Lỗ Tấn là đại văn hào, dịch giả, nhà nghiên cứu văn học, cây viết phổ biến kiến thức khoa học, nhà thư pháp, nhà thiết kế mĩ thuật. Dĩ nhiên số lượng thể loại sáng tác trước tác của ông gắn liền với các tư cách và lĩnh vực hoạt động đó. Thông thường việc biên tập và xuất bản toàn tập của một văn hào thường là chuyện diễn ra sau khi tác giả đã mất một khoảng thời gian dài. Dĩ nhiên rất ít nhà văn có cơ hội viết lời tựa cho toàn tập của mình. Lỗ Tấn tại Trung Quốc là một trường hợp khá đặc biệt. Toàn tập Lỗ Tấn (鲁迅全集) đầu tiên được xuất bản ngay sau khi ông mất hơn một năm.
1. Lịch sử xuất bản Lỗ Tấn toàn tập
1.1. Bộ “Lỗ Tấn toàn tập” đầu tiên
Toàn tập Lỗ Tấn đầu tiên được xuất bản ngay sau khi ông mất hơn một năm. Toàn tập đầu tiên này do Ủy ban kỷ niệm Lỗ Tấn biên soạn (鲁迅纪念委员会编纂), tổng cộng 20 quyển, bao gồm phần sáng tác và phần dịch thuật của Lỗ Tấn, xuất bản bởi Thượng Hải Phúc Xã (上海复社出版). Việc in ấn bắt đầu từ tháng 4 năm 1938. Chỉ trong vòng bốn tháng, bộ sách 20 quyển, 6.000.000 chữ đã được in xong. Sách in thành 3 loại: loại phổ thông, loại bìa vải đỏ chữ thiếp vàng và loại bìa gáy da chữ thiếp vàng (200 bộ đóng hộp gỗ nam mộc, đánh số thuộc hàng kỷ niệm không bán). Bộ sách chính thức phát hành ngày 10 tháng 8 năm 1938. Như đánh giá của Hứa Quảng Bình (phu nhân đại văn hào): “Một toàn tập hơn sáu triệu chữ hoàn thành chỉ trong thời gian ngắn 3 tháng thực sự là một kỳ tích của giới xuất bản”1. Bộ Toàn tập có lời giới thiệu của Thái Nguyên Bồi (đại trí thức của Trung Hoa Dân Quốc). Ngay từ 1955, thông tin về bộ Toàn tập này của Lỗ Tấn đã đến với học giới Việt Nam qua bài nói chuyện của Phan Khôi tại Hà Nội:
“Sau ngày ông chết, “Hội Ủy viên kỷ niệm Lỗ Tấn tiên sinh” liền được thành lập, do Thái Nguyên Bồi làm Chủ tịch, Tống Khánh Linh làm Phó Chủ tịch, cùng các ủy viên khác chia nhau mỗi người một việc, lo biên tập tất cả những trứ thuật của ông, gồm lại gọi là Lỗ Tấn toàn tập. Ấy là một công việc phiền trọng và khó khăn lắm. Chưa nói đến việc in, chỉ một việc sưu tầm và khảo hiệu cũng đã phải động viên hơn một trăm người vừa văn nhân vừa học giả, trải qua gần hai năm mới xong. Lỗ Tấn toàn tập gồm có sáu trăm vạn chữ, đóng thành hai chục cuốn lớn, mỗi cuốn từ trên 500 trang đến trên 700 trang. Một bộ sách vĩ đại như thế, tưởng cũng là vào hạng ít có kể giữa các sách của các nhà văn hào trên thế giới”2.
1.2. Bộ “Lỗ Tấn toàn tập” của nhà xuất bản quyền uy – Nhân dân Văn học xuất bản xã
Sau tháng 10 năm 1949, Trung Quốc bước vào một thời đại mới. Công việc biên tập Lỗ Tấn Toàn tập của Nhân dân Văn học xuất bản xã (NDVHXBX) được bắt đầu từ tháng 10 năm 1950. In dần từ 1956 và đến cuối năm 1958, toàn bộ Lỗ Tấn toàn tập được xuất bản. Phần dịch thuật của Lỗ Tấn được in riêng thành Lỗ Tấn dịch văn tập (鲁迅译 文 集) sau đó không lâu. Đây là bộ toàn tập thứ hai kể từ bộ xuất bản 1938 và là một thành tựu lớn của ngành xuất bản nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Dĩ nhiên song song với quá trình biên tập Toàn tập, việc kết tập xuất bản tác phẩm Lỗ Tấn cũng đã được tiến hành. Các tập Gào thét (呐 喊), Bàng hoàng (彷 徨)… ra mắt bạn đọc từ mùa thu năm 1951. Tiếp đó là Truyện Lỗ Tấn (鲁 迅小说集 – Lỗ Tấn tiểu thuyết tập), Tuyển tập Lỗ Tấn (鲁迅选集 – Lỗ Tấn tuyển tập) cũng được xuất bản. NDVHXBX tính ra đã xuất bản các bản Lỗ Tấn toàn tập vào 1958 (bộ 10 quển), 1973 (bộ 20 quyển, bỏ mất lời giới thiệu của Thái Nguyên Bồi vốn in trong bộ 1938), 1981 (bộ 16 quyển, các giáo trình và sách giáo khoa ở Đại lục đều dẫn tác phẩm Lỗ Tấn từ bản in Lỗ Tấn toàn tập này. Bộ sách này được Giải thưởng quốc gia về xuất bản, bộ này tái bản năm 1993, 1996) và 2005 (bộ 18 quyển).
Bên cạnh đó, nhà xuất bản này cũng đã xuất bản Lỗ Tấn dịch văn tập, Lỗ Tấn tập lục cổ tịch tùng biên, Lỗ Tấn khoa học luận trước tập, Lỗ Tấn đại từ điển, Lỗ Tấn thủ cảo tùng biên… (鲁迅译文集, 鲁迅辑录古籍丛编, 鲁 迅 科学论著集, 鲁迅大辞典, 鲁迅手稿丛 编). Đến nay Lỗ Tấn toàn tập của NDVHXBX đã có bản in mới nhất năm 2005. Bản này được xem là một toàn tập Lỗ Tấn hoàn bị nhất, công phu nhất, hấp thu các thành tựu nghiên cứu, sưu tầm, chú khảo hiệu đính tác phẩm Lỗ Tấn trong gần hai mươi năm kể từ ngày Trung Quốc thực hiện công cuộc đổi mới. Lỗ Tấn toàn tập bản in mới năm 2005 cũng đưa thêm vào khoảng 1000 chú thích, hiệu đính lại 1000 chỗ. So với bản in năm 1981, Lỗ Tấn toàn tập bản in năm 2005 thu thập thêm được 24 tác phẩm của Lỗ Tấn. Ngoài việc đưa vào toàn tập Lưỡng địa thư (68 lá thư trao đổi giữa Lỗ Tấn và Hứa Kiến Bình), Đáp Tăng Điền Thiệp vấn tín kiện tập lục (Thư tín trao đổi giữa Lỗ Tấn và dịch giả người Nhật Masuda Wataru) còn in thêm vào 18 bức thư mới phát hiện được của Lỗ Tấn, đưa tổng số quyển từ 16 quyển (bản in năm 1981) lên 18 quyển (sáng tác 10 quyển, thư tín 4 quyển, nhật ký 3 quyển, bảng mục tra cứu chỉ dẫn 1 quyển)3. Lỗ Tấn toàn tập bản in năm 2005 sắp xếp trật tự các quyển như sau:
Quyển 1: Phần, Nhiệt phong, Nột hám
Quyển 2: Bàng hoàng, Dã thảo, Triêu hoa tịch thập, Cố sự tân biên
Quyển 3: Hoa cái tập, Hoa cái tập tục biên, Nhi dĩ tập
Quyển 4: Tam nhàn tập, Nhị tâm tập, Nam xoang Bắc điệu tập
Quyển 5: Ngụy tự do thư, Chuẩn phong nguyệt đàm, Hoa biên văn học
Quyển 6: Thả giới đình tạp văn, Thả giới đình tạp văn nhị tập, Thả giới đình tạp văn mạt biên
Quyển 7: Tập ngoại tập, Tập ngoại tập thập di
Quyển 8: Tập ngoại tập thập di bổ biên
Quyển 9: Trung Quốc tiểu thuyết sử lược (Phụ lục: Trung Quốc tiểu thuyết sử lược đích lịch sử đích biên thiên và Hán văn học sử cương yếu)
Quyển 10: Cổ tịch tự bạt tập, Dịch văn tự bạt tập
Quyển 11: Lưỡng địa thư tín (1904-1926)
Quyển 12: Thư tín (1927-1933)
Quyển 13: Thư tín (1934-1935)
Quyển 14: Thư tín (gửi nhân sĩ ngoại quốc)
Quyển 15: Nhật ký (912-1926)
Quyển 16: Nhật ký (1934-1935)
Quyển 17: Nhật ký (chú thích về sách và các nhân vật)
Quyển 18: Phụ lục Lỗ Tấn trước dịch niên biểu (niên biểu các tác phẩm dịch thuật); Toàn tập thiên mục sách dẫn (chỉ dẫn tên tác phẩm trong Toàn tập); Toàn tập chú thích sách dẫn (chỉ dẫn chú thích trong Toàn tập).
Nếu như Lỗ Tấn toàn tập của NDVHXBX (bản in mới nhất năm 2005) đã gom in tác phẩm Lỗ Tấn theo nhóm thể loại và không có phần dịch thuật thì đến ngày 1 tháng 7 năm 2009, nhà xuất bản này đã xuất bản một toàn tập gom in tất cả tác phẩm của nhà văn theo dòng thời gian viết-dịch và công bố với nhan đề Lỗ Tấn trước dịch biên niên toàn tập (鲁迅著译编年全集). Đây là một tập hợp toàn bộ tác phẩm của Lỗ Tấn từng sưu biên được cho đến thời điểm đó. Tất cả các tác phẩm trong toàn tập này đều sắp xếp theo dòng thời gian (viết cùng một thời gian thì sắp xếp theo trật tự: nhật ký, sáng tác, thư tín). Phần dịch xếp theo trật tự truyện và tiểu thuyết, tản văn rồi đến thơ. Thông tin thời gian viết cũng như thời gian đăng của các tác phẩm cố gắng ghi rõ đến ngày, tháng. Trường hợp không xác định được cụ thể ngày, tháng thì ít ra cũng đề được đến thông tin về năm. Trong trường hợp không rõ thời gian viết thì ghi chú theo thời gian đăng lần đầu. Các tác phẩm mà Lỗ Tấn tu nhuận sửa chữa nhiều lần thì chỉ đem vào bản mà nhà văn đã ấn định. Việc hiệu đính và chỉnh lý phần nhật ký và thư từ căn cứ vào các bản in chụp bút tích nguyên bản. Cuối các văn bản tác phẩm đều có thuyết minh về các thông tin như thời gian đăng lần đầu, ở đâu, đề bút danh gì. Sau cùng có “Bảng sách dẫn tên tác phẩm” trong Toàn tập. Hai nhà biên soạn Vương Thế Gia (王 世 家) và Chỉ Am (止 庵) thực sự đã cung cấp một bộ toàn tập tạo điều kiện cho độc giả có thể đọc trước tác của Lỗ Tấn dõi theo dòng thời gian. Đây quả là một thử nghiệm mới trong việc biên tập toàn tập Lỗ Tấn. Có thể thấy được dòng thời gian của trước tác Lỗ Tấn từ mục lục bộ toàn tập này như sau đây:
Quyển 1: 1893-1909
Quyển 2: 1910-1917
Quyển 3: 1918-1920
Quyển 4: 1921-1922
Quyển 5: 1923-1924
Quyển 6: 1925
Quyển 7: 1926
Quyển 8: 1927
Quyển 9: 1928
Quyển 10: Tháng 5-9/1929
Quyển 11: Tháng 6-12/1929
Quyển 12: 1930
Quyển 13: 1931
Quyển 14: 1932
Quyển 15: 1933
Quyển 16: Tháng 1-8/1934
Quyển 17: Tháng 9-12/1934
Quyển 18: Tháng 1-7/1935
Quyển 19: Tháng 8-12/1935
Quyển 20: 1936
Có người nhận xét rất xác đáng rằng: “Toàn tập này cho thấy Lỗ Tấn luôn tăng dần tốc độ sáng tác: tập 1 gồm các tác phẩm viết trong 11 năm (1898-1909); tập hai - 7 năm; tập ba - 3 năm; tập bốn và năm - 2 năm. Từ 1925 trở đi, mỗi năm một tập. Mấy năm cuối, lượng tác phẩm hoàn thành trong một năm phải chia làm hai tập. Có ngày ông viết được mấy bài, chưa kể còn dịch thuật”4. Nhân dịp kỷ niệm 140 năm Ngày sinh văn hào (1881-2021), NDVHXBX đã khởi động công tác hiệu đính bộ Lỗ Tấn toàn tập xuất bản 2005. Trên cơ sở đó sẽ xuất bản toàn tập mới hấp thu được những thành tựu khảo cứu và nghiên cứu Lỗ Tấn trong vòng hơn 15 năm tính từ lần xuất bản 2005.
Có thể thấy điều nổi bật là Toàn tập Lỗ Tấn bản in 2005 của Nhân dân xuất bản xã vẫn không in phần dịch thuật của Lỗ Tấn như Toàn tập Lỗ Tấn đầu tiên in dưới thời Dân Quốc (1938). Phần dịch thuật của Lỗ Tấn mãi đến 1958 mới được NDVHXBX in tách rời khỏi Toàn tập Lỗ Tấn và không có tái bản lần nào. Mãi đến năm 2008, Phúc Kiến Giáo dục Xuất bản xã mới in lại toàn bộ các tác phẩm dịch thuật của văn hào thành bộ Lỗ Tấn dịch văn toàn tập (鲁迅译文全集). Ngày 16 tháng 6 năm 2008, nhà xuất bản này đã cùng Bảo tàng Lỗ Tấn ở Bắc Kinh (北京鲁迅博物馆) tổ chức hội thảo giới thiệu bộ sách. Giám đốc Bảo tàng Lỗ Tấn - Tôn Ức (孙 郁) phát biểu: “Lỗ Tấn đầu tiên là một nhà dịch thuật, kế đó mới là tác gia. Xem di sản của ông cũng thấy tác phẩm dịch của ông nhiều hơn phần ông viết rất nhiều”. Ông còn nói: “Kỳ thực Lỗ Tấn không coi trọng sáng tác. Lỗ Tấn cảm thấy phần văn dịch của mình càng có giá trị hơn”. Đáng tiếc 50 năm qua kể từ lần in duy nhất năm 1958, bộ Lỗ Tấn dịch văn tập của Nhân dân xuất bản xã đến nay không còn thấy bản in nào khác. Điều đó khiến cho thế hệ độc giả về sau khó lòng hình dung được trọn vẹn một chân dung văn hóa lớn. Không có văn dịch, Lỗ Tấn chỉ hiện diện một nửa con người trong tưởng tượng của những thế hệ người dân Trung Quốc sau năm 1949. Một trong những nguyên do của việc không phổ biến các dịch phẩm của Lỗ Tấn đến từ việc tác phẩm ông chọn dịch có một khoảng cách với trào lưu dòng chảy tư tưởng chính của thời đại. Có thể cảm nhận được tình hình qua việc đọc lời biên tập bản in Lỗ Tấn dịch văn tập năm 1958 của Nhân dân xuất bản xã: “Một số bản dịch này ngày nay nhìn lại đã không còn cái ý nghĩa và tác dụng thời sự vốn có mà người dịch đương thời muốn giới thiệu. Cũng có cái lại biến thành thứ có hại”. Độc giả Trung Quốc, vì vậy, trong thời gian dài không còn biết đến các bản dịch tác phẩm Leon Trotsky hay Friedrich Wilhelm Nietzsche của Lỗ Tấn nữa. Lúc bấy giờ người ta nói văn dịch của Lỗ Tấn biểu hiện tư tưởng hư vô chủ nghĩa và tàn dư của giai cấp tiểu tư sản. Đương nhiên một phần nguyên do khác đến từ bản thân cách dịch của Lỗ Tấn. Nhiều người cho rằng văn dịch của Lỗ Tấn nặng nề, đeo đuổi thái quá cái gọi là “tín” mà quên phần quan trọng của “nhã” và “đạt”. Điều này càng khó chấp nhận trong dịch tiểu thuyết. Đó là lý do vì sao mà về sau, chẳng hạn, không còn ai đọc bản dịch tiểu thuyết Gogol Những linh hồn chết của Lỗ Tấn nữa.
Dù sao văn dịch của Lỗ Tấn cũng đã giúp độc giả tiếp xúc được với nền tảng tri thức cùng khởi nguồn tư tưởng của nhà văn. Rất khó hình dung việc nghiên cứu diễn tiến của Hán ngữ trong cuộc tiếp xúc văn hóa Âu Tây cũng như đóng góp của phong trào Tân văn hóa cùng cống hiến lớn lao của trí thức thời Ngũ Tứ mà không quan sát được dịch thuật thời đó nói chung, dịch thuật của Lỗ Tấn nói riêng.
Ngoài việc chỉnh lý hiệu đính khá kỹ, in thêm nhiều tư liệu mới được phát hiện, bộ sách Lỗ Tấn dịch văn toàn tập còn in kèm rất nhiều hình ảnh quý hiếm liên quan đến dịch giả và tình hình ấn phẩm xuất bản các bản dịch của Lỗ Tấn lúc ông còn tại thế. Bộ Lỗ Tấn dịch văn toàn tập được xem là bộ sách đầy đủ nhất gom in văn dịch của Lỗ Tấn kể từ 1938 – là thời điểm lần đầu tiên các tác phẩm dịch của Lỗ Tấn được in tập trung. Lỗ Tấn dịch văn toàn tập bản in năm 2004 của Phúc Kiến Giáo dục xuất bản xã thể hiện được diện mạo vốn có của các bản dịch của Lỗ Tấn, khôi phục lại những phần bị cắt bỏ trong lần xuất bản năm 1958 của Nhân dân xuất bản xã. Các văn bản đều căn cứ vào bản in lần đầu tiên, sắp xếp theo trật tự thời gian đăng hay xuất bản. Các phụ ký của người dịch hay giới thiệu của các nhà xuất bản đều được giữ nguyên. Ngoài việc giữ nguyên tranh ảnh in kèm trong các bản in trước đó, ấn phẩm này còn in thêm nhiều ảnh hình tư liệu mới liên quan bản dịch. Các bản tiếng Anh mà Lỗ Tấn đem phụ lục vào khi cho xuất bản bản dịch trong lần xuất bản này cũng được dịch ra Trung văn.
1.3. Một số bộ “Lỗ Tấn toàn tập” mới đáng chú ý của các nhà xuất bản khác
Tất nhiên bốn bộ toàn tập trên (1938, 1958, 1981 và 2005) vẫn chưa phải là đã tập hợp được toàn bộ tác phẩm của Lỗ Tấn. Bước vào thế kỷ mới, Nhà xuất bản Nhật Báo Quang Minh (Quang Minh Nhật Báo xuất bản xã – 光明日报出版社) đã tổ chức một hội đồng biên tập và xuất bản Lỗ Tấn toàn tập mới vào năm 2012, gồm hết trước tác, sáng tác, dịch thuật, biên khảo, các tác phẩm phổ cập kiến thức khoa học, đồng thời cũng đề cập đến các bài viết về mĩ thuật, hội họa, thư pháp cũng như việc thiết kế bìa sách của Lỗ Tấn. Bộ Toàn tập này tổng cộng 10.125 trang, 7.000.000 chữ.
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 130 năm Ngày sinh của nhà văn, Trường Giang Văn nghệ xuất bản xã cũng đã xuất bản bộ sách mới Lỗ Tấn đại toàn tập (鲁迅大全集) 33 quyển, 14.500 trang. Sách biên soạn bởi Lý Tân Vũ (李新宇, Đại học Nam Khai) và Chu Hải Anh (周海婴, con trai Lỗ Tấn)5. Bộ sách phối hợp cách thức biên niên với phân loại thể loại, tức xếp các tất cả các tác phẩm của Lỗ Tấn vào bốn mảng lớn: sáng tác, dịch thuật, học thuật, mĩ thuật. Mảng sáng tác gồm: truyện, thơ, tản văn, kịch bản, tạp văn, luận văn, lời tựa và lời bạt, quảng cáo và cả thư tín cùng nhật ký, các bản thảo bài nói mà sinh thời Lỗ Tấn chưa thẩm duyệt cũng như các phiến đoạn ngữ lục lời Lỗ Tấn mà người đương thời còn nhớ được. Mảng dịch thuật, ngoài phần các bản dịch cũng còn có cả phần “lời ghi sau khi dịch của dịch giả”. Mảng học thuật gồm các tác phẩm Trung Quốc tiểu thuyết sử lược, Hán văn học sử cương yếu cùng các cổ tịch mà Lỗ Tấn biên tập, ngoài ra còn có cả bản văn bia mà Lỗ Tấn chỉnh lý và nghiên cứu. Mảng mĩ thuật gồm tranh, thư pháp, thiết kế bìa sách của chính Lỗ Tấn, cũng còn có cả các tác phẩm mĩ thuật mà Lỗ Tấn biên tập. Mỗi mảng tác phẩm này lại được sắp xếp theo trình tự thời gian sáng tác hay trước tác. Chẳng hạn mảng sáng tác sắp xếp từ quyển 1 đến quyển 10, trong đó quyển 1 gồm các tác phẩm từ 1908 đến 1918, quyển 2 tiếp nối các tác phẩm từ 1919 đến 1924; quyển 31 và 32 dành cho các tác phẩm mĩ thuật, trong đó quyển 31 là từ 1909 đến 1934, quyển 32 từ 1935 đến 1936; cuối cùng của bộ Lỗ Tấn đại toàn tập là quyển 33 là quyển sách dẫn của cả bộ sách.
2. Tên gọi và thể loại tác phẩm Lỗ Tấn
Sáng tác của Lỗ Tấn gắn liền với sinh hoạt báo chí và nhà xuất bản. Ông là nhà văn sống bằng ngòi bút, vì vậy viết đồng nghĩa với in báo, xuất bản sách. Các thiên truyện vốn xuất hiện đầu tiên trên mặt báo để sau đó kết tập dưới một nhan đề chung của một quyển sách. Các tập tạp văn với một tên gọi nhất định trên thực tế là những quyển sách gom in các bài tạp văn, tản văn, luận chiến, nhàn đàm vốn đều là các bài viết cho báo và tạp chí trong những quãng thời gian nhất định (thường một quãng vài năm). Ngay những cuốn sách nghiên cứu lớn như Trung Quốc tiểu thuyết sử lược (中国小说史略) vốn ban đầu cũng chính là các bài giảng soạn để lên lớp cho sinh viên văn khoa Đại học Bắc Kinh. Thực tế đó một mặt cho ta thấy tư thế gắn mình với sinh hoạt văn hóa thời đại, trạng thái cuốn mình vào gió lớn của xã hội chứ không phải kiểu biệt cư sơn phòng trước tác để tàng chi danh sơn, hay thưởng hoa lãm nguyệt viết văn nhàn thích; mặt khác, tình hình đó cũng đòi hỏi độc giả thời sau tiếp xúc di sản của ông cần được giới thiệu qua vài lời về tên gọi các sách của nhà văn. Điều này càng cần thiết hơn đối các độc giả chỉ có thể tiếp xúc với Lỗ Tấn qua một số sách dịch chọn lọc. Có thể sơ bộ giới thiệu qua xuất xứ của các sách in tác phẩm Lỗ Tấn – phần mà các nhà nghiên cứu, phê bình Trung Quốc quen gọi là “thích nghĩa tên sách” để độc giả có được một hình dung chung về tác phẩm Lỗ Tấn.
Nhiệt phong (熱 風 – Gió nóng) là tập tạp văn xuất bản năm 1925, gồm những sáng tác thuộc thời kỳ đầu của Lỗ Tấn. Như chính tác giả bộc bạch đặt tên tập tạp văn là Nhiệt phong ý ông mong muốn những bài tạp văn viết ra trong cái hoàn cảnh lạnh lẽo của thời cuộc lúc bấy giờ sẽ như là ngọn gió nóng. Một năm sau (1926), Lỗ Tấn cho xuất bản tập tạp văn tiếp theo nhan đề Phần (墳 – mộ) như là để chôn cất những gì đã trôi qua trong một niềm lưu luyến nhất định. Hoa cái tập (華蓋集) tập hợp các bài tạp văn viết năm 1925. Trong năm này, Lỗ Tấn nhân vì cho đăng hai thiên tạp văn Giảo văn tước tự (đẽo từ nhai câu) và Thanh niên tất độc thư (thanh niên phải đọc sách) mà vấp phải sự công kích của nhiều người cũng tự cho mình là văn nhân học giả. Tác giả gọi đó là gặp vận “sao hoa cái chiếu mệnh” (hoa cái chỉ vận xấu). Một năm sau, “Năm thay tháng đổi mà tình hình vẫn thế” (lời Lỗ Tấn) nên khi gom in các bài tạp văn thành sách, vẫn tiếp tục dùng hai chữ “hoa cái” trong đầu đề tập sách - Hoa cái tập tục biên (Hoa cái tập nối tiếp). Tình hình xã hội, thời cuộc xấu đi trông thấy trong những năm 1927, 1928. Quân phiệt phản động đàn áp giết chóc tràn lan: “Nửa năm nay tôi lại thấy bao nhiêu máu và nước mắt. Vậy mà tôi cũng chỉ có “tạp cảm” mà thôi. Lệ khô, máu phai mà bọn giết người vẫn nhởn nhơ nhơ nhởn, hết đòn cứng sang đòn mềm. Vậy mà tôi cứ cũng chỉ có “tạp cảm” mà thôi. Rồi đến lúc “tạp cảm” cũng bị đặt vào chỗ nên đặt chúng vào đó, thế là tôi chỉ có “thế thôi” mà thôi”. Nhi dĩ tập (而已集) tập hợp các bài tạp văn viếtra trong cái hoàn cảnh đành thế “mà thôi” (nhi dĩ) đó. Năm 1928, tranh luận nổ ra xoay quanh đề tài văn học cách mạng giữa Lỗ Tấn và các nhà xuất bản: Sáng Tạo và Thái Dương. Thành Phương Ngô nói Lỗ Tấn “đang ngồi chép tiểu thuyết cũ dưới tán hoa cái”. Thành Phương Ngô mỉa mai Lỗ Tấn đang trốn mình giữa một khoảng trời đấtriêng của mình để làm thứ văn nghệ giải trí nhắm đến “nhàn rỗi, nhàn rỗi và nhàn rỗi”. Chính vì vậy mà nhà văn khi xuất bản tập tạp văn mới vào năm 1932 đã đặt tên là Tam nhàn tập (三閒集 ), ngụ ý đáp lại Thành Phương Ngô. Năm 1930, trên Dân Quốc nhật báo có bài đăng nói Lỗ Tấn tham gia Đồng Minh Hội và Tả Dực Tác gia Liên minh là do “bị Cộng sản Đảng khuất phục”. Trước đó cũng đã có luận điệu cho rằng Lỗ Tấn là tay chân của Mạc Tư Khoa. Lỗ Tấn tập hợp các bài tạp văn viết trong các năm 1930-1931, xuất bản thành sách dưới nhan đề Nhị tâm tập (二心集 – “hai lòng”) để mỉa mai bọn mà ông gọi là bồi bút thực sự. Lỗ Tấn nói: “Các nhà văn ngự dụng khoác cho tôi cái danh hiệu mới đủ thấy trên văn đàn của họ quả có vua thật”. Bắt đầu từ nửa sau năm 1933, mục Tự do đàm trên tờ Thân báo từ chối đăng các bài bình luận, tạp cảm ngắn của Lỗ Tấn. Nhà văn nhận ra hai chữ “tự do” kia thực ra chỉ là một lối nói ngược. Ông gom các bài từng đăng trên báo này cùng các bài không thể đăng tiếp in thành sách Nguỵ tự do thư (偽自由書) xuất bản năm 1933. Từ nửa sau năm 1933, mục Tự do đàm đăng quảng cáo “mời gọi các nhà văn quan tâm nhiều hơn đến đề tài gió trăng, bớt nói chuyện bực tức thời sự”. Lỗ Tấn tương kế tựu kế, viết hàng loạt bài tạp cảm bề ngoài nói chuyện “phong nguyệt”, thực chất bàn chuyện “phong vân” (thời cuộc chính trị). Năm 1934, các bài đó xuất bản tập trung thành tập Chuẩn phong nguyệt đàm (准風月 談 – cũng là bàn chuyện gió trăng). Đầu đề sách ngụ ý giễu cợt chủ trương tránh bàn chuyện thời cuộc, lảng vào đề tài trăng hoa tuyết nguyệt của tờ Thân báo. Tháng 1 năm 1933, trên tờ Xuất bản tin tức ra tại Thượng Hải có bài nói chuyện Lỗ Tấn khẩu âm (giọng nói) pha tạp, có chút nói lắp nhưng lại thích diễn thuyết. Lỗ Tấn trả lời: “Tôi không biết nói giọng Tô Châu mềm mại, không biết thánh thót giọng Bắc Kinh, tôi chẳng ra thuần giọng vùng nào, ăn nhập giọng miền nào. Thực là chém cha pha tiếng, giọng Nam đá giọng Bắc”. Nhan đề Nam xoang bắc điệu (南腔北調集) đặt cho tập tạp văn xuất bản tháng 3 năm 1934 chính là một cách tự trào mà cũng là một cách đáp trả bài báo của tác giả Mĩ Tử nhân chuyện nhà văn này bàn chuyện giọng nói của ông. Thả giới đình tập (且介亭雜文) tập hợp các bài tạp văn viết trong thời gian Lỗ Tấn trú tại một khu bán tô giới ở Thượng Hải. “Thả” (且) và “Giới” (介) là các nửa trong hai chữ Hán “Tô” và “Giới” (租 界 – concession/ nhượng địa). Đầu đề tập tạp văn là một cách chiết tự ngụ cái ý chủ quyền của Trung Quốc chỉ còn một nửa. Về sau Lỗ Tấn tiếp tục cho xuất bản Thả giới đình nhị tập (且介亭雜文二集 – Thả giới đình quyển tiếp) rồi Thả giới đình mạt biên (且 介 亭雜文末編 – Thả giới đình quyển cuối). Lỗ Tấn giải thích nhan đề tập sách Hoa biên văn học (花邊文學, xuất bản 1934) trong lời tựa cho chính sách này: “Một là vì các bài tạp văn này khi đăng báo thường in trong các ô chạy đường riềm hoa văn. Hai nữa là vì “hoa biên” (花 邊) cũng là tên gọi khác của giấy bạc. Đủ thấy các bài đó viết vì nhuận bút, chẳng có gì khả thủ”.
Tập tạp văn Triêu hoa tịch thập (朝 花 夕 拾 – chiều hôm nhặt hoa ban mai – một dạng hồi tưởng lục) vốn đặt tên Cựu sự trùng đề (nhắc lại chuyện cũ) là những thiên hồi ức thời niên thanh khi tác giả đã qua tuổi trung niên.
Tạp văn Lỗ Tấn dường như có thể chia thành hai thời kỳ. Phần, Nhiệt phong, Hoa cái tập, Hoa cái tục biên và Nhi dĩ tập thuộc về thời kỳ đầu. Thời kỳ thứ hai bao gồm: Tam nhàn tập, Nhị tâm tập, Nam xoang Bắc điệu, Nguỵ tự do thư, Chuẩn phong nguyệt đàm, Hoa biên văn học, Thả giới đình tạp văn, Thả giới đình tạp văn nhị tập, Thả giới đình mạt tập, Tập ngoại tập, Tập ngoại tập thập di, Tập ngoại tập thập di bổ biên.
Tập truyện đầu tiên của Lỗ Tấn Nột hám (Gào thét – bản dịch Trương Chính) gom in 14 truyện ngắn viết trong thời gian 1918-1923. Bài Tự tự (Tựa viết lấy – Trương Chính dịch) cho Gào thét đồng thời với việc giới thiệu cùng độc giả hoàn cảnh làm tập sách còn cắt nghĩa vì sao tập truyện lại có một nhan đề chung Nột hám (吶 喊): “Tôi cảm thấy buồn chán, một nỗi buồn chán chưa từng biết, chính là từ buổi đó. Lúc đầu tôi không hiểu vì sao, sau nghĩ lại mớirõ là phàm khi người ta chủ trương cái gì, nếu được tán thành thì người ta càng hăm hở thêm, nếu bị phản đối, người ta càng hăng hái phấn đấu. Chỉ khi hò hét giữa những người lạnh nhạt, thờ ơ, không tán thành mà cũng không phản đối thì cảm thấy như đứng giữa bãi sa mạc vô biên chẳng còn biết nên hành động ra sao nữa. Đau khổ biết bao nhiêu! Do đó tôi gọi cảm giác ấy là quạnh hiu [...]. Tôi vẫn cho rằng hiện nay tôi không phải là người có điều gì bức thiết lắm, không nói ra không được. Nhưng hoặc giả bởi vì chưa quên hết nỗi quạnh hiu, đau khổ của mình ngày trước, nên có lúc không thể không gào thét lên mấy tiếng để an ủi những kẻ dũng sĩ đang bôn ba trong chốn quạnh hiu, mong họ ở nơi tiên khu được vững tâm hơn. Còn như tiếng gào thét của tôi hùng dũng hay bi ai, đáng ghét hay đáng buồn cười, điều đó tôi không hơi đâu nghĩ đến”6.
Bàng hoàng (徬 徨) là tập truyện ngắn thứ hai của Lỗ Tấn, gom in 11 truyện ngắn viết trong thời gian 1924-1925. Hoàn cảnh sáng tác chung của các truyện trong Bàng hoàng là cuộc thoái trào của phong trào Ngũ Tứ. Trong hàng ngũ những người cầm đầu công cuộc vận động tân văn hóa Ngũ Tứ có sự phân hóa lớn – “có người ra làm quan to, có người lui về im hơi lặng tiếng, cũng có người vẫn tiến lên” (Lỗ Tấn, Tựa cho Tuyển tập tự tuyển). Nhà văn cảm thấy mình như một kẻ tiền phong trong thế trận không thành, cô độc, bàng hoàng. Tâm trạng đó được ông bộc lộ trong bài thơ đề từ cho tập truyện – “Đề tập Bàng hoàng”.
《 題《 徬 徨 》 寂 寞 新 文 苑,平 安 舊 戰 場。 兩 間 餘 一 卒,荷 戟 獨 徬 徨。 |
Tịch mịch tân văn uyển, Bình an cựu chiến trường.
Lưỡng gian dư nhất tốt, Hà kích độc bàng hoàng. |
(Vườn văn mới im hơi lặng tiếng,
Chiến trường cũ khói lửa đã tan.
Người lính trơ thừa giữa đất trời,
Một mình vác giáo bàng hoàng) |
Im ắng vườn văn mới
Bình yên chiến trườngxưa
Giữa đất trời, một lính
Độc vác giáo bơ vơ
(Dịch thơ: Phan Văn Các) |
Đầu đề tập truyện thâu tóm cái tình điệu chung của tác giả trong thời gian sáng tác 1924-1925. Bức họa vẽ cảnh lữ khách ngày tận đường cùng in phía trước sách cũng góp phần giúp độc giả cảm nhận được không khí chung của tập truyện.
Ngoài hai tập truyện ngắn nói trên, còn có thể kể đến tác phẩm Đường Tống truyền kỳ tập. Trên thực tế Đường Tống truyền kỳ tập là một phần của tập truyện ngắn thứ ba Cố sự tân biên (故事新編) của nhà văn. Tập Chuyện cũ viết lại (Trương Chính dịch) này như chính tác giả nói: là một cách diễn nghĩa các câu chuyện thần thoại, truyền thuyết, truyền kỳ Trung Hoa. Có thể xem 8 truyện viết trong thời gian 1922-1923 gom in trong tập này là những truyện ngắn viết về đề tài lịch sử. Lối diễn nghĩa hoặc nói “tân biên” lại các “cố sự” đó theo như chính Lỗ Tấn giải thích chính là “chỉ lấy một chút nguyên do rồi tùy ý điểm tô, phô diễn thành thiên truyện”, tuy là viết về chuyện xưa “nhưng lại không viết chết mất cổ nhân” (Lời tựa cho Cố sự tân biên). Truyện ngắn, truyện vừa Lỗ Tấn xét về lượng không nhiều nhưng mức độ ảnh hưởng xã hội rất lớn. Đằng sau những hình tượng thân thuộc (người đàn ông nông dân tứ cố vô thân AQ, người đàn bà mất con Tường Lâm, nho sĩ thi trượt Khổng Ất Kỷ, một người điên) ẩn chứa những khái quát tư tưởng lớn về các vấn đề to lớn như quốc dân tính, bước cùng quẫn của con người, bản chất lịch sử văn hoá dân tộc, tiếp nối truyền thống và hiện đại... Cùng với một loạt văn hào thời đại Ngũ Tứ, Lỗ Tấn đã trở thành người đặt nền móng cho văn học Trung Quốc hiện đại. Ông đồng thời cũng là người mở đầu cho nền văn xuôi bạch thoại của Trung Hoa.
Bên cạnh đó, Lỗ Tấn cũng là người thí nghiệm thơ văn xuôi cho văn học Trung Quốc hiện đại. Hai mươi ba bài thơ văn xuôi viết từ năm 1924 đến năm 1926 được tập trung thành thi tập Dã thảo (野 草). Đề từ cho tập thơ, Lỗ Tấn viết: “Tôi yêu cỏ dại mà càng ghét những chỗ đất trang sức cho bề mặt bằng trồng cỏ”. Đây có lẽ là ngụ ý của Lỗ Tấn khi chọn hình ảnh cỏ dại (dã thảo) đặt tên cho tập thơ của mình.
Đến đây đã có thể thống nhất lại một cách phân loại tác phẩm của Lỗ Tấn từ góc độ thể loại như sau:
+ Truyện ngắn, truyện vừa
+ Tản văn, tạp văn
+ Thơ, thơ văn xuôi
+ Kịch
+ Nghiên cứu, phê bình (gồm cả nghiên cứu, phê bình hội họa, mĩ thuật)
+ Khảo cứu văn học, nghệ thuật
+ Dịch thuật
Truyện, tản-tạp văn và thơ là phần sáng tác văn chương của văn hào. Nói như Phan Khôi, đó “là tất cả cái vinh quang của sự nghiệp văn học Lỗ Tấn”. Giản Chi cơ bản cũng hình dung trước tác của Lỗ Tấn gồm ba loại (hiệu đính và biên toản, dịch thuật, sáng tác) như phân loại của Phan Khôi. Chúng tôi nghĩ “hiệu đính và biên toản” không phản ánh hết trước tác nghiên cứu học thuật của Lỗ Tấn, do vậy nên xếp Trung Quốc tiểu thuyết sử lược vào loại nghiên cứu hoặc khảo cứu (Phan Khôi coi công trình này thuộc loại hiệu chính biên toản). Về thơ cũng nên thấy rằng Lỗ Tấn hoặc vẫn làm thơ luật hoặc đi tiên phong khai phá thơ văn xuôi. Bậc mở màn cho văn xuôi bạch thoại bằng thiên truyện Cuồng nhân nhật ký đó hầu như không viết tân thi – thơ mới (vai trò đó thuộc về Hồ Thích). Ở trường hợp Lỗ Tấn tản văn, tạp văn là thể phức tạp, dùng rất nhiều hình thức văn xuôi phong phú: từ ghi chép, bút ký, bàn luận, bút chiến, hồi tưởng lục, tùy bút cho đến tạp cảm, nhàn đàm, thời đàm… Đây là phần hoạt động văn chương sôi nổi gắn liền với sinh hoạt báo chí và xuất bản đương thời của Lỗ Tấn. Phần này nếu không tạo nên chiều sâu chân dung văn hóa Lỗ Tấn thì cũng là phần đã tạo nên nét màu cơ bản cho bức chân dung này. Về ngoại ngữ, Lỗ Tấn thông thạo Nhật ngữ. Ông cũng có học tiếng Đức và biết tiếng Nga. Các ngoại ngữ đó giúp đỡ đắc lực cho công việc dịch thuật của ông. Khi giới thiệu truyện Lỗ Tấn nói riêng, văn xuôi tự sự Trung Quốc nói chung, một vấn đề đáng chú ý là cách dùng từ “tiểu thuyết”. Về vấn đề này, chúng tôi đã có dịp đề cập nhân bàn đến bản dịch Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc:
“Tác phẩm học thuật quan trọng nhất của Lỗ Tấn, cuốn sách góp phần đặt nền móng cho khoa văn học sử tại Trung Quốc – Trung Quốc tiểu thuyết sử lược (Zhongguo xiaoshuo shilue) đã có bản dịch tiếng Việt Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc (Lương Duy Tâm dịch, NXB Văn hóa, 1996; NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000). Độc giả Việt ngữ chỉ cần lướt qua một lượt mục lục cuốn sách là đã đủ thấy cách gọi (sơ lược) “lịch sử tiểu thuyết” trong nhan đề bản dịch là không phù hợp với thực tế nội dung cuốn sách. Vấn đề dường như không chỉ còn gói gọn trong câu chuyện dịch thuật. Thực tế thì ngay từ những ngày đầu Lỗ Tấn được giới thiệu ở Việt Nam, độc giả đã được chứng kiến tình trạng không dứt khoát rạch ròi về mặt sử dụng thuật ngữ “tiểu thuyết” trong thực tế dịch thuật và bàn luận về tác phẩm của văn hào này. Phan Khôi là một ví dụ. Đọc một đoạn trong bài Đời sống và sự nghiệp văn học của Lỗ Tấn đủ thấy Phan Khôi không chú ý lắm tới cách dùng thuật ngữ “tiểu thuyết” theo cách hiểu của người Trung Quốc trong phân biệt với cách hiểu của người Việt Nam: “Về tạp văn, tôi sẽ nói ở hai đoạn sau, ở đây xin nói về tiểu thuyết của ông. Kể về lượng thì tiểu thuyết Lỗ Tấn không nhiều bằng tạp văn, nhưng kể về phẩm thì hai thứ ngang nhau, tiểu thuyết cũng có cái đặc sắc của tiểu thuyết. Trọng yếu nhất là hai truyện ngắn Nhật ký người điên và AQ chính truyện”. Giới thiệu của ông về cuốn Trung Quốc tiểu thuyết sử lược cũng phản ánh điều đó: “Như bộ Trung Quốc tiểu thuyết sử lược, liệt kê những tiểu thuyết cổ từ đời Hán đến đời Thanh, tóm tắt nội dung, thêm lời luận đoán gọn mà rõ, người đọc có thể do đó tìm thấy cái vết phát triển và tiến bộ của tiểu thuyết (người dẫn nhấn mạnh bằng in đậm - LTT) Trung Quốc”7. Có thể nói trong tình hình tiếng Việt có phân biệt tiểu thuyết với truyện ngắn và truyện vừa, việc không chú ý đó gây ảnh hưởng tiêu cực cho nhận thức vấn đề thể tài tự sự trong văn học Trung Quốc cũng như trong văn học Việt Nam.
Thực ra, cũng giống như tại Việt Nam, tiếp xúc văn học phương Tây ở Trung Quốc đầu thế kỷ XX làm nảy sinh nhu cầu phải có tên gọi cho thể loại tự sự trường thiên phân hoặc không phân chương trong văn học Âu-Mĩ. Hai chữ “tiểu thuyết” vốn có từ xa xưa trong ngôn ngữ Hán, bắt đầu được đưa ra dùng lại trong một hệ thống thuật ngữ văn học mới phục vụ cho việc thống nhất tên gọi các thể loại văn xuôi tự sự hư cấu vừa xuất hiện: “đoản thiên tiểu thuyết”, “trung thiên tiểu thuyết” và “trường thiên tiểu thuyết” (câu chuyện cũng tương tự như việc vào đầu thế kỷ trước, người Trung Quốc ghép chữ “triết” và “học” hay các chữ “kinh” và “tế” vốn có để tạo tên gọi bộ môn triết học và kinh tế vậy). Vậy là thay cho những là “truyền kỳ”, “chí nhân”, “chí quái”, “chí dị” xa xưa, văn học hiện đại Trung Quốc bắt có “truyện ngắn”; thay cho “thoại bản”, “thuyết thư”, “chương hồi”, “diễn nghĩa”, văn học hiện đại Trung Quốc có tiểu thuyết đánh số thứ tự các chương bằng con số hoặc đơn giản chỉ cách các trường đoạn văn bản tự sự bằng một số ký hiệu văn bản (ba dấu hoa thị chẳng hạn) nhất định. Hệ thống thuật ngữ “đoản thiên tiểu thuyết”, “trung thiên tiểu thuyết” và “trường thiên tiểu thuyết” chính là chỉ ba thể loại tự sự mà tiếng Việt gọi bằng các từ “truyện ngắn”, “truyện vừa” và “tiểu thuyết”. Trong lúc từ “tiểu thuyết” của tiếng Việt chuyên chỉ thể loại tự sự trường thiên thì trong tiếng Trung, khi dùng độc lập không kèm các định ngữ đoản-trung-trường thiên thì thường chỉ chung các văn bản tự sự hư cấu hoặc nói sáng tác truyện nói chung. Bản thân Lỗ Tấn cũng dùng từ “tiểu thuyết” hiểu theo nghĩa như thế trong toàn bộ công trình nhan đề Trung Quốc tiểu thuyết sử lược hay Trung Quốc tiểu thuyết đích lịch sử đích biên thiên. Như vậy cụm từ “Trung Quốc tiểu thuyết” trong nhan đề tác phẩm của Lỗ Tấn cần được hiểu là chỉ (các dạng thức, dòng phái) văn xuôi tự sự (cổ-trung đại) Trung Quốc”8. Và vì thế nhan đề Trung Quốc tiểu thuyết sử lược cần được dịch hay hiểu là “lược sử văn xuôi tự sự Trung Quốc”.
Đương thời Lỗ Tấn từng nói: “Làm gì có thiên tài, tôi dùng thời gian mà người ta uống cà phê vào công việc của bản thân” ( 哪里有天 才,我 是把别人喝咖 啡的功夫都用在工作上). Nói như thế không có nghĩa là ông chỉ đơn giản là người cần cù. Lỗ Tấn là sự cần cù của một thiên tài. Khối lượng trước tác đồ sộ đó cho ta thấy sức lao động phi thường của nhà văn. Nhưng điều quan trọng hơn là phẩm cách đại văn hào cũng như chất lượng của các tác phẩm của ông. Lịch sử xuất bản các bộ toàn tập với số lượng phong phú về thể loại tác phẩm phần nào cho thấy bức chân dung văn hóa vĩ đại của nhà văn này.
Chú thích:
1 徐 忠 友 , 第 一 部 《 鲁 迅 全 集 》 的 出 版 , http://cpc.people.com.cn, 2013/10/18 13:54.
2 “Đời sống và sự nghiệp văn học của Lỗ Tấn” – bài nói chuyện ở cuộc lễ kỷ niệm Lỗ Tấn, ngày 30/10/1955 tại Thủ đô Hà Nội, dẫn từ Phan Khôi - Viết và dịch Lỗ Tấn của Lại Nguyên Ân.
3 路艳霞, 人民文学出版社将启动《鲁迅全集》 修订工作, 北京日报, https://bj.bjd.com.cn/ ngày 26/9/2021.
4 Nguyễn Hải Hoành, haihoanh.wordpress.com/ 2012/01/.../lỗ-tấn-trong-mắt-người-xưa-và-nay.
5 Thông tin cụ thể về bộ Đại toàn tập Lỗ Tấn này xin xem thêm: Vũ Phong Tạo (viết-dịch), Kỷ niệm lần thứ 130 năm Ngày sinh của Lỗ Tấn và “Lỗ Tấn đại toàn tập” trên tonvinhvanhoadoc.vn › Văn học thế giới.
6 Lỗ Tấn (2016), Tuyển tập truyện ngắn Lỗ Tấn (Trương Chính dịch), NXB Văn học.
7 Xem: “Đời sống và sự nghiệp văn học của Lỗ Tấn”, tập hợp ở Phan Khôi - Viết và Dịch của Lại Nguyên Ân.
8 Lê Thời Tân: “Trung Quốc tiểu thuyết sử lược của Lỗ Tấn đâu chỉ là lịch sử cho riêng thể tài tiểu thuyết Trung Hoa”, Tạp chí Văn học nước ngoài (Hội Nhà văn Việt Nam), số 9 (105), 9/2011, tr.131-132.