành đạt làm việc trong một công ty thuộc chuỗi chi nhánh kinh doanh đồ hộp của Pháp. Anh có khả năng nhìn nhận mọi sự diễn ra bao gồm những điều bẩn thỉu, dơ dáy và rỗng tuếch nhất của thành phố ở một chiều kích sâu sắc. Trước những giả dối của Moskva, nhân vật này thể hiện sự hằn học và cay nghiệt với cuộc đời, nhưng lại đóng vai một kẻ đốn mạt như bao kẻ khác, với thói quen lui tới những nhà hàng, vũ trường, tổ hợp vui chơi giải trí và sa đọa trong chất cấm và gái điếm. Khó có thể nói rằng anh ta là hiện thân của anh hùng thời đại, bởi anh không có sức mạnh “phá vỡ thành phố từ bên trong” và liên tiếp thất bại trong ý tưởng về vai trò cứu rỗi của mình.
Anh ta là một “kẻ khác” bởi anh ta nhìn ra được những bi kịch của số phận và sự tha hoá của đời sống đô thị mà thẳng thừng viết nên những lời châm biếm sâu cay, tức giận đối với hệ thống mà anh ta biết mình chỉ là một con rối trong đó. Nhưng tất cả đều diễn ra trong suy nghĩ và những dằn vặt trong tâm hồn anh khi phải cay đắng đối diện với sự sống hỗn tạp, lai căng và xấu xí từng giây, từng phút. Anh chấp nhận với công việc văn phòng máy móc của mình, đến những nhà hàng, vũ trường và chìm trong đời sống truỵ lạc ở đó. Nhiều khoảnh khắc giằng xé trong anh diễn ra mạnh mẽ, ý thức khinh miệt chính mình trỗi dậy. Đó là giây phút anh ta tỉnh dậy sau một đêm ăn chơi truỵ lạc và thác loạn trong quán bar với cô điếm rẻ tiền, anh ta thấy mình tởm lợm đến mức ra sức kỳ cọ thân thể nhằm xóa sạch những ô uế ấy: “Tôi tự ghê tởm mình, đến nỗi đã tự kỳ đi kỳ lại nhiều lần cơ thể bằng cái xơ mướp dưới vòi sen. Giá mà có cái xơ mướp có thể chùi rửa hết mọi vết nhơ bẩn trong tâm hồn. Và tâm hồn sẽ trở lại trong sạch, mãi mãi, hệt như mình của cái thời xa xưa cách đây hai mươi năm”21.
“Kẻ khác” là người duy nhất hòa trộn trong đám đông đô thị nhưng không biến thành xác ướp và vẫn cho người đọc nhìn thấy nhân tính thông qua sự dằn vặt, giằng co về những giá trị phi vật chất, những khát khao sâu thẳm về Đấng cứu thế và mong muốn “dẹp loạn” thành phố ấu trĩ, rác rưởi này. Anh ta không giấu những giọt nước mắt sau khi tách ra khỏi đám gái điếm và những cuộc chơi bời trong vũ trường, đơn độc giữa Moskva về đêm và thấy “hèn hạ, đê tiện, và đồng thời lại thấy buồn vô hạn. [...] tôi lấy vạt áo khoác lau nước mắt, hệt như một ả điếm ngoài ga tàu đang lau lớp cọ chải mi rẻ tiền bị nhoè trên mắt vậy”22. Anh ta hằn học cả thành phố nhưng cũng không ngừng phỉ báng và dằn vặt chính mình bởi sự thỏa hiệp của anh ta với những gì dơ bẩn nhất trong xã hội. Anh ta tự thấy mình hèn mọn bởi kể cả khi anh ta có thể nhìn thấy những gì thối nát nhất đang diễn ra trong lòng thành phố, thì anh ta vẫn không thể dấy lên bất kỳ sức mạnh quyết tâm nào phá vỡ hệ thống. Chúng ta không nhìn thấy khao khát làm Napoleon hay trở thành con người siêu nhân như Rascolnikov khi đứng trước xã hội cũng lắm loạn lạc ở thế kỷ XIX23.
Sự bất lực và cảm giác ê chề của nhân vật “tôi” diễn ra liên tục mỗi khi có một nhân vật mới nào xuất hiện và gieo vào anh ta tia sáng le lói của sự đồng điệu và cứu rỗi anh ta khỏi vũng lầy. Đó là khi anh ta tưởng mình đã nhìn thấy nhân cách của một cô điếm, khi cô ta nói rằng cô không quan tâm đến Gucci, nhưng ngay sau đó lại muốn vòi tiền của anh ta để mua một thương hiệu đắt đỏ khác. Hay khi anh ta tưởng rằng mình đã tìm được cộng đồng của mình – những người nghệ sĩ văn chương trong nhóm kín qua internet khi lúc bấy giờ internet mới bắt đầu thịnh hành. Nhưng rồi thật nực cười vì ở đó anh ta vẫn nhìn thấy một xã hội thu nhỏ của những điều vô nghĩa, của những kẻ thất nghiệp chỉ thích đi ba hoa về văn chương và vẫn quỳ sụp trước đồng tiền và danh vọng. Trong quán rượu nơi anh ta cảm thấy nhục nhã kinh khủng vì bị chính người bạn mình phản bội trong kế hoạch góp vốn xây vũ trường; một gã kỳ lạ và thốt ra những lời giáo điều với anh ta. Nhưng đó không phải là Svidrigailov sẽ tranh luận với anh ta về vai trò của đức tin và sức mạnh của con người trong Tội ác và hình phạt, cũng không phải là Voland – kẻ sẽ vạch trần sự thối tha của xã hội bằng những màn ảo thuật của mình trong Nghệ nhân và Margarita. Đó chẳng qua chỉ là một gã đồng tính muốn gạ gẫm nhân vật “tôi”, vừa nói những điều nghe có vẻ đồng điệu với “tôi” nhưng thỉnh thoảng lại sờ mông “tôi”. Đặc biệt, đối với Julia – một người phụ nữ chân chính duy nhất trong toàn bộ tiểu thuyết, anh luôn tìm lại được sự nhẹ nhõm như thể được thanh tẩy trong phút chốc sau những cuộc sa đoạ. Anh ta không dám nghĩ đến chuyện làm những điều dung tục với Julia, bởi nàng quá trong sáng và cao quý. Họ nhắn tin với nhau, viết thư cho nhau và nói chuyện như hai tâm hồn tri kỷ, đồng điệu. Đáng ra chúng ta có thể nhìn thấy màn cứu rỗi của một người phụ nữ với sức mạnh của tính nữ, lòng bao dung và sự hiểu biết cao rộng như một ân điển sẽ kéo “tôi” ra khỏi vũng bùn tuyệt vọng. Tuy nhiên, sau những cơn ghen tuông vô cớ của “tôi”, anh ta đã khước từ ánh sáng cứu rỗi duy nhất ấy. Anh ta đã nói những lời lẽ cay nghiệt về sự tha hoá của chính mình. Anh ta không cầu xin Julia sự cứu rỗi mà gạt nàng ra khỏi cuộc sống, cho rằng nàng không thể hiểu nổi sự khốn cùng của anh: “Nếu em là nữ thần thì việc gì em phải ngồi đó với gương mặt như vậy, cứ như thể em đang sợ những thứ bẩn thỉu giây vào người. Thiên thần không có chỗ đứng ở những nơi bẩn thỉu. Hãy vẫy cánh và bay đi, em yêu”24.
Liên tục hết lần này đến lần khác, anh ta thất bại ê chề trong chính vai trò cứu rỗi của mình. Anh ta rơi vào khủng hoảng niềm tin về sự hiện diện của Đấng cứu thế. Anh ta chìm trong sự giằng xé kinh khủng về sự đớn hèn của bản thân. Tinh thần “giày vò tôn giáo” mang đậm chất Nga mà nhà nghiên cứu Berdyaev đã chỉ ra nay hiện diện trong con người đô thị Vô hồn ở tính chất dằn vặt và mâu thuẫn trong niềm tin tâm linh của chính mình. Anh ta không thể cứu rỗi thành phố khi chính anh ta cũng là một nạn nhân của xã hội này và chưa thể vùng lên khỏi những nhơ nhuốc bẩn thỉu và đốn mạt của thành phố. Trong tác phẩm Postmark: Moscow (tạm dịch: Dấu bưu điện: Mát-xcơ-va) (Shtempel–Moskva 1925), Sigizmund Krzhizhanovsky suy ngẫm về tương tác giữa con người với đô thị bằng cách đi tìm ý nghĩa cho chính Moskva: “những người giống như tôi đã bước đi, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, thế kỷ này qua thế kỷ khác, từ ngã tư này đến ngã tư khác, quanh những quảng trường, qua những nhà thờ và chợ, được bao bọc bởi những bức tường, giam hãm trong suy nghĩ: Mát-xcơ-va. Trên dấu chân của họ là thêm nhiều dấu chân nữa và nhiều dấu chân hơn nữa; trên những suy nghĩ của họ, thêm nhiều suy nghĩ nữa và nhiều suy nghĩ hơn nữa”25. Một Moskva quanh co, vòng vèo qua những câu văn uốn lượn và những ám ảnh, trăn trở về ý nghĩa thật sự của Moskva. Còn nhân vật “tôi” trong Vô hồn cũng có những lần lang thang khắp Moskva trong một cơn buồn nôn tuyệt vọng “Rồi tôi chợt khám phá ra rằng, mình rất thích lượn lờ, lang thang trong cái thành phố này vào ban đêm, ngắm nhìn những ánh đèn, xe cộ, cả những đám gái đứng bắt khách trên các con phố [...] Dường như tôi đã nhìn thấy cả cái thành phố này hàng nghìn lần rồi, với tất cả những gì huyên náo và ồn ào, bừa bãi”26. Kẻ khác trong Vô hồn không lang thang khắp Moskva quanh co để đi tìm lời giải cho thành phố mà chỉ để củng cố cho sự tuyệt vọng của anh ta về những rác rưởi thối tha của đô thị này mà thôi. Kiến trúc không gian không còn là một văn bản đa tầng để con người giải nghĩa và tìm thấy ý nghĩa thần thánh của nó. Ở đây, Moskva hiện lên trong mắt nhân vật “tôi” cả hàng nghìn lần đều chỉ là những chi tiết mục ruỗng về đám gái điếm như nhau. “Kẻ khác” trong câu chuyện đã bóc mẽ trần trụi sự thật về thành phố với những gì cặn bã và rác rưởi nhất, đồng thời cho thấy khuynh hướng “giải ảo” đô thị với sự huyền bí tâm linh đã từng làm nên chất Nga đặc sắc. Sự sụp đổ liên tục của nhân vật “tôi” trước mọi nhen nhóm về sự cứu chuộc và cả cơn khủng hoảng niềm tin vào Đấng tối cao của anh ta đã cho thấy nỗ lực giải ảo tư tưởng cứu thế bởi những con người vô hồn không còn hướng đến niềm tin cứu thế và thậm chí khước từ, chối bỏ ánh sáng của ân điển. Con người đô thị xa rời và thiếu vắng những đức tin tôn giáo, họ không có một sợi dây nào để bám víu và nương tựa cho linh hồn đầy tội lỗi và khổ đau của mình. Sự huyền bí, kỳ ảo của đức tin vào vận mệnh và sự cứu chuộc đã bị đạp đổ, được “giải ảo” bằng những lời văn đầy lạnh lùng về thế giới đô thị ngổn ngang, coi trọng đồng tiền và hư danh. Tất cả những nhân vật hành xử như những con rối trong tay của quyền lực và mê cung không lối thoát. Ở hệ thống đó, khả năng thực hiện sứ mệnh phá vỡ hay thay đổi nó để tạo nên một xã hội tốt đẹp hơn gần như không thực hiện được. Đô thị Moskva hỗn loạn như một sự phát triển tất yếu, sau đại tự sự “Moskva - Rome thứ ba”.
3. Kết luận
Như vậy, Vô hồn của S. Minaev thể hiện sự khủng hoảng niềm tin của con người đương đại. Sự dịch chuyển của Moskva khỏi trung tâm của tư tưởng cứu thế thông qua thay đổi về cấu trúc đô thị đã khái quát mô hình thế giới hậu cứu thế xa hoa, hào nhoáng nhưng rỗng tuếch, vắng mặt những giá trị văn hoá và xa rời những niềm tin tâm linh. Ở đó, con người được khắc hoạ như những cỗ máy và xác ướp vô hồn, chỉ biết tuân theo hệ thống bào mòn sức lao động của mình rồi nướng tiền vào những thú vui truỵ lạc, bám víu vào những giá trị vật chất tầm thường để chạy trốn khỏi những chấn thương tâm lý hay khủng hoảng hiện sinh. Chính “người anh hùng thời đại” dẫu nhận ra những bi kịch xã hội nhưng cũng thất bại trong chính vai trò cứu rỗi và tái thiết lại thế giới của mình. Đô thị Moskva không còn là nơi chốn của Chính thống giáo, chuyển tải ý nghĩa tâm linh thần bí mà trở thành không gian sùng bái vật chất và danh vọng.
Chú thích:
* Nghiên cứu này được tài trợ bởi Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn trong đề tài mã số SV.2025.06.
1, 5 Berdyaev, N. (2017), Thế giới quan của Dostoevsky, Nguyễn Văn Trọng dịch, NXB. Tri thức, tr. 47.
2, 4 Nguyễn Thị Như Trang (2017): “Cứu thế như một cổ mẫu trong văn hoá và văn học Nga”, Tạp chí Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, tháng 4, tr. 78-86, 80.
3 Berdyaev, N. A. (1992, 2003): “Tâm hồn Nga”, Tạp chí Văn học nước ngoài (6), Từ Thị Loan dịch, https://vnexpress.net/tam-hon-nga-1-1973868.html, truy cập ngày 1/4/2025.
6 Duncan, Peter J. S. (2000), Russian Messianism: Third Rome, Revolution, Communism and After, London: Routledge, p. 1-6.
7 Nguồn gốc của Chủ nghĩa cộng sản Nga lần đầu tiên được xuất bản bằng tiếng Đức vào năm 1937 với tựa đề Sinn und Schicksal des russischen Kommunismus: Ein Beitrag zur Psychologie und Soziologie des russischen Kommunismus. Phiên bản tiếng Anh được xuất bản cùng năm tại London. Phiên bản tiếng Nga của văn bản này không được xuất bản cho đến năm 1955. Tư tưởng Nga lần đầu tiên được xuất bản bằng tiếng Nga vào năm 1946 và bản dịch sang tiếng Anh (The Russian Idea) tiếp theo vào năm 1947. Như đã đề cập ở trên, phân tích này dựa trên các phiên bản sau: Nicolas Berdyaev, Origin of Russian Communism (1937, The University Press, Glasgow) và Nicolas Berdyaev, The Russian Idea (1947, London: The Macmillan Company, 1948).
8 Palmer, I. (2016), “St. Petersburg and Moscow in Twentieth-Century Russian Literature”, The Palgrave Handbook of Literature and the City, Jeremy Tambling Editor; p. 197-214, 210.
9, 10, 11, 14, 18, 19, 21, 22, 24, 26 Minaev S. (2006), Vô hồn - Chuyện về một người không chân chính, Nhật An dịch, NXB. Trẻ, tr. 170, 314, 13, 28, 191, 33, 180, 177, 427, 177.
12 Reuters. (8 Mar. 2022), “McDonald’s, Icon of Post-Soviet Era, to Close All Restaurants in Russia”, Nationalpost, www.nationalpost.com/news/ mcdonalds-icon-of-post-soviet-era-to-close-allrestaurants-in-russia, accessed Apr. 2025.
13 Bức Màn Sắt là một biên giới vật lý lẫn tư tưởng mang tính biểu tượng chia cắt châu Âu thành hai khu vực riêng rẽ từ cuối Thế chiến II vào năm 1945 đến cuối cuộc Chiến tranh lạnh vào năm 1991.
15, 16, 20 Lehan R. (1983), The City in Literature - An Intellectual and Cultural History, University of California Press, p. 8.
17 Eliot, T. S. (1934), The Rock, Houghton Mifflin Harcourt.
23 Dostoevsky, F. (1866), Tội ác và Hình phạt, Cao Xuân Hạo dịch, NXB. Văn học.
25 Krzhizhanovsky, Sigizmund (2013), “Postmark: Moscow”, In Autobiography of a Corpse, Trans. Joanna Turnbull, New York: New York Review of Books, p. 170-204.