rong hệ thống trước tác phong phú, đồ sộ của Nguyễn Trãi, văn chính luận có một vị trí đặc biệt, đóng vai trò to lớn đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XV. Văn chính luận của Nguyễn Trãi đã được nghiên cứu khá nhiều, thường tập trung vào Quân trung từ mệnh tập và Bình Ngô đại cáo. Còn có một mảng văn chính luận của Nguyễn Trãi ít được để ý: tấu, biểu đấu tranh ngoại giao (do Nguyễn Trãi chấp bút thay Lê Lợi viết trong giai đoạn nghĩa quân Lam Sơn chiến thắng quân Minh từ 1426 đến đầu triều Lê sơ). Nhìn từ mối quan hệ giữa nước ta với vương triều Trung Hoa thời quân chủ phong kiến, các văn kiện này thực sự là những chứng tích quan trọng của cuộc đấu tranh ngoại giao với triều đình nhà Minh do nghĩa quân Lam Sơn (và sau đó là triều Lê sơ) tiến hành vào đầu thế kỷ XV nhằm giành lại và củng cố nền độc lập tự chủ dân tộc. Bằng cách khai thác một cách sáng tạo đặc điểm các thể loại tấu, biểu, Nguyễn Trãi đã thể hiện những tư tưởng chính trị - nhân văn quan trọng, có liên quan đến vận mệnh toàn dân tộc và số phận của mỗi người dân Đại Việt. Việc nghiên cứu tấu, biểu đấu tranh ngoại giao của Nguyễn Trãi (chủ yếu từ sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Minh) có ý nghĩa khoa học và thực tiễn, ý nghĩa xã hội - thẩm mĩ, giúp hậu thế hiểu hơn tư tưởng, tài năng, tầm nhìn xa rộng của Nguyễn Trãi và đường lối ngoại giao khôn khéo, tinh tế của ông cha ta.
1. Nhìn lại hành trình sáng tác, trước thuật và di sản của Nguyễn Trãi
Hành trình sáng tác, trước thuật của Nguyễn Trãi gắn liền với giai đoạn lịch sử sôi động cùng những biến cố mang tầm vóc lớn lao mà trung tâm là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Nếu lấy khởi nghĩa Lam Sơn làm tâm điểm, có thể thấy hành trình sáng tác của Nguyễn Trãi tương ứng với ba giai đoạn:
Trước khởi nghĩa Lam Sơn (từ 1380 đến khoảng 1418): Đây là giai đoạn chuẩn bị và hình thành tư tưởng, nhân cách của Nguyễn Trãi. Những biến cố gia đình, lịch sử đã đặt Nguyễn Trãi trước con đường lựa chọn để vuợt qua những thử thách của thời đại (chọn đi thi và làm quan với nhà Hồ, rồi lại tìm đến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn để trả nợ nước, thù nhà). Bối cảnh thời đại và hoàn cảnh cá nhân ấy đã hun đúc nên lòng yêu nước và chí lớn của người anh hùng dân tộc. Giai đoạn này, ít có cứ liệu ghi dấu sáng tác của Nguyễn Trãi. Tuy nhiên, có lẽ đây là quãng thời gian Nguyễn Trãi tích cực rèn giũa văn chương cử tử, lại từng kinh qua nghiệp thầy đồ, sẵn tài năng thiên phú nên rất có khả năng sáng tác văn chương đã ra đời từ lúc này. Các sáng tác đó có đặc điểm thế nào, có đóng góp gì về giá trị văn hóa, tư tưởng, liệu có vai trò nền tảng cho hành trình sáng tác của Nguyễn Trãi về sau?... Những trăn trở đó đặt ra nhiều thử thách cho các nhà khảo cứu về công việc nghiên cứu, phục hồi, biên soạn trước thuật của Nguyễn Trãi.
Thời gian tham gia khởi nghĩa Lam Sơn (khoảng từ 1418 đến 1428): Mười năm tham gia khởi nghĩa Lam Sơn tuy gian khổ nhưng có ý nghĩa nhất trong cuộc đời, sự nghiệp chính trị của Nguyễn Trãi. Các sáng tác của ông theo sát các nhiệm vụ chính trị. Gia nhập nghĩa quân Lam Sơn, Nguyễn Trãi giúp chủ tướng trù hoạch quân cơ. Ông dâng Bình Ngô sách (Sách lược bình định giặc Ngô) giúp Lê Lợi củng cố và phát triển nghĩa quân; nhân danh Lê Lợi, viết thư gửi giới chỉ huy giặc Minh và viết thư phủ dụ các tướng sĩ. Những bức thư đó được tập hợp trong Quân trung từ mệnh tập. Sau chiến thắng quân Minh, năm 1428, Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo tổng kết cuộc kháng chiến và tuyên bố độc lập dân tộc. Ngoài ra, ông còn chịu trách nhiệm thay vua viết chiếu, chế ban bố trong quần thần và dân chúng, cũng như viết thư, biểu giao thiệp với nhà Minh. Giai đoạn này, bút lực của Nguyễn Trãi chủ yếu tập trung vào mảng văn chính luận.
Sau khởi nghĩa Lam Sơn (khoảng từ 1429 đến 1442): Triều đình rối ren, các công thần bị giết hại. Bản thân Nguyễn Trãi cũng không còn được trọng dụng như trước. Thời gian này, Nguyễn Trãi xây dựng các bộ sách làm khuôn mẫu cho hình luật, âm nhạc, lễ nghi... Nhưng trước tình thế tranh giành quyền lực phức tạp của các phe phái trong triều, biết không thể làm gì hơn, Nguyễn Trãi xin về trí sĩ ở Côn Sơn, có nhiều thời gian hơn dành cho hai tập thơ Ức Trai thi tập - một đỉnh cao của thơ chữ Hán Việt Nam và Quốc âm thi tập - một cột mốc có ý nghĩa khai sáng cho thơ chữ Nôm. Năm 1439, Lê Thái Tông (1423-1442) muốn củng cố lại triều đình đã vời Nguyễn Trãi nhậm chức trở lại. Năm 1442, Nguyễn Trãi bị khép tội giết vua và bị tru di tam tộc - một vụ án oan, tàn khốc nhất trong lịch sử nước ta, kéo theo hệ lụy đến cả các sáng tác, trước thuật của ông. “Anh hùng di hận kỷ thiên niên” (Anh hùng để hận mấy nghìn năm), Nguyễn Trãi có ngờ đâu câu thơ viết về người khác1 lại ứng vào chính mình.
Nguyễn Trãi đã để lại một khối di sản đồ sộ với nhiều thể loại khác nhau, bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Ở lĩnh vực nào, thể loại nào, hình thức văn tự nào, ông cũng đều có những đóng góp xuất sắc. Bằng chữ Hán, ngoài văn chính luận với những kiệt tác Bình Ngô đại cáo (biền văn), Quân trung từ mệnh tập (65 văn kiện, gồm 39 bức thư và một số biểu, tấu, chiếu…), các tác phẩm thuộc các loại hình - loại thể khác: Chí Linh sơn phú (phú), Vĩnh Lăng thần đạo bi (bi ký), Lam Sơn thực lục (ký, ghi chép về khởi nghĩa Lam Sơn), Băng Hồ di sự lục (ký, ghi chép về sự nghiệp của Trần Nguyên Đán), Dư địa chí (ký, ghi chép về địa lý Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử), Ức Trai thi tập (thơ). Bằng chữ Nôm, Nguyễn Trãi hiện chỉ còn Quốc âm thi tập. Điều đáng nhấn mạnh ở đây là với thơ (qua hai tập Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập), Nguyễn Trãi thực sự mang tầm vóc của một thi hào; với văn chính luận, Nguyễn Trãi hoàn toàn hội đủ phong cách một nhà chính luận kiệt xuất. Tầm ảnh hưởng tích cực của ông về tư tưởng cũng như về giá trị di sản đã vượt ra ngoài khu vực Đông Á. Những đóng góp của ông cho nhân loại nhìn ở phạm vi quốc tế đã được UNESCO ghi nhận2.
Việc sưu tầm, tập hợp, nghiên cứu di sản văn chương của Nguyễn Trãi đã có một quá trình lịch sử lâu dài, trải nhiều thăng trầm như chính cuộc đời ông. Trong và sau vụ án Lệ Chi viên (1442), đa phần sáng tác thơ văn Nguyễn Trãi đều bị tiêu hủy hoặc thất lạc. Hơn hai mươi năm sau, sau khi xuống chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, năm 1467, vua Lê Thánh Tông đã hạ chỉ giao trọng trách tìm kiếm thơ văn còn sót lại của Ức Trai cho Trần Khắc Kiệm. Ròng rã hơn mười năm, Trần Khắc Kiệm hoàn thành bộ Ức Trai thi văn tập. Nhưng đáng tiếc, chưa kịp khắc in, bộ sách đã bị thất tán do bao biến cố. Sang thế kỷ XIX, dưới triều vua Minh Mệnh (1820-1841), năm 1822, việc sưu tầm, phục hồi thơ văn Nguyễn Trãi lần nữa được thực hiện bởi Dương Bá Cung, người cùng làng Nhị Khê. Cũng hơn mười năm, Dương Bá Cung hoàn thành bộ Ức Trai di tập. Nhưng mãi đến năm 1868, sau nhiều lần hiệu chỉnh, bộ Ức Trai di tập gồm 7 quyển mới được Phúc Khê đường khắc in. Cùng với việc sưu tầm, khắc in di cảo, các bậc vua chúa, sử gia và văn nhân cũng đánh giá rất cao di sản thơ văn Nguyễn Trãi qua các bài thơ đề vịnh, đề tựa, nhận xét, đánh giá. Bước sang thế kỷ XX trở đi, việc khảo cứu, sưu tầm, hiệu chỉnh trước tác văn chương Nguyễn Trãi ngày càng được quan tâm, đầu tư, thể hiện trước hết ở các thành tựu biên soạn, phiên dịch với sự bổ sung đầy đủ, chính xác hơn các văn bản Hán - Nôm bởi các nhà nghiên cứu Ngô Văn Triện, Phan Huy Tiếp,Trần Văn Giáp, Bùi Văn Nguyên… Gần đây nhất, năm 2003, Nguyễn Văn Nguyên đã công bố mới một số văn kiện đấu tranh ngoại giao quan trọng, làm dày thêm di sản văn chương Nguyễn Trãi3.
2. Các văn kiện tấu, biểu ngoại giao (từ tháng 12/1426 đến 1437) trong hệ thống văn chính luận của Nguyễn Trãi
2.1. Hệ thống văn chính luận của Nguyễn Trãi
Thành tựu văn chính luận của Nguyễn Trãi đã được giới nghiên cứu khẳng định chủ yếu qua Quân trung từ mệnh tập và Bình Ngô đại cáo. Quân trung từ mệnh tập (Tập văn từ lệnh trong quân) sáng tác khoảng từ 1423 đến 1427, bao gồm phần lớn các văn thư do Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi gửi các tướng tá nhà Minh trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, nhằm thuyết phục chúng đầu hàng, rút quân về nước, thừa nhận nền độc lập dân tộc của nước ta. Ngoài ra, còn có biểu cầu phong, văn hội thề kết thúc cuộc chiến và một số thư từ kêu gọi tướng sĩ, hào kiệt trong nước tích cực tham gia kháng chiến. Quá trình tìm kiếm, khôi phục văn bản Quân trung từ mệnh tập luôn không ngừng diễn ra… Với sự hiện diện áp đảo và sức nặng giá trị của các tác phẩm thuộc thể loại văn thư, Quân trung từ mệnh tập có thế mạnh của một tập văn luận chiến - đúng hơn là tập thư binh vận, ngoại giao. Bằng văn phong giàu sức chiến đấu, lập luận sắc sảo, Nguyễn Trãi đã biến ngôn ngữ các văn thư thành lợi khí, làm nao núng, đánh bại tinh thần quân giặc. Bình Ngô đại cáo mang tính chất tổng kết toàn bộ cuộc kháng chiến chống giặc Minh, bố cáo với thiên hạ về những chiến công hiển hách của Lê Lợi đồng thời khẳng định nền độc lập dân tộc. Dưới hình thức thể cáo, với kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén, giọng điệu hùng hồn, tác phẩm là “áng thiên cổ hùng văn” khẳng định mạnh mẽ truyền thống yêu nước, truyền thống văn hóa cao đẹp của nhân dân Đại Việt.
Ngoài các văn kiện chính luận xuất sắc nêu trên, khi tiến hành khảo cứu Quân trung từ mệnh tập, Nguyễn Văn Nguyên còn phát hiện thêm khá nhiều các văn kiện dưới hình thức thể loại tấu, biểu được Nguyễn Trãi (chủ yếu chấp bút thay vua) soạn thảo trong khoảng thời gian từ tháng 12/1426 đến 1437 để giao thiệp với hoàng đế triều Minh. Xét về thời gian, ý nghĩa chính trị, đối tượng cũng như phương diện thể loại, các tấu, biểu này vừa có tư cách tồn tại độc lập với văn kiện thư từ lệnh dụ của Quân trung từ mệnh tập vừa như một sự tiếp nối của các văn kiện lịch sử trên hành trình đấu tranh ngoại giao của nghĩa quân Lam Sơn. Sự góp mặt của các văn kiện tấu, biểu đã làm phong phú hệ thống văn chính luận và khẳng định giá trị nhiều mặt của di sản văn chương Nguyễn Trãi.
2.2. Vị trí, vai trò các tấu, biểu ngoại giao trong hệ thống văn chính luận của Nguyễn Trãi
Theo thống kê, khảo sát của Nguyễn Văn Nguyên, trong 20 lần giao thiệp, phía Đại Việt đã trao đổi với triều Minh ít nhất 28 văn kiện, trong đó có 9 tờ tấu, 1 tờ thư và 18 tờ biểu4. Chúng được soạn thảo và trao đổi với triều Minh dường như liên tục từ 1426 đến 1437. Khoảng thời gian này tương ứng với quá trình đấu tranh ngoại giao giữa nghĩa quân Lam Sơn (và sau đó là triều Lê sơ) với triều Minh từ 1424 đến 1437. Nghĩa là các lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn bắt đầu tấu, biểu vào thời điểm cuộc khởi nghĩa đang đi đến thắng lợi cuối cùng. Cục diện chiến trường đang nghiêng về phía có lợi cho nghĩa quân, việc lên ngôi của Lê Lợi hoàn toàn chủ động được nhưng các lãnh tụ của nghĩa quân vẫn trần tình và tấu, biểu thuyết phục hoàng đế nhà Minh chấp nhận cầu phong. Nhìn từ mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Hoa lúc bấy giờ, việc trình tấu - biểu trong thời gian đặc biệt này chắc chắn nằm trong sách lược đấu tranh ngoại giao lâu dài của Lê Lợi, Nguyễn Trãi. Tập hợp các văn kiện này, vì thế, có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự ra đời và tồn tại nhà nước Đại Việt của triều Lê. Với ý nghĩa như vậy, có thể khẳng định, tập văn kiện chứa đựng giá trị quý giá về nhiều mặt (văn hóa, văn học, lịch sử, triết học…). Đặt trong hệ thống văn chính luận nói trên, các tấu, biểu ngoại giao chiếm giữ một vị trí, vai trò không thể thay thế, cho thấy tính liên tục và thống nhất trong tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước và quan điểm ngoại giao của Nguyễn Trãi.
3. Đặc điểm, giá trị và ý nghĩa của các văn kiện tấu, biểu ngoại giao của Nguyễn Trãi
3.1. Các văn kiện tấu, biểu ngoại giao được Nguyễn Trãi soạn (từ tháng 12/1426 đến 1437) về cơ bản trong bối cảnh mới, giao thiệp với đối tượng mới
Gánh vác trọng trách “trù hoạch mưu lược nơi màn trướng”, với nhiệm vụ cụ thể là soạn thảo các công văn, giấy tờ phục vụ trực tiếp cho cuộc kháng chiến, Nguyễn Trãi ý thức sâu sắc về bối cảnh lịch sử và đối tượng cần luận chiến. Mỗi giai đoạn kháng chiến, mỗi bài văn do ông soạn thảo nhắm tới một đối tượng khác nhau. Đồng thời, chính bối cảnh lịch sử cùng đối tượng hướng tới chi phối việc lựa chọn, sử dụng thể loại. Điều này thể hiện rất rõ trong hành trình soạn thảo văn chính luận, từ Quân trung từ mệnh tập đến các văn kiện tấu, biểu ngoại giao.
Thấu hiểu mưu đồ thống trị nước ta của triều đình nhà Minh, ngay từ những ngày đầu tham gia nghĩa quân Lam Sơn, Nguyễn Trãi đã dâng Bình Ngô sách với chiến lược kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao. Trong đó, sách lược ngoại giao trọng yếu, theo Nguyễn Trãi, là “mưu phạt tâm công” với hai phương thức cơ bản là dụ hàng các tướng lĩnh, binh sĩ địch và ngụy quân, thực hiện hòa đàm. Trong suốt 10 năm khởi nghĩa Lam Sơn, các lãnh tụ nghĩa quân đã triệt để thực hiện đường lối tiến công ngoại giao này. Thời kỳ khó khăn những năm đầu khởi nghĩa, Lê Lợi sai bọn Lê Trăn đến chỗ quân Minh xin hòa vào tháng 12/14225. Nhưng khi lực lượng nghĩa quân đã lớn mạnh, cuộc giao tranh ngày càng ác liệt, “việc giao thiệp với quân Minh được nâng lên thành một mặt trận đấu tranh chính trị phối hợp nhịp nhàng với các chiến dịch quân sự trong thế trận tổng hợp của cuộc chiến tranh nhân dân”6. Khi quân địch bị dồn vào thế bất lợi, các lãnh tụ không vội dùng sức mạnh quân sự để tiến công tiêu diệt địch mà bình tĩnh thực hiện bao vây uy hiếp kết hợp với tiến công chính trị dụ hàng. Khoảng thời gian này, thư từ là thể loại ưu thế để dụ hàng các tướng lĩnh nhà Minh hung hăng, hiếu chiến như Phương Chính, Liễu Thăng; mưu mô, xảo trí như Vương Thông, Trần Trí, Sơn Thọ... Tập văn thư luận chiến Quân trung từ mệnh tập trở thành thứ vũ khí hiệu quả đánh vào lòng địch, góp phần không nhỏ cho thành công của cuộc kháng chiến.
Những năm cuối khởi nghĩa, cục diện chiến trường thay đổi theo hướng dần có lợi cho nghĩa quân. Cuối năm 1426, nghĩa quân tiến ra Bắc tấn công toàn bộ hệ thống thành trì của giặc, đánh tan hai đạo viện binh hùng mạnh, khiến tổng binh Vương Thông vội xin hòa, chấp nhận mở “Hội thề Đông Quan”, chấm dứt chiến tranh và rút quân về nước (22/11/1427). Đất nước đã sạch bóng quân thù nên công tác dụ hàng, địch vận bằng thư từ không còn cần thiết nữa. Chiến thắng thuộc về ta nhưng triều Minh không dễ dàng chấp nhận kết cục thất bại. Trong vị thế một nước thiên triều, dưới chiêu bài “hưng diệt kế tuyệt”, triều Minh âm mưu trì hoãn việc lên ngôi của Lê Lợi, đồng nghĩa không công nhận sự tồn tại của triều Lê và nhà nước Đại Việt. Nhận thấy đấu tranh địch vận kết hợp với sức mạnh quân sự không đủ để đưa đến thắng lợi hoàn toàn, các lãnh tụ nghĩa quân quyết định phải tiếp tục cuộc đấu tranh ngoại giao với triều Minh. Thời thế lịch sử thuận lợi hơn trước nhưng đối tượng thuyết phục lại không hề dễ dàng, đó là hoàng đế triều đình phong kiến nhà Minh - người nắm giữ quyền lực cao nhất, giữ địa vị thiên triều. Trong mối quan hệ với các nước Nam Hải7 (bao gồm cả Đại Việt), Trung Hoa thiên triều luôn đặt mình ở vị trí trung tâm thống trị. Trong chiều dài lịch sử xâm lược, tham vọng thôn tính, chiếm đoạt nước ta của các vương triều Trung Hoa luôn thường trực. Trước một đối tượng đấu tranh ở cấp cao hơn, Nguyễn Trãi đã dùng tấu, biểu - những thể loại công văn mang tính chất quan phương, dùng trong trường hợp kẻ dưới trình lên người trên - để giao thiệp. Như vậy, cuộc đấu tranh ngoại giao giờ đây đã được đặt trong một tình thế mới phức tạp hơn và với một đối tượng mới khó “nhằn” hơn. Bối cảnh ấy, đối tượng ấy không chỉ là cơ sở ra đời của các bản tấu, biểu mà còn chi phối đến đặc điểm của thể loại.
3.2. Mục đích ngoại giao của Nguyễn Trãi qua các văn kiện tấu, biểu
Mục đích ngoại giao quan trọng nhất của Nguyễn Trãi qua các văn kiện tấu, biểu là tiếp tục cuộc đấu tranh giành và giữ quyền độc lập dân tộc. Bằng việc xâm lược và đặt bộ máy cai trị trên đất nước ta, nhà Minh đã biến An Nam thành quận, huyện của mình. Thực tế lịch sử này đã đặt ra nhiệm vụ khó khăn cho nghĩa quân Lam Sơn là sau khi đánh bại quân Minh xâm lược, phải thiết lập lại mối quan hệ bang giao giữa hai nước bị cách quãng trước đó, xoay chuyển địa vị của nước ta, như thế mới có được nền độc lập chính thức và dài lâu. Bằng sự phối hợp khéo léo các biện pháp đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị của các lãnh tụ nghĩa quân, bằng nghệ thuật lập luận khôn khéo của Nguyễn Trãi qua các văn kiện tấu, biểu, nghĩa quân Lam Sơn (và triều Lê sơ) đã từng bước làm thay đổi ý chí cai trị của triều Minh, buộc chúng phải thừa nhận vương triều Đại Việt, từ đó khẳng định tính chính thống của nền độc lập dân tộc.
Cuộc đấu tranh ngoại giao bằng tấu, biểu của các lãnh tụ nghĩa quân còn nhằm mục đích tránh chiến tranh, tạo quan hệ tốt với Trung Quốc, gìn giữ hòa bình. Nỗ lực thiết lập lại quan hệ ngoại giao với triều Minh của Lê Lợi, Nguyễn Trãi là biểu thị của khát vọng hòa bình, mong muốn duy trì mối quan hệ hữu hảo giữa hai nước, giảm thiểu nguy cơ chiến tranh, tránh gây đổ máu cho nhân dân vô tội. Đến đây, tinh thần nhân nghĩa “cốt ở yên dân” tiếp tục được nêu cao, trở thành hạt nhân trong tư tưởng cứu nước của người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi.
Mặt khác, khi đất nước hòa bình, ổn định, an ninh quốc gia được đảm bảo sẽ tạo điều kiện thuận lợi để triều Lê củng cố, xây dựng và phát triển đất nước, khẳng định vị thế của mình. Lịch sử ghi nhận, nhờ nối lại hoạt động bang giao, xung đột vũ trang không còn, triều Lê có thể tập trung thực hiện những chính sách đối nội, đối ngoại tích cực nhằm đưa vương triều phát triển đến đỉnh cao. Ở thế kỷ XV, nhà Lê trở thành vương triều phong kiến hùng mạnh và có tầm ảnh hưởng lớn trong khu vực.
3.3. Đặc điểm thể loại tấu, biểu của Nguyễn Trãi
Nội dung 28 văn kiện tấu, biểu chủ yếu xoay quanh vấn đề “sách phong” và “triều cống” - phương thức bang giao đặc biệt giữa Trung Hoa và các nước lân cận, có liên quan đến quan niệm thống trị “tông - phiên” từng tồn tại trong suốt thời kỳ lịch sử cổ - trung đại. Với vị thế địa - chính trị lớn mạnh, từ rất sớm, Trung Hoa đã tự cho mình là “thiên triều”, “thượng quốc” ở trung tâm thống trị “tứ di”8. Các thời kỳ sau đó, các đời Tần, Hán, Minh, Thanh vẫn giữ vững tư tưởng thống trị của một thiên triều trung tâm, áp đặt các điều lệ ngoại giao, buộc các nước khác, nhất là các nước nhỏ có nghĩa vụ thần phục và nộp cống. Cùng với quá trình mở rộng bờ cõi, danh sách các nước chịu ảnh hưởng và thần phục ngày càng mở rộng. Tuy nhiên, tùy mối quan hệ xa - gần, thân - sơ với Trung Hoa mà mức độ ràng buộc giữa các nước với thiên triều có phần khác nhau. Các nước nằm trong khu vực Nam Hải (bao gồm nước ta), theo các nhà nghiên cứu, ở xa trung tâm nhất và luôn gắn liền với địa vị phiên quốc. Trong mối quan hệ này, “thiên triều không cắt cử quan lại để quản lý nước đó về mặt hành chính cũng như không trực tiếp điều hành về các mặt chính trị, kinh tế…” và các nước có thể có “một nhà nước độc lập có chủ quyền”9. Nhưng các nước vẫn chịu ràng buộc với thiên triều ở hai phương diện: phải nộp cống (định kỳ hoặc không định kỳ) cho thiên triều và phải chịu sự sách phong của thiên triều (tức người đứng đầu nước đó phải được thiên triều ban sách phong công nhận).
Ở nước Việt, các triều đại phong kiến đều thực hiện nghĩa vụ của một phiên quốc. Nhưng đến triều Hồ, mối quan hệ với Trung Hoa trở nên phức tạp, việc thực hiện cầu phong và tiến cống bị ngừng lại, biểu thị rõ rệt tư tưởng chống lại sự lệ thuộc thiên triều. Cưỡng lại quy luật “tông - phiên”, phải chăng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thất bại sớm của triều Hồ? Mặt khác, thực tế lịch sử cũng cho thấy, nước Việt là quốc gia nhỏ bé, lại nằm sát cạnh quốc gia phong kiến Trung Hoa có tiềm lực lớn mạnh và tham vọng bành trướng mạnh mẽ, nên dù có độc lập tự chủ vẫn luôn tiềm ẩn nguy cơ bị tái xâm lược. Vì thế, để đảm bảo an ninh, duy trì quan hệ hòa hiếu với nước láng giềng khổng lồ ấy, các vua Việt phải có đường lối đối ngoại “mềm dẻo”, “lấy nhu thắng cương”, giả danh “thần phục”, cầu phong Trung Hoa. Các vương triều phong kiến Việt Nam phải chấp nhận và cần có sách phong của hoàng đế Trung Hoa, vừa như một sự thừa nhận vai trò của thiên triều, vừa như một đối sách ngoại giao để có được sự yên ổn của đất nước. Bài học thành - bại về giữ nước của các bậc tiền nhân đã giúp Lê Lợi, Nguyễn Trãi nhận thức sâu sắc rằng, việc coi Trung Quốc là thiên triều (coi mình là “phiên quốc”) là vấn đề mang tính quy luật của cả khu vực, không thể cưỡng lại; đồng thời cũng hiểu rõ vị thế của một quốc gia sát sườn Trung Hoa. Vì vậy, sau khi nghĩa quân thắng lợi, triều đình nhà Lê đã chủ trương nối lại mối quan hệ “tông - phiên”. Nhận mình là “phiên quốc” của “thiên triều”, với các lãnh tụ Lam Sơn, là một hình thức chấp nhận khôn ngoan để tồn tại.
Chủ trương này đã chi phối cách lựa chọn và vận dụng thể loại tấu, biểu của Nguyễn Trãi. Như đã chỉ rõ, đối tượng của cuộc đấu tranh ngoại giao do nghĩa quân Lam Sơn tiến hành là triều đình nhà Minh, cụ thể là vua Minh nên Nguyễn Trãi không thể tiếp tục áp dụng thư từ như trước nữa mà phải dùng hình thức công văn mang tính chất ngoại giao quan phương. Trong trường hợp này, tấu và biểu là hai thể loại thích hợp hơn cả. Tấu và biểu đều có quy định thể thức trình bày riêng nhưng đều là những thể loại mang danh nghĩa người dưới tấu trình lên người trên. Tấu do phải trình bày sự việc cho rõ ràng nên diễn đạt giản dị, trong sáng; còn biểu nhằm bày tỏ tình cảm và được dùng trong các trường hợp trình xin, tạ ơn, khánh chúc nên ngôn từ thường hoa mĩ, câu văn ngắn gọn, hàm súc, đặc biệt là tuân theo luật biền ngẫu chặt chẽ hơn tấu. Tuy nhiên, tùy vào thực tiễn mà người viết vận dụng thể loại sao cho thích hợp. Thực tiễn cuộc đấu tranh ngoại giao đầu thế kỷ XV cho thấy, phía Đại Việt mong muốn được sách phong, tiến cống, đồng nghĩa với mong muốn độc lập; phía vua Minh lần lữa không chịu sách phong vì nếu đồng ý sách phong, nhận tiến cống cũng có nghĩa là thừa nhận quan hệ tông - phiên và như thế, không thể dùng vũ lực để tái sáp nhập nước ta vào bản đồ nhà Minh. Trước mâu thuẫn gay gắt trong quan hệ bang giao hai nước, Nguyễn Trãi đã sử dụng song song cả hai thể loại tấu, biểu. Với mỗi tờ biểu nêu nguyện vọng thường kèm thêm một tờ tấu giải thích, làm rõ thêm nguyên nhân hoặc tình tiết các sự việc dẫn tới nguyện vọng đó. Với cách này, các bản tấu đã góp phần khắc phục được hạn chế trong công năng trình bày của biểu. Hai thể loại đi kèm nhau, bổ sung, làm rõ cho nhau, khiến cho nguyện vọng được sách phong bày tỏ thiết tha hơn, từ đó tăng hiệu quả thuyết phục.
Cuộc đấu tranh ngoại giao trực tiếp giữa nghĩa quân Lam Sơn (và sau đó là triều Lê sơ) với hoàng đế triều Minh diễn ra trong khoảng 1424 đến 1437, tùy vào diễn biến phức tạp của cuộc đấu tranh mà Nguyễn Trãi sử dụng biểu, tấu hay kết hợp cả hai. Khởi đầu là sách lược giả lập hậu duệ nhà Trần, tức Trần Cảo, để tiến hành cầu phong, mở đường giao thiệp với triều Minh. Cùng với biểu là hai bản tấu giải thích cặn kẽ nguyên nhân cầu sách phong Trần Cảo, trình bày việc giải giáp, trao trả quân binh, vũ khí thua trận và chủ động nối lại nghĩa vụ triều cống với một danh sách tiến cống hậu hĩnh. Sự kết hợp cả tấu và biểu lúc này góp phần xoa dịu tâm trạng cay cú thua trận của quân Minh, đồng thời thể hiện thái độ thành tâm mong được nối lại nghĩa vụ của một phiên quốc với thiên triều. Các bản tấu và biểu tiến công trần tình tạ tội sau đó liên tiếp được gửi đi nhằm gia tăng thêm mức độ thiết tha muốn được sách phong, đồng thời trình bày các chứng lý không thể chối cãi khẳng định địa vị tự chủ của An Nam. Vua Minh bước đầu chấp nhận, ban chiếu truyền lệnh rút quân và bằng lòng lập Trần Cảo làm “An Nam quốc vương”, chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược, kết thúc thời kỳ cai trị quận huyện của họ ở Giao Chỉ, đồng thời thừa nhận nước ta là một quốc gia có chủ quyền. Khi Trần Cảo mất, một mặt, Lê Lợi bố cáo thiên hạ việc lên ngôi hoàng đế, vừa để khẳng định rộng rãi chủ quyền dân tộc, vừa thực hiện củng cố chính quyền và bộ máy nhà nước, mặt khác sai người sang nhà Minh dâng tấu trần tình việc Trần Cảo mất và trình bày sự cần thiết phải sách phong cho Lê Lợi. Vin vào cớ tìm con cháu họ Trần khôi phục triều cũ, vua Minh không chịu công nhận chính quyền nhà Lê mới thành lập và hạch sách về vấn đề người Minh bị bắt ở Giao Chỉ trong chiến tranh. Lãnh tụ nghĩa quân vẫn kiên nhẫn giao thiệp bằng tấu và biểu để giải thích, thuyết phục buộc vua Minh phải thừa nhậnđịa vị của Lê Lợi và triều Lê. Ngày 1/11/1431, vua Minh sai người đem ấn sang “sắc mệnh/ sách mệnh” (chứ không phải “sắc phong/ sách phong”) quyền “Thự An Nam quốc sự” cho Lê Lợi, tức mới chỉ cho Lê Lợi quyền tạm thời trông coi việc nước. Từ sau 1432, việc tấu ít được thực hiện, thay vào đó chủ yếu là biểu cầu phong, tạ ơn, điếu tang phù hợp với các sự kiện tang gia, hỉ sự quan trọng của triều Minh. Mãi đến ngày 13/1/1437, nhà Minh mới chính thức sách phong cho vua Thái Tông tước hiệu “An Nam quốc vương” sau nỗ lực kiên trì đấu tranh ngoại giao của triều Lê sơ với bao gian khổ, mất mát. Như vậy, quá trình tấu, biểu diễn ra đằng đẵng 13 năm, dài không kém thời kỳ kháng chiến. Điều đó cho thấy các lãnh tụ nghĩa quân đã kiên quyết tới cùng để đòi bằng được sách phong từ triều Minh, buộc chúng phải công nhận nền độc lập tự chủ của Đại Việt. Thành công này cũng khẳng định hiệu quả trong việc kết hợp tài tình các thể loại tấu và biểu trong đấu tranh ngoại giao của Nguyễn Trãi.
Quá trình đấu tranh ngoại giao cũng trải lắm gian nan, phức tạp; gian nan trên chính trường quân sự và cả trong đấu tranh với lòng người. Tuy nhiên, do xác định “sát sóng”10 đối tượng đấu tranh, thấu hiểu tâm cơ, thủ đoạn của địch nên Nguyễn Trãi ứng biến vô cùng linh động, sắc sảo, thể hiện rõ phương sách “công tâm” trong đường lối ngoại giao mà ông chủ trương. Xoay quanh vấn đề cầu phong, nội dung các văn kiện cho thấy, Nguyễn Trãi đưa ra rất nhiều chiêu sách. Đầu tiên, ông khôn khéo lợi dụng chiêu bài “tìm kiếm con cháu họ Trần cho kế vị” (nhằm che giấu âm mưu trì hoãn việc lên ngôi của Lê Lợi) của vua Minh Thành Tổ, giả lập Trần Cảo rồi gửi thư và biểu, thiết lập lại mối giao thiệp với triều Minh, mở đường cho việc cầu phong. Những văn kiện tiếp theo, Nguyễn Trãi đưa ra nhiều lý lẽ và bằng cớ địa lý, lịch sử chứng minh khả năng độc lập và khẳng định địa vị, quyền tự chủ của nước An Nam: “Thần trộm nghĩ đất Giao Chỉ phương Nam/ Thực quả là nước thuộc về hải ngoại/ Nhà Hán, nhà Đường tuy đặt làm quận huyện, mà thực coi là hạng ki mi/ Đời Tống, đời Nguyên dẫu đánh dẹp ra uy, nhưng sau lại ban phong tước mệnh”11. Cùng với đó, triều Lê chủ động nối lại nghĩa vụ chức cống đối với thiên triều sau hơn hai mươi năm gián đoạn. Các loại cống vật được ghi chép trong các bản tấu chủ yếu là vàng, bạc và sản vật quý (như ngà voi, sừng tê, trầm hương…), sản phẩm thủ công (hương xông áo, hương nén, quạt, lụa…) của địa phương. Trong số này, vua Lê đặc biệt cống cho nhà Minh hai tượng người, một bằng vàng và một bằng bạc (mỗi tượng nặng 100 lạng) để “thế thân tạ tội”12. Mục đích của việc làm này là tạm thời đáp ứng yêu sách của nhà Minh, nhanh chóng thiết lập lại mối bang giao, duy trì mối quan hệ láng giềng hòa hảo, giảm sự phẫn nộ của nhà Minh sau thất bại ở An Nam. Cùng với đồ cống vật, các bản tấu cũng trình rõ việc trao trả hàng nghìn quân sĩ, người ngựa, các “chiến lợi phẩm” (như hổ phù, ấn bạc của tướng Liễu Thăng) thu được của quân Minh. Không những thế, vua Lê còn “sửa chữa cầu đường, chu cấp lương thảo... sắp sửa cho 500 chiếc thuyền”13 trịnh trọng “tiễn” giặc về nước. Bề ngoài, phía ta tỏ vẻ ăn năn, hối lỗi về những cơ sự “bất đắc dĩ” xảy ra trên chiến trường nhưng đằng sau các di vật của những viên bại tướng tử trận đó hiển nhiên còn gửi nhắn một thông điệp răn đe, cảnh cáo đối với âm mưu tiếp tục hành động xâm lược của địch. Xen kẽ với các biểu cầu phong, tấu trần tình là các biểu tạ ơn đáp lễ hoặc thăm hỏi viếng tang vua Minh Tuyên Tông, chúc mừng việc lên ngôi của vua Minh Anh Tông, tôn hiệu cho hoàng thái hậu và hoàng hậu với thái độ kính cẩn, nghiêm túc, nhằm biểu thị tấm lòng quan tâm, “biết mình biết ta” của vua Lê… Và hơn hết, đằng sau những diễn giải, trình bày đó, Nguyễn Trãi ngầm vạch trần âm mưu thống trị, hành động xâm lược, tội ác của giặc, từ đó gửi tới quân Minh một thông điệp ngầm: Cuộc kháng chiến của quân dân Lam Sơn đứng trên lập trường chính nghĩa nên chiến thắng là tất yếu, quyền độc lập tự chủ của quốc gia Đại Việt là lẽ đương nhiên cần phải công nhận.
Tất cả các chiêu sách này được trình bày bằng những lời lẽ hết sức khiêm nhường, nhũn nhặn. Cách xưng hô trong các bản tấu, biểu thể hiện thái độ khiêm cung của kẻ “bầy tôi” trước vua Minh: thần trộm nghĩ, thần kính thấy, kính cẩn tâu trình, cúi chờ sắc chỉ, cúi mong, cúi thấy, ngước trông… Mở đầu các tờ biểu luôn biểu lộ tấm lòng thành kính (“Tri phủ Thanh Hóa đất Giao Chỉ, thần là Lê Lợi, thực lòng sợ hãi dập đầu kính cẩn dâng lời”14) và kết thúc vẫn phải tiếp tục bày tỏ sự thành kính, sợ hãi trước hoàng đế (“Thần kẻ dưới khôn tỏ hết nỗi chân thành, ngước trông trời cao thánh minh xiết bao run sợ. Thần kính cẩn phụng biểu trần tình tạ tội dâng lên ngự lãm”15). So với biểu, cách mở đầu và kết thúc của tấu ngắn gọn, ít biểu cảm hơn nhưng phải thể hiện rõ vị thế của người tấu và vấn đề tâu trình (“Cháu đích tôn ba đời của tiên chúa họ Trần nước An Nam, thần là Trần Cảo cùng Đại đầu mục, thần là Lê Lợi, kính tâu về việc trần tình tạ tội”16). Trong nội dung chính, tấu do phải trình bày sự việc nên câu văn thường giản dị, nhẹ nhàng. Còn biểu bày tỏ cảm xúc nên sử dụng nhiều ngôn từ hoa mĩ, biểu cảm và tuân theo luật văn biền ngẫu. Theo đó, giọng điệu các thể văn này cũng rất đặc trưng, vừa từ tốn (chủ yếu ở tấu) vừa thiết tha (chủ yếu ở biểu). Tuy nhiên, Nguyễn Trãi không tuân thủ một cách cứng nhắc công thức trình bày rất khuôn phép của tấu, biểu mà khai thác một cách sáng tạo ưu thế của thể loại để biểu tỏ hiệu quả thái độ thành kính của kẻ dưới trình lên kẻ trên, đồng thời ngầm tỏ rõ ý chí, bản lĩnh của người đứng đầu một phiên quốc độc lập. Trong vai Lê Lợi, tác giả có lúc tỏ ra nhún nhường, cung kính, suy tôn, đề cao uy thế, lòng nhân đức của vua Minh, từ đó đưa vua Minh vào tình thế khó xử, bắt buộc phải giữ thể diện: “Kính nghĩ hoàng đế bệ hạ/ Sáng suốt anh minh/ Thánh thần văn võ/ Dấy nước đã diệt, nối dòng đã tuyệt, tiếp chí lớn của tổ tông/ Giải giáp nghỉ binh, ngưng chiến yên dân, đem bình yên cho Hoa Hạ/ Lượng đất trời mở rộng/ Ơn mưa móc thấm đều…”17; lúc giả vờ ăn năn, hối lỗi thanh minh về cơ sự “đáng tiếc” xảy ra trên chiến trường nhưng thực ra là ngầm cảnh cáo đối với quan quân nhà Minh nếu tiếp tục xâm lược sẽ nhận kết cục thảm bại: “Khi còn ở trước cửa quân, chúng thần đã nhiều lần gửi thư tới nhưng các vị ấy vẫn không thèm nghe. Bởi thế người nước thần vốn lo sợ giết chóc, mới kéo nhau ra phòng thủ ở các cửa ải, chỉ cốt mưu tự vệ mà thôi. Ai dè quan quân mới đến, nom thấy voi bèn kinh hãi, hùa nhau bỏ chạy mà tự tan vỡ”18, qua đó gián tiếp vạch tội giặc áp bức, bóc lột dân lành, đẩy nhân dân vào tình trạng khốn khổ, điêu linh: “Nhưng các quan lại được cử ra… chỉ chuyên mưu toan bóc lột nhân dân để làm giàu… Muốn tiền lắm của nhiều thì đục khoét của dân mà lấp hố tham; muốn cửa rộng nhà cao thì ngăn việc mùa màng để bắt xây dựng. Thuế công thu vào một phần, kẻ trông coi cướp đi quá nửa. Quan lại yêu thương dân thì chẳng có một ai, thù gét dân thảy đều một giuộc. Càng ngày càng tệ, dân sống không yên, như đắm nước sâu, như sôi lửa bỏng…”19; lại có lúc tác giả dùng chính chiêu bài “phù Trần diệt Hồ” của quân Minh để khẳng định việc sách phong là quy luật (cũng như công nhận độc lập của các nước phiên thuộc là đương nhiên), không thể chối cãi: “Đánh kẻ có tội, cứu vớt dân là việc đại nghĩa của bậc thánh nhân/ Dấy nước đã diệt, nối dòng đã tuyệt ấy lòng chí nhân của hàng vương giả […]. Thái Tổ ta lúc ban đầu mở vận/ Ông cha thần trước các nước vào chầu/ Hàng năm tiến cống sân triều/ Nối đời tập phong vương tước…”20. Phần lớn các bản tấu, biểu, tác giả đều khéo léo nêu cao tinh thần nhân nghĩa, vì dân, từ đó ngầm khẳng định mưu đồ xâm lược và thống trị, áp bức nhân dân An Nam của quân Minh là đi ngược lại với công lý, trái với đạo trời: “Đánh kẻ có tội, cứu vớt dân là việc đại nghĩa của bậc thánh nhân/ Dấy nước đã diệt, nối dòng đã tuyệt ấy lòng chí nhân của hàng vương giả…”21; “Song thần trộm nghĩ, các bậc thánh nhân ngày xưa như vua Thành Thang, Vũ Vương đánh kẻ có tội, cứu giúp dân lành, thảy đều xuất phát từ lẽ trời chí công…”22. Ẩn đằng sau ngôn ngữ giao đãi và giọng điệu nhún nhường, nhã nhặn ấy là những lập luận thuyết phục, lý lẽ sắc sảo và một hệ thống bằng cớ xác thực. Lối viết biến hóa linh hoạt ấy không ảnh hưởng đến vị thế của quốc gia, ngược lại, còn góp phần thúc đẩy sự phát triển mối quan hệ bang giao giữa Đại Việt với Trung Hoa, dần đạt được sự thừa nhận của họ về quyền độc lập dân tộc.
3.4. Giá trị và ý nghĩa của các văn kiện tấu, biểu ngoại giao của Nguyễn Trãi
Ra đời trong bối cảnh lịch sử chính trị đặc biệt, lãnh nhận trọng trách to lớn trong công cuộc giải phóng dân tộc, với những đặc sắc về nội dung và hình thức thể loại, các văn kiện tấu, biểu của Nguyễn Trãi kết tinh ý nghĩa, giá trị trên nhiều phương diện: tư tưởng, chính trị, lịch sử, văn hóa, văn học…
Trước hết, tập văn kiện tấu, biểu đã phát triển tiếp nối và sâu sắc hơn chủ nghĩa yêu nước của dân tộc ta, biểu thị tập trung ở tư tưởng nhân nghĩa. Ròng rã 10 năm, nghĩa quân Lam Sơn nếm mật nằm gai đánh đuổi quân đô hộ. Rồi cũng đằng đẵng hơn 10 năm, nghĩa quân và triều Lê kiên trì, nhẫn nại đấu tranh ngoại giao với triều Minh để giành quyền độc lập tự chủ, lập lại hòa bình, từng bước gây dựng đời sống ấm no cho nhân dân. Tất cả nỗ lực ấy nhắm đến mục tiêu cao nhất là vì nước, vì dân. Nhân nghĩa, vì thế, trở thành đường lối chính trị cứu dân. Nguyễn Trãi đã xuất phát từ lập trường nhân nghĩa để thực hiện chiến lược “mưu phạt tâm công”. Đánh vào lòng người, là đứng trên chính nghĩa, tập hợp nhân dân ta thành khối sức mạnh lớn đương đầu với quân xâm lược; đánh vào lòng người là đưa trở lại đường ngay những kẻ lầm, làm tan rã những “đảng ngụy gian ác mưu mô bán nước”; đánh vào lòng người, ở một mặt trận rất xung yếu khác, là giải thích cho quan quân nhà Minh thấy được cái phi nghĩa và thất bại tất yếu của cuộc xâm lược, độc lập dân tộc của Đại Việt là lẽ đương nhiên trên cơ sở nhận thức sâu sắc vị thế đất nước trong mối quan hệ với nước lớn Trung Hoa. Nhìn từ phương diện này, có thể thấy, các văn kiện tấu, biểu đấu tranh ngoại giao của Nguyễn Trãi, cùng với Quân trung từ mệnh tập và Bình Ngô đại cáo, đã góp phần bổ sung và hoàn thiện hệ thống tư tưởng yêu nước của dân tộc.
Nối tiếp tập văn thư luận chiến sắc bén trước đó, các văn kiện tấu, biểu với nghệ thuật thuyết phục khéo léo đã trở thành thứ vũ khí lợi hại trên mặt trận chính trị ngoại giao, góp phần không nhỏ cho thắng lợi của quân và dân Đại Việt. Tập văn kiện, vì thế, có ý nghĩa không kém đối với sự ra đời và tồn tại nhà nước Đại Việt của triều Lê. Nhìn từ phương diện lịch sử, cả khối văn kiện này là chứng tích vô cùng quan trọng của cuộc đấu tranh ngoại giao được Lê Lợi và Nguyễn Trãi tiến hành liên tục với những diễn biến gay go, phức tạp kéo dài suốt nhiều năm để giành nền độc lập tự chủ hoàn toàn cho đất nước. Nhìn từ phương diện văn hóa, tập văn kiện thể hiện mạnh mẽ tinh thần chính nghĩa và truyền thống yêu nước hào hùng của dân tộc nên không chỉ có ý nghĩa trong đấu tranh quân sự mà còn ý nghĩa trong cuộc đấu tranh chống sự bành trướng của văn hóa phương Bắc.
Bằng cách xác định rõ mục tiêu đấu tranh, thấu hiểu đặc điểm đối tượng đấu tranh, mưu lược trong các chiêu sách đấu tranh và lựa chọn phù hợp hình thức đấu tranh, tập văn kiện là minh chứng cho nghệ thuật chính luận mềm dẻo nhưng cứng cỏi, linh hoạt nhưng kiên định của Nguyễn Trãi. Kiên định, nhất quán về lập trường tư tưởng; logic, chặt chẽ trong tổ chức văn bản và lập luận; năng động, linh hoạt trong bút pháp; khéo léo, uyển chuyển trong giọng điệu, văn phong, các văn bản tấu, biểu thực sự là những tác phẩm văn chương độc đáo, vừa thống nhất với phong cách văn chính luận Nguyễn Trãi vừa được nâng lên một tầm cao mới, khẳng định tầm vóc nhà văn hóa, nhà chính trị, quân sự lỗi lạc của dân tộc.
Những thành công trên nhiều phương diện của tập văn kiện tấu, biểu đã đưa đến cho hậu thế một cái nhìn toàn diện hơn về di sản văn hóa, văn học cùng tầm vóc tư tưởng, tài năng của Nguyễn Trãi - người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa được UNESCO vinh danh. Cùng với Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, các văn kiện tấu, biểu đã đưa nghệ thuật văn chính luận của Nguyễn Trãi trở thành mẫu mực của thời đại. Những kết tinh về tư tưởng chính trị, văn hóa, những đúc rút về kinh nghiệm ứng xử ngoại giao của tập văn kiện còn mang ý nghĩa thời sự, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa với nhiều diễn biến phức tạp như hiện nay.
Tài liệu tham khảo:
1. Nhiều tác giả (1999), Nguyễn Trãi, về tác gia và tác phẩm (Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu), NXB Giáo dục.
2. Nguyễn Văn Nguyên (2003), Tấu, biểu trong đấu tranh ngoại giao của Nguyễn Trãi, NXB Thế giới.
3.Nguyễn Văn Nguyên: “Cuộc đấu tranh ngoại giao với triều đình nhà Minh, những chứng tích còn sót lại”, https:// nghiencuulichsu.com/2015/04/03/cuocdau-tranh-ngoai-giao-voi-trieu-dinhnha-minh-va-nhung-chung-tich-conlai/, truy cập ngày 10/9/2023. 4. Trần Nam Tiến, “Quan hệ Đại Việt - Trung Hoa nhìn từ vấn đề “sắc phong - triều cống””, http://vns.edu.vn/index.php/vi/ nghien-cuu/viet-nam-hoc-quocte/1130-quan-he-dai-viet-a-trung-hoanhin-tu-van-de-sac-phong-trieu-cong, truy cập ngày 10/9/2023.
5. Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học xã hội, 1976.
Chú thích:
* Trường Đại học Vinh.
1 Bài Quan hải viết về Hồ Quý Ly có câu: “Họa phúc hữu môi phi nhất nhật/ Anh hùng di hận kỉ thiên niên” (Họa hay phúc là có nguyên do, không phải chi trong một ngày/ Anh hùng để lại nỗi hận đến mấy nghìn năm), Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học xã hội, 1976, tr. 280.
2 Năm 1980, UNESCO đã ghi nhận, vinh danh Danh nhân văn hóa và tham gia Lễ kỷ niệm 600 năm Năm sinh Nguyễn Trãi.
3, 4, 6, 9, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22 Nguyễn Văn Nguyên (2003), Tấu, biểu trong đấu tranh ngoại giao của Nguyễn Trãi, NXB Thế giới, tr. 58, 17, 21, 280, 278, 283, 265, 270, 275, 278, 276, 272, 280, 280, 273.
5 Nguyễn Văn Nguyên: “Cuộc đấu tranh ngoại giao với triều đình nhà Minh, những chứng tích còn sót lại”, https://nghiencuulichsu.com/2015/04/03/ cuoc-dau-tranh-ngoai-giao-voi-trieu-dinh-nhaminh-va-nhung-chung-tich-con-lai/, truy cập ngày 10/9/2023.
7 Nam Hải: tên gọi thời xưa chỉ khu vực gồm những nước gần cận với Trung Hoa như An Nam, Chiêm Thành, Xiêm La... Xem thêm: Nguyễn Văn Nguyên (2003), Sđd, tr. 58.
8 “Tứ di”: là quan niệm xưa của người Hoa Hạ, cho mình ở trung tâm, gắn với văn minh, các tộc khác ở các vùng xa phía đông là Di, tây là Nhung, bắc là Địch, nam là Man đều là những tộc người thấp kém hơn. Xem thêm: Nguyễn Văn Nguyên, Tlđd.
10 “Sát sóng”: chữ dùng của Nguyễn Huệ Chi. Xem thêm: Nguyễn Huệ Chi (1999), “Quân trung từ mệnh tập, đỉnh cao của dòng văn học luận chiến ngoại giao chống xâm lược”, in trong: Nhiều tác giả (1999), Nguyễn Trãi, về tác gia và tác phẩm (Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu), NXB Giáo dục.