ĐẤT NƯỚC VÀ CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ TRONG VĂN HỌC YÊU NƯỚC NAM BỘ NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX

Trên cơ sở giới thuyết khái niệm, xác định đặc điểm ý thức về đất nước và chủ quyền lãnh thổ từ góc nhìn của chủ nghĩa dân tộc, bài viết đi sâu khảo sát, phân tích, lý giải những biểu hiện của vấn đề này trong văn học yêu nước Nam Bộ nửa cuối thế kỷ XIX.

   Đất đai, lãnh thổ có quan hệ chặt chẽ với con người. Mỗi cá nhân thuộc một cộng đồng cư dân luôn cảm nhận được mối liên kết sống động và thiêng liêng giữa mình với một nơi “chôn nhau cắt rốn”, nơi ra đi để hoài nhớ và khao khát trở về; một không gian kiến tạo, lưu giữ, phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa; một thực thể địa lý được xác định cương vực, ranh giới và đặc quyền sở hữu để mọi thành viên của cộng đồng đều có thể tự hào, yêu mến gọi là đất mẹ, quê hương, Tổ quốc. Sự phân giới lãnh địa bất khả xâm phạm của các cộng đồng người thời nguyên thủy; sự xác lập phạm vi lãnh thổ của các đế chế, các nền văn minh cổ đại; các cuộc phát kiến vĩ đại trong hành trình khám phá những miền đất mới; những cuộc xâm lược của đội quân thực dân để mở rộng phạm vi thuộc địa và tăng cường quyền lực chính trị, kinh tế; những phong trào di dân mang tính toàn cầu; những cuộc chiến tranh giải quyết xung đột biên giới, xung đột chủ quyền vùng đất, vùng biển, vùng trời… tất cả đều liên quan đến nhận thức và nhu cầu sở hữu một nguồn lực cốt yếu: đất đai. Vì tầm quan trọng như vậy, nhiều lý thuyết gia của chủ nghĩa dân tộc xem đây là một trong những tham tố cơ bản góp phần xác lập khái niệm, định vị căn tính, bản sắc dân tộc hay xem xét sự hình thành và phát triển của ý thức dân tộc trong tiến trình lịch sử.

   Trong Chủ nghĩa dân tộc - một giới thiệu rất ngắn, khi khảo sát con đường hình thành ý nghĩa của từ “Nation” (dân tộc) dưới góc nhìn từ nguyên, Steven Grosby đã chỉ ra cách con người thời cổ hình thành ý niệm về mối quan hệ giữa một cá nhân với cộng đồng cư dân thông qua mối quan hệ giữa anh ta với gia đình và vùng đất sinh trưởng: “Từ Nation trong tiếng Anh có nguồn gốc từ danh từ Latinh Natio, và danh từ này lại xuất phát từ động từ tiếng Latinh Nasci, có nghĩa là được sinh ra từ (và từ đó cũng có nguồn gốc từ danh từ Latinh Nativus, bản địa)”1. Vẫn theo học giả này, mối quan hệ giữa con người với đất đai còn thể hiện trong các từ “motherland” (đất mẹ), “fatherland” (quê cha), “homeland” (quê nhà). Chúng cùng được hình thành từ kiểu kết hợp từ đồng dạng mang dấu ấn của tâm thức sở thuộc khi mỗi cá thể trong cộng đồng cư dân luôn cảm thấy sự hiện hữu sống động của mối dây ràng buộc thiêng liêng với cảnh quan, nơi chốn sinh trưởng và những người thân thuộc: “Mỗi ba từ này là sự kết hợp của hai thuật ngữ. Từ đầu tiên và từ thứ hai kết hợp tương ứng với thuật ngữ mẹ và cha, cả hai đều đề cập đến nguồn gốc quan hệ của đứa trẻ từ những người chịu trách nhiệm trực tiếp cho thế hệ sinh học của nó với thuật ngữ đất truyền tải hình ảnh một lãnh thổ có giới hạn nhưng rộng lớn. Từ thứ ba, quê nhà (homeland), kết hợp tham chiếu đến nơi ở của gia đình và khu vực nơi đứa trẻ được hình thành, nuôi dưỡng và trưởng thành với một lãnh thổ rộng lớn hơn… Ý tưởng mà ba từ này chia sẻ là khái niệm đất nước bản địa của một người”2. Sự gắn kết như được phân tích ở đây không chỉ mang tính chất sinh học khi phản ánh mối quan hệ huyết thống của các thành viên trong gia đình, tộc họ mà còn mang tính lịch sử khi cùng lúc xác lập vị trí, quyền lợi thụ hưởng, nghĩa vụ hi sinh, đóng góp của mỗi cá nhân vào hành trình sinh tồn, truyền thống văn hóa, tập quán cư trú, canh tác… của cộng đồng.

   Mối liên quan sinh học và lịch sử giữa con người với đất đai chính là một trong những cơ sở để giới thuyết hay lý giải các vấn đề của chủ nghĩa dân tộc. Chẳng hạn, từ việc khảo sát cấu trúc nghĩa của các từ nêu trên, Steven Grosby đi đến một cách hiểu về dân tộc dựa trên cơ sở quan hệ tương tác, sở thuộc giữa con người với đất đai xét ở cả trục thời gian lẫn không gian: “Con người có đất đai của nó và đất đai có con người của nó. Dân tộc là một quan hệ xã hội có cả chiều sâu thời gian và lãnh thổ có giới hạn”3. John Breuilly khi giải thích khái niệm dân tộc chú ý nhấn mạnh ý thức phân biệt giữa “mình”, những người cùng thuộc về một cộng đồng, cùng sống trên một lãnh thổ, quê hương, cùng chịu ràng buộc bởi những mối dây thiêng liêng của quyền lợi và trách nhiệm với “họ”, những người bên ngoài, không thuộc về cộng đồng đó: “Mọi người khao khát trở thành thành viên của cộng đồng, có ý thức mạnh mẽ về mình và họ, về lãnh thổ là quê hương, về sự quy thuộc đối với những thế giới được xác định và ràng buộc về mặt văn hóa, những thế giới mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của họ”4. Carlton J. H. Hayes, trong Chủ nghĩa dân tộc: một tôn giáo, lưu ý nhiều hơn đến tâm thức nguồn cội, sự trân trọng ký ức, sự tiếp nối, gắn kết, chia sẻ, thừa hưởng của nhiều thế hệ trên cùng một “quá khứ lãnh thổ của một dân tộc, đất đai tổ tiên của nó liên quan đến tình cảm kính trọng phổ biến đối với quê hương, nơi tổ tiên họ đã sống và được chôn cất”5. Anthony Giddens, trong Dân tộc - nhà nước và vấn đề bạo lực, quan tâm đến ý thức phân định ranh giới của một lãnh thổ có chủ quyền, có sự quản lý, kiểm soát, giám sát của bộ máy chính quyền ở cả bên trong lẫn bên ngoài: “Khi nói đến dân tộc, tôi muốn nói đến một tập thể tồn tại trong một lãnh thổ được phân định rõ ràng, chịu sự quản lý của một chính quyền thống nhất, được giám sát theo phản xạ bởi cả bộ máy nội bộ của nhà nước và bộ máy của các quốc gia khác”6. Vẫn nhấn mạnh vai trò quan trọng của mối quan hệ giữa con người với đất đai nhưng Anthony D. Smith, trong Nguồn gốc của dân tộc, không chỉ đề cập đến việc sở hữu một lãnh thổ vật chất mà còn lưu ý đến những trường hợp liên kết của con người với đất nước, quê hương chỉ tồn tại trong môi trường “tưởng tượng”: “Dân tộc luôn có mối quan hệ với một khu vực, một lãnh thổ cụ thể gọi là của riêng mình. Họ cũng có thể cư trú trên lãnh thổ đó, hoặc sự liên kết với nó có thể chỉ là một ký ức mạnh mẽ. Một dân tộc không cần phải sở hữu vật chất lãnh thổ của họ. Điều quan trọng là nó có một trung tâm địa lý mang tính biểu tượng, một môi trường sống thiêng liêng, một quê hương mà dân tộc đó có thể trở về một cách tượng trưng ngay cả khi các thành viên của nó sống rải rác trên toàn cầu và đã mất quê hương hàng thế kỷ trước”7

   Có thể tập trung vào những điểm nhấn khác biệt nhưng những quan niệm về dân tộc nêu trên đều có cùng một điểm quy chiếu, đó là mối quan hệ giữa con người với đất đai, quê hương, lãnh thổ, một thực tiễn lịch sử được nhận thức trên cả trục không gian và thời gian, cả phương diện vật chất lẫn tinh thần, từ cả góc nhìn bên trong lẫn góc nhìn bên ngoài. Sở dĩ cần đặt trọng tâm vào điểm quy chiếu này là bởi vì đối với các cộng đồng cư dân thời tiền hiện đại, sự gắn kết giữa các cá thể trong cộng đồng và giữa cộng đồng với đất đai, quê hương lịch sử luôn gợi ý niệm về một bối cảnh không gian vừa cụ thể, gần gũi vừa trừu tượng, thiêng liêng.

   Thời gian và nơi ra đời thường để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm thức của một cá thể thông qua quá trình anh ta trưởng thành, tích lũy tri thức, tự điều chỉnh, thích nghi, hội nhập vào các hoạt động sinh tồn, các nghi lễ, tập tục, các huyền thoại, truyền thống lịch sử, văn hóa của cộng đồng. Chính trong quá trình đó, anh ta tìm thấy mạch ngầm gắn kết giữa mình với nơi sinh ra cũng như với những người cũng sinh ra trên vùng đất đó, nói cách khác là tìm thấy sự gắn kết của mình với một quá khứ được định vị về mặt không gian. Ý niệm về nơi chốn cội nguồn; cảm giác gắn kết thân thuộc với cảnh quan tự nhiên và truyền thống tập quán, lịch sử của cộng đồng cư dân; việc đặt tên cho vùng đất sở thuộc; việc định danh một cá nhân, một dòng họ hoặc một vương triều gắn với quê hương, vùng đất xuất thân hay quan niệm cho rằng địa thế sông núi có liên quan đến khí mạch chu chuyển của đất đai mà mọi sự thông suốt hay bế tắc đều có ý nghĩa quyết định siêu nghiệm đối với tiềm năng phát triển hay vận mệnh an nguy, hưng vong của một cộng đồng dân tộc... Những biểu hiện phổ biến nêu trên đều cho thấy cách mà con người thời cổ đặt mình vào vị trí một phần tử trong chuỗi liên kết hữu cơ với tất cả các phần tử khác của một tập hợp được hình dung là đất nước, dân tộc.

   Đất mẹ, Tổ quốc, quê hương không chỉ là điểm xuất phát, nơi nương trú an toàn, chỗ dựa cho niềm tự hào và khao khát khẳng định nguồn cội mà còn là tọa độ tham chiếu, đối sánh khi con người có điều kiện mở rộng tầm nhìn sang những vùng đất, những cộng đồng dân tộc khác biệt, nhất là trong hoàn cảnh con người, vì nhiều lý do, bị bứt tách khỏi nguồn cội, mang tâm thức tha hương, lưu lạc. Chính ở đó, con người càng nhận thức rõ hơn mối quan hệ của mình với một “quê hương” trong quá khứ, một phạm vi lãnh thổ sở hữu của cộng đồng dân tộc mà anh ta từng thuộc về. Khi viết Quê hương tưởng tượng, Salman Rushdie, tiểu thuyết gia nổi tiếng người Anh gốc Ấn, đã bắt đầu bằng một trải nghiệm thú vị khi ông miêu tả một tấm ảnh chụp ngôi nhà của gia đình ông ở Bombay vào năm 1946, thời điểm mà ông vẫn chưa được sinh ra. Thế nhưng tấm ảnh vẫn được ông đặt trong phòng làm việc của mình và cứ mỗi lần nhìn nó, ông lại cảm thấy có một sợi dây ràng buộc vô hình, thiêng liêng giữa ông với một vùng đất được gọi là quê hương, đất mẹ và rộng hơn nữa là Tổ quốc. Những lúc như vậy, ông nhận ra rằng trong tâm thức của người di cư luôn tồn tại một phức cảm đảo ngược, theo đó, “Chính hiện tại của tôi mới là đất nước xa lạ và quá khứ là quê hương dù là một ngôi nhà trong một thành phố đã thất lạc trong sương mù của thời gian đã mất”8. Sự xa cách về mặt địa lý, sự cần thiết phải hội nhập vào cộng đồng ở nơi định cư mới khiến những người tha hương biết chắc chắn rằng họ “sẽ không có khả năng lấy lại chính xác thứ đã mất” nên họ phải “tạo ra những hư cấu, không phải những thành phố, những làng mạc thực sự mà là những thành phố vô hình, những quê hương tưởng tượng”9. Sự gắn kết giữa con người với đất nước, do đó, không chỉ tồn tại trong trạng thái vật lý mà còn ở trạng thái tâm lý.

   Mặt khác, mọi hoạt động của cộng đồng cư dân đều gắn liền với cảnh quan tự nhiên, đất - nước, núi - sông, vốn là không gian cư trú, canh tác, sáng tạo văn hóa và cũng là nơi lưu giữ toàn bộ ký ức các thế hệ. Do đó, sự tồn tại trong dạng thức sống động của các địa điểm, dấu tích cảnh quan tự nhiên có một vai trò nhất định trong việc sáng tạo các biểu tượng hàm chứa ý nghĩa trừu tượng, khái quát về quốc gia, dân tộc và cũng là hạt nhân cơ bản trong cấu trúc của các huyền thoại khai nguyên, lý giải địa danh, bản sắc, cội nguồn, truyền thống của cộng đồng dân tộc. Bản chất của các huyền thoại là xa xôi, mơ hồ vì chúng được chuyển giao qua các thế hệ chủ yếu bằng con đường truyền tụng dân gian. Thậm chí, ngay cả khi được tái diễn giải, chính thống hóa trong các văn bản thành văn của giới trí thức tinh hoa, chúng vẫn chỉ là những câu chuyện thiếu cơ sở khả tín. Vì vậy, các huyền thoại cần có chỗ dựa thuyết phục, những chứng cứ đáng tin cậy từ thực tiễn. Một trong những chứng cứ đáp ứng được phần nào yêu cầu này chính là trạng thái trường tồn của các dấu tích cảnh quan tự nhiên. Chúng là điểm nối kết các thế hệ vì vừa chứa đựng bóng dáng, hồn phách của quá khứ vừa in đậm dấu ấn hiện hữu sống động của hiện tại và gửi gắm niềm khao khát hướng tới tương lai. Về vai trò của các dấu tích cảnh quan tự nhiên đối với sự phát triển tình cảm gắn bó, thái độ trân trọng của con người dành cho đất nước, quê hương cũng như nhu cầu định vị căn tính dân tộc và kiến tạo các huyền thoại, Yi Fu Tuan, trong Không gian và nơi chốn, đã có một nhận định xác đáng rằng: “Danh tính của người bản địa — vị trí của anh ta trong toàn bộ sơ đồ của vạn vật — là không còn nghi ngờ gì nữa, bởi lẽ những huyền thoại ủng hộ nó cũng có thật như những tảng đá, hồ nước mà anh ta có thể nhìn thấy, chạm vào. Anh ta tìm thấy câu chuyện cổ xưa về cuộc đời và hành động của những nhân vật bất tử mà chính anh ta là hậu duệ và cũng là những người mà anh ta tôn kính, được ghi lại trên vùng đất của mình. Cả quê hương chính là cây gia phả của anh ta”10. Đất nước, quê hương, mạch đất của một nơi chốn cụ thể cung cấp nguồn sống cho cây, để từ cội rễ, nguồn nhựa được dẫn truyền, chu chuyển, nuôi sống mọi cành nhánh, hoa, lá. Vậy nên, mỗi chiếc lá đều có mối liên quan “gia phả” với tất cả những chiếc lá khác có cùng gốc mẹ cũng như mỗi cá nhân trong một cộng đồng dân tộc đều cảm nhận được mối liên kết giữa mình với nơi “chôn nhau cắt rốn”, “quê cha đất tổ” và dần dần sẽ rộng lớn, bao quát hơn nữa là với đất nước, với “người trong một nước” hay là dân tộc của mình.

   Ý thức dân tộc, do vậy, phải bao hàm ý thức về sự gắn kết thiêng liêng giữa con người với đất nước, quê hương. Quan hệ đó được Bhikhu Parekh, trong Tinh thần lấy chủng tộc làm trung tâm trong các diễn ngôn dân tộc chủ nghĩa, hình dung như là mối quan hệ máu thịt, theo đó, “một dân tộc gắn bó sâu sắc với một lãnh thổ cụ thể, quê hương trên đất của nó, và có liên hệ với nó theo cách ít nhiều giống như con người có mối liên quan với thân thể của họ”11. Đây chính là nguồn gốc phát sinh, trỗi dậy mạnh mẽ của tình cảm đối với đất nước và chủ quyền lãnh thổ, nhất là trong những hoàn cảnh đặc quyền sở hữu bị đánh mất hoặc có nguy cơ bị xâm phạm, chiếm đoạt. Khi sống trên đất nước của mình, có thể người ta không thấy rõ mạch ngầm liên kết giữa mình với đất nước, quê hương, lãnh thổ vì quyền sở hữu là mặc định, hiển nhiên. Thế nhưng, khi có sự va chạm, giao lưu, tiếp xúc với những nhân tố của một nền văn hóa khác biệt, cảm giác xa lạ, kỳ thị, thậm chí thù địch và thái độ phân biệt đôi khi cực đoan với những kẻ ngoại dị sẽ lập tức hình thành và lan rộng trong cộng đồng cư dân bản địa. Hoặc khi bị bứt tách khỏi quê hương, lãnh thổ sở thuộc, nỗi ám ảnh về sự mất mát, cảm giác xa lạ, khó hòa nhập với một cộng đồng mới khiến cho con người di cư, tha hương luôn hoài nhớ ký ức về đất nước, dân tộc mà mình từng thuộc về. Đặc biệt, mọi cuộc tấn công bằng sức mạnh quân sự hay mọi động thái đe dọa chủ quyền lãnh thổ từ một thế lực bên ngoài đều gây nên những tổn thương vật chất và tinh thần ở mỗi thành viên của cộng đồng dân tộc sở hữu đất nước đó. Lúc này, mỗi một bộ phận dù rất nhỏ bị cướp đoạt, chiếm đóng, nô dịch, bị cắt rời khỏi cơ thể lãnh thổ toàn vẹn đều khiến cho tất cả cư dân của cộng đồng cảm thấy đau đớn, phẫn nộ; ý thức dân tộc được đề cao; các phong trào phản kháng, tranh đấu vì đất nước, chủ quyền lãnh thổ được phát động, lan tràn rộng khắp như một tất yếu lịch sử.

   Nếu cần chứng minh cho sự đột khởi của ý thức về đất nước, chủ quyền lãnh thổ và qua đó làm rõ sự trưởng thành của ý thức dân tộc tại một thời đoạn lịch sử đặc biệt thì bộ phận văn học yêu nước Nam Bộ nửa cuối thế kỷ XIX chính là nguồn dữ liệu có khả năng cung cấp nhiều biểu hiện sinh động. Tính chất đặc biệt của thời đoạn lịch sử này cần được nhận thức trong một bối cảnh địa - chính trị với những biến cố bất ngờ và khắc nghiệt khi người dân Lục Tỉnh Nam Kỳ12 phải đối diện với một cú sốc choáng váng: đất nước và chủ quyền lãnh thổ đứng trước nguy cơ bị đe dọa nghiêm trọng bởi những kẻ xâm lược đến từ một nền văn minh xa lạ, khác biệt, vượt trội về sức mạnh quân sự trong khi cư dân bản địa chưa từng có bất kỳ kinh nghiệm đối phó nào trước đó.

   Kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của người Pháp có thể thất bại trong thời gian đầu khi tấn công vào cửa biển Đà Nẵng (9/1958) hay lần đầu đánh thành Gia Định (2/1859), thế nhưng những chủ trương, động thái phản ứng lúng túng, chậm chạp, bất nhất của hệ thống chính quyền nhà Nguyễn, từ trung ương đến địa phương, chính là một trong những nguyên nhân giúp đội quân thực dân dễ dàng thâu tóm cả Lục Tỉnh Nam Kỳ chỉ trong một thời gian ngắn sau đó, tính từ lúc tấn công đại đồn Chí Hòa (2/1861) rồi chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (4/1861-3/1862) đến thời điểm chiếm trọn ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ (20-24/6/1867). Chỉ trong khoảnh khắc “bàn cờ thế phút sa tay” mà một phần lãnh thổ của đất nước bỗng chốc rơi vào cảnh “dưa chia khăn xé”, trở thành vùng “nhượng địa”, thuộc địa thông qua các hòa ước bán nước bỏ dân của triều đình nhà Nguyễn. Vì vậy, đây là nơi mà một bộ phận dân tộc Việt tiếp xúc, cảm nghiệm sớm nhất và rõ nhất nỗi uất hận, đau đớn của bi kịch mất đất đai, mất chủ quyền lãnh thổ.

   Với đại bộ phận cư dân thuần nông, những người dành hết thời gian của mình cho đất đai, tình trạng mất chủ quyền sở hữu đối với mảnh đất truyền đời của cha ông là một bi kịch, một nỗi ám ảnh, âu lo liên quan đến sinh mệnh tồn vong của cá nhân, gia đình, tộc họ... Mất đất là mất quyền sở hữu nguồn lực cốt tử, mất cội rễ, danh tính, mất đi lối sống, truyền thống, bản sắc, tập quán cư trú, canh tác. Bị cướp đất là phải ra đi, bỏ làng mạc, phần mộ tổ tiên, quê hương bản quán mà tha phương cầu thực. Đất đai gắn kết với người nông dân như một phần cơ thể, máu thịt, chạm đến nó là chạm đến điểm dễ tổn thương, là kích hoạt sự phẫn nộ, căm thù, kích hoạt cơ chế phòng thủ, phản kháng ngay từ trong vô thức. Cũng cần lưu ý rằng, với người dân Nam Kỳ Lục Tỉnh, vùng đất cuối trời Tổ quốc này còn quan trọng hơn cả một phần máu thịt bị cắt rời, bởi đây là vùng đất cuối cùng trong hành trình Nam tiến. Mất nó là mất hết niềm hi vọng, thành quả khai phá phải đánh đổi bằng máu, mồ hôi, nước mắt của những thế hệ lưu dân mở cõi. Mất nó, những người lưu dân với đặc điểm phóng khoáng, nổi loạn, yêu tự do, bị dồn đến chỗ đường cùng như Nguyễn Văn Bổng trong tác phẩm Sau một quyển sách đã viết: “Miền Tây Nam Bộ là mảnh đất lưu đày và nổi dậy cuối cùng của Tổ quốc. Đến đây là sơn cùng thủy tận rồi. Đến đây là đến trên bờ Thái Bình Dương, vịnh Xiêm La mịt mù rồi. Đến đây chỉ còn có hai con đường, một là không đủ nghị lực mà sống nữa thì đâm đầu xuống biển mà chết, hai là cố bám lại đấu tranh để sống”13. Khởi đầu và thiết thực nhất chính là từ chỗ mất một nơi chốn dung thân ở mảnh đất tận cùng giáp biển, mất vùng khai thác sở hữu truyền đời, mất làng mạc, quê hương; rồi sau đó, gắn liền với sự trỗi dậy của ý thức dân tộc, thảm trạng mất đất mới được thức nhận là mất một phần lãnh thổ có chủ quyền mà hệ quả cuối cùng là mất nước. Việc người dân Nam Kỳ Lục Tỉnh quyết tâm đứng dậy chống Pháp, bất chấp cả tư tưởng chủ hòa của triều đình nhà Nguyễn lẫn tình thế bi quan khi phải đối chọi với một thế lực quân sự vượt trội là một lựa chọn tất yếu.

   Trong hoàn cảnh vùng đất phương Nam trở thành tuyến đầu chống giặc ngoại xâm, chiến trường tranh chấp nóng bỏng giữa đội quân viễn chinh với các lực lượng nổi dậy, phản kháng lớn nhỏ, tự phát hay có tổ chức của cư dân bản địa, đất nước và chủ quyền lãnh thổ hẳn nhiên phải trở thành một vấn đề nóng hổi tính thời sự, một trong những mối quan tâm của các nhà văn yêu nước Nam Bộ nửa cuối thế kỷ XIX. Khi bám sát, phản ánh các diễn biến chính trị, quân sự căng thẳng, phức tạp dẫn đến hệ quả là Lục Tỉnh Nam Kỳ lần lượt rơi vào tay giặc, tác phẩm của họ cũng ghi nhận những phản ứng tâm lý thực tế và phổ biến của đại bộ phận cư dân bản địa. Đó là cảm giác hoang mang, sợ hãi, căm ghét; nỗi đau đớn, uất hận; tâm thức hoài nhớ, hướng về cội nguồn dân tộc; niềm tin tưởng, mong đợi, nguyện vọng hi sinh, chiến đấu để bảo vệ đất đai, di sản xương máu của cha ông... Tất cả những phản ứng tâm lý này đều có liên quan đến tình trạng đứt gãy đột ngột và có tính dự báo cho hệ quả sụp đổ dây chuyền trong chuỗi liên kết chiều sâu giữa con người với đất đai, lãnh thổ, ký ức, bản sắc và sinh mệnh của một dân tộc.

   Ngay sau khi thành Gia Định bị thực dân Pháp tấn công, tháng 2 năm 1859, Nguyễn Đình Chiểu đã viết những câu thơ miêu tả hình ảnh mảnh đất quê hương quằn quại, điêu linh trong đạn pháo kẻ thù: “Bến Nghé của tiền tan bọt nước/ Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây” (Chạy giặc)14. Không chỉ ghi nhận một sự kiện tức thời diễn ra trên một vùng đất, địa danh cụ thể, những câu thơ này còn chứa đựng một dự cảm đầy ám ảnh, tâm trạng âu lo, trăn trở nhưng bất lực của người trí thức dân tộc khi nghĩ đến số phận đất nước. Cũng day dứt với nỗi ám ảnh đó lúc sáng tác Thiệp giang phú, tháng 9 năm 1861, ngay sau khi cuộc khởi nghĩa chống Pháp của cử nhân Phan Văn Đạt ở Long An thất bại, Nguyễn Thông đã viết những dòng văn bùi ngùi, nghĩ đến viễn cảnh đất Gia Định, sông Sài Gòn, một phần máu thịt của Tổ quốc, rồi đây e rằng chẳng còn lại cái tên hay chút ký ức nào để mà tiếc nhớ: “Phủ vãng tích dĩ tưởng tượng hề, lãm thu phong nhi hư hy; Lẫm thử bang kỳ bất khả hoài hề, dao trùng duệ nhi khứ chi” (Vỗ dấu cũ mà tưởng tượng chừ, đứng trước gió thu mà than dài; E đất ấy rồi không thể tiếc chừ, tần ngần gảy chèo lại lên đường)15… Những dự cảm, âu lo ban đầu nhanh chóng biến thành cảm xúc uất hận, xót xa khi ngọn lửa chiến tranh ngày càng lan rộng, Lục Tỉnh Nam Kỳ từng bước rơi vào tay giặc. Đó là lúc Nguyễn Thông đau lòng nhìn cảnh tượng thành quách cháy tàn bao lần vẫn còn chung quanh (”Thiên thiêu thành quách chu tao tại”) trong Đăng Vĩnh Long thành lâu; Nguyễn Đình Chiểu tả cảnh quê hương bị tàn phá hủy hoại: “Trời Bến Nghé mây mưa sùi sụt/ Đất Gò Công cây cỏ ủ ê” hay bộc lộ tâm trạng buồn tủi, trách cứ trong Điếu Trương tướng quân văn: “Vì ai khiến cảnh dưa chia khăn xé, nhìn giang sơn ba tỉnh thêm buồn/ Thương là thương bờ cõi lúc qua phân, ngày tháng trông vua ngơ ngẩn như phường trẻ dại”; Phan Văn Trị cảm khái khi nhắc đến chủ trương nhu nhược của triều đình: “Tan nhà cám nỗi câu ly hận/ Cắt đất thương thay cuộc giảng hòa” (Mất Vĩnh Long); còn Nguyễn Hữu Huân thì than thở trước tình cảnh “Bốn mùa man mác tình nhà cửa/ Trăm dặm đau buồn cảnh núi sông/ Mây trắng đã giăng trời Bến Nghé/ Nắng chiều dường cháy đất Gò Công” (Thuật hoài). Thảm trạng này cũng được tác giả khuyết danh của Gia Định phú đặc tả bằng những dòng văn đầy phẫn hận: “Ngậm ngùi thay ba bốn làng Gò Vấp, cây cỏ khô, thân thế cũng khô/ Bát ngát nhẽ, mười tám thôn Vườn Trầu, hoa trái rụng, người đời cũng rụng/ Mấy dặm Gò Đen, Rạch Kiến, ngọn lửa thiêu sự nghiệp sạch không/ Đòi nơi Rạch Lá, Gò Công, trận gió quét cửa nhà trống rỗng”…

   Điểm chung của các trường hợp trích dẫn trên là ở chỗ chúng được viết trong thời gian vùng đất phương Nam phải gánh chịu đạn pháo Tây Dương và lần lượt bị chiếm đoạt sau hàng loạt hoạt động chiến sự diễn ra với quy mô rộng lớn và tốc độ chóng mặt trong tiến trình xâm lược của người Pháp. Từng phần một của lãnh thổ chủ quyền bị biến thành bãi chiến trường; từng cái tên của những vùng đất cụ thể được nhắc đến đều gợi lên cảm xúc bi phẫn. Tên của đất hàm chứa trong nó ý nghĩa xác lập sự tồn tại chính danh của một lãnh thổ kết giới thuộc đặc quyền sở hữu của cộng đồng cư dân sống trên đất. Tên của đất được con người khai phá đặt cho và tồn tại trong chiều sâu tâm thức để tất cả cư dân được sinh ra trên đất và nuôi dưỡng bởi đất đều cảm thấy một cách sống động mối liên kết gia đình, dòng tộc, quê hương, Tổ quốc. Bởi thế, khi một bộ phận phải tách rời khỏi cộng đồng, di cư đến một vùng đất khác vì những lý do nhất định, họ vẫn mang cả cái tên cũ của quê hương, lãnh thổ gốc gác đi theo để đặt cho nơi định cư mới. Tên của đất in đậm dấu ấn mối quan hệ sống động giữa con người với đất, lòng biết ơn, tự hào khi hưởng thụ những thành quả từ đất hay nỗi đau đớn, tiếc nuối khi nhìn thấy đất bị cướp đoạt, lãng quên. Do vậy, những cái tên Bến Nghé, Đồng Nai, Gò Công, Vĩnh Long, Gia Định… trong văn học yêu nước Nam Bộ thời kháng Pháp không chỉ có chức năng định danh hay ghi nhận thảm cảnh chiến tranh trên những vùng đất xác thực mà còn là những biểu tượng chứa đựng trong chúng ý nghĩa lịch sử, văn hóa và cảm xúc mạnh mẽ. Nhắc đến chúng là nhắc đến nỗi đau trong tâm thức người Việt Nam khi nghĩ đến những phần lãnh thổ chủ quyền trên cơ thể Tổ quốc toàn vẹn bị giày xéo, thương tổn.

   Khi bị biến thành đất thế chấp để trả chiến phí; vùng đặc khu, nhượng địa để đội quân thực dân xây dựng căn cứ, cơ sở vật chất, tiến hành công cuộc thuộc địa hóa lâu dài và làm bàn đạp để tiếp tục tiến trình xâm lược Việt Nam, đất ấy giờ đã là “đất khác”. “Đất ấy phải đâu là nước cũ” (Hò khoan ca - Nguyễn Hữu Huân), “U Yên trọn cũng giao bàn về Liêu” (Ngư Tiều y thuật vấn đáp - Nguyễn Đình Chiểu) nên cư dân bản địa bao đời bỗng dưng cảm thấy ngơ ngẩn, lạc loài như đang lưu vong nơi đất khách quê người: “Lạc loài nước bước dạ trăm chiều/ Ngơ ngẩn quê người một ống tiêu” (Ngũ Tử Tư thổi sáo - Bùi Hữu Nghĩa). Họ sống ngay trên “đất cũ” của mình nhưng luôn bị ám ảnh, giật mình trước những đổi thay đáng sợ: “Bờ cõi phân chia khác mắt, trông ra như quáng như mù; Giang sơn dời đổi lạ mày, tưởng tới dường mê dường tỉnh” (Gia Định phú). Không chấp nhận tình trạng “lạc loài” ngay trên quê hương mình, họ đành phải tỵ địa, bỏ đất mà đi, như một trong những động thái phản kháng quyết liệt. Thậm chí họ không muốn vong linh của những người thân thuộc phải chịu cảnh nô lệ, vất vưởng trong vùng nhượng địa. Vậy nên, những người học trò của Võ Trường Toản phải bàn cách dời mộ phần của vị sư biểu, quyết không để hài cốt của ông nằm trong phần đất mà thực dân Pháp đã cướp; còn Nguyễn Thông, trong Biệt vong đệ lữ phần, thì đau buồn khi nghĩ đến cảnh mộ phần của người em mất ở Vĩnh Long nay trở thành mồ chôn hiu quạnh nơi đất khách (“Lữ phần kim cánh vi“). Đất ấy giờ phải xót xa gọi là “đất khách” vì lẽ đó là nơi bỗng dưng xuất hiện tình trạng đảo ngược vị thế, chướng tai gai mắt khi đặc quyền sở hữu lãnh thổ không thuộc về “mình”, “ta” mà thuộc về “khách”: “Người dễ muốn chi nương đất khách” (Từ biệt cố nhân - Nguyễn Đình Chiểu), “Xe ngựa nhộn nhàng, xe ngựa khách/ Nước non vun quén nước non mình” (Cảm hoài - Phan Văn Trị); “Nghe xe ngựa khách, tai nhường lạ/ Trông nước non ta, mắt đã chồn” (Ở khám Gia Định họa với ông An Hội - Lã Xuân Oai)... “Khách” là những kẻ đến từ một vùng đất xa lạ, có tiếng nói, màu da, lối sống khác biệt nhưng lại dùng sức mạnh quân sự để chiếm đóng, áp đặt thiết chế cai trị, khai thác; ngang nhiên đi lại, sinh hoạt, du nhập các yếu tố ngoại lai làm biến dạng cấu tầng văn hóa bản địa. “Khách” không chỉ cướp đoạt không gian sinh tồn, nguồn lợi cốt tử mà còn hủy hoại nguồn cội, truyền thống, nơi lưu giữ ký ức chung và thiêng liêng trong chiều sâu tâm thức của cộng đồng cư dân trên vùng đất từng được xem là “nước non ta”, “nước non mình”. Khi quyết tâm bỏ đất mà đi, thậm chí di dời phần mộ người thân đi theo vì “đất mình” đã thành “đất khách”, người trí thức Nam Kỳ Lục Tỉnh rõ ràng là đã nhận thức mối quan hệ giữa con người với đất đai chủ yếu từ bình diện chính trị, từ ý thức về chủ quyền thực tế hơn là từ bình diện tâm linh, tôn giáo như trường hợp ứng xử của người Do Thái khi mất đi vùng đất thánh.

   Trong tình thế một phần lãnh thổ bị chiếm đoạt quyền sở hữu lịch sử bởi một thế lực quân sự bên ngoài, triều đình nhà Nguyễn có thể phân vân, do dự, tính toán thiệt hơn nhưng người dân Nam Kỳ Lục Tỉnh thì không. Họ lựa chọn con đường phản kháng như một lẽ tất nhiên vì chính họ mới là những người gắn bó và chịu đựng mọi đau thương, mất mát trên mảnh đất máu thịt này. Cho nên giành lại đất đai và chủ quyền lãnh thổ chính là mục đích, động lực và lý tưởng của những phong trào kháng Pháp đương thời. Nhận thức rõ điều đó, các tác giả thuộc bộ phận văn học yêu nước Nam Bộ nửa cuối thế kỷ XIX thường tập trung, xoáy sâu vào mối quan hệ giữa con người với đất đai, tổ tiên, nguồn cội để khơi dậy ý thức về chủ quyền đất nước, độc lập dân tộc; kêu gọi tinh thần trách nhiệm, ca ngợi ý chí đấu tranh hay thể hiện lòng tiếc thương vô hạn với những nghĩa sĩ đã chiến đấu, hi sinh vì lý tưởng bảo vệ, giành lại đất đai, lãnh thổ...

   Chủ ý khơi gợi niềm tự hào về cội nguồn dòng giống Rồng Tiên, về sự phân chia cương vực, bờ cõi rạch ròi từ lịch sử dựng nước, giữ nước của người Việt để khẳng định chủ quyền lãnh thổ được Lã Xuân Oai, chí sĩ yêu nước từng bị giam cầm ở Côn Đảo, thể hiện qua những hình ảnh kỳ vĩ, nhắc nhở âm vang tuyên ngôn hùng hồn của những câu thơ thần thời Lý: “Thiên thư hoa giới phân sơn hải/ Địa bảo long quang sạ đẩu ngưu” (Sách trời đã định rõ bờ cõi non biển từng nước/ Ánh sáng rồng của đất báu bắn lên sao Đẩu Ngưu - Họa thơ ông huyện Phong Doanh, bài III). Khi bị giam ở Gia Định, ông cũng từng viết những câu thơ bùi ngùi nhớ tiếc trong Gia Định thành tức sự, khi nghe một ông già xứ quê đêm đêm hỏi tên của nước (“Thôn lão thâm canh tuân quốc hiệu“) dù Lục Tỉnh Nam Kỳ đến thời điểm đó đã thành “tân thế giới” (“Lục tỉnh dĩ thành tân thế giới“). Đất đã về tay kẻ ngoại xâm nhưng tên của một quốc gia, tên của vùng đất đai, lãnh thổ vẫn được ký ức hóa để lưu giữ trong tâm thức và nhờ đó, dân tộc vẫn tồn tại trong dạng thức của một “cộng đồng tưởng tượng” (chữ dùng của Benedict Anderson).

   Dù có nắm giữ chủ quyền lãnh thổ trong thực tế hay không thì con người vẫn tìm mọi cách lưu giữ ký ức về đất, về nguồn cội, công sức mở đất, giữ đất của tổ tiên... để xác thực quyền thừa hưởng, sở hữu mặc định và mối liên kết thiêng liêng giữa con người với đất. Khi nhận thức là có chung gốc rễ, mỗi cá thể cũng cùng lúc cảm nhận được sự gắn bó thiêng liêng, niềm tự hào, ý thức trách nhiệm phải bảo vệ nguồn cội và vùng lãnh thổ sở hữu của cộng đồng dân tộc mà mình thuộc về. Trong hoàn cảnh đất đai, chủ quyền lãnh thổ bị chiếm đoạt, các diễn ngôn quốc gia, dân tộc lại càng phải hướng trọng tâm vào những hàm ý nhắc nhở nguồn cội, tổ tiên, quê hương, ân đất nước, nghĩa đồng bào... để kích hoạt sự trỗi dậy mạnh mẽ của ý thức dân tộc, ý thức về đất nước và chủ quyền lãnh thổ. Đó là lý do giải thích vì sao Nguyễn Đình Chiểu nêu cao đạo nghĩa “Cơm áo đền rồi ơn đất nước” (Điếu Ba Tri đốc binh Phan Công trận vong, bài 9), “Làm người bao nỡ phụ quê hương” (Ngựa Tiêu Sương) hay nhắc nhở trách nhiệm “nhớ phận áo cơm đất nước”, “so bề mồ mả ông cha” khi tiếc thương những người dân mộ nghĩa đã hi sinh (Văn tế sĩ dân Lục Tỉnh trận vong); còn tác giả khuyết danh của bài Hịch Quản Định thì trách cứ những kẻ mắt lấp tai ngơ, đứng ngoài cuộc chiến bảo vệ đất đai, thậm chí đành lòng theo giặc, phản bội tổ tiên, nòi giống, chẳng biết “Tổ tiên đâu, mồ mả nước nào/ Lòng sao không xót, dạ sao không bào/ Bờ cõi loạn muôn dân đồ than/ Người nước Hán, mẹ cha nước Hán/ Hỏi chớ nào thảo nào ngay/ Mà lại khiến vong ân bội tổ”…

   Ở một chiều hướng khác, niềm tự hào về cội rễ, truyền thống trong các huyền thoại lập nước bắt đầu từ vùng đất khai sinh của một cộng đồng dân tộc đã được khai thác với ý nghĩa của một trung tâm địa lý mang tính biểu tượng để khơi dậy tinh thần đấu tranh giành lại đất nước và chủ quyền lãnh thổ. Chẳng hạn, trong thơ Trần Thiện Chánh, người từng tập hợp mấy nghìn dân quân tham gia cuộc chiến kiềm chân Pháp đánh Gia Định năm 1859, “Tản Viên sơn” được ngợi ca là ngọn núi thiêng, từ thời lập quốc đã đứng sừng sững như cây cột chống trời, trấn giữ ở trung tâm bờ cõi, nghiễm nhiên trở thành ông tổ của đất Viêm Giao: “Trung ương bạt xuất kình thiên trụ/ Nghiễm tác Viêm Giao đại tổ tỷ”. Nhắc đến Tản Viên là để trình bày một nguyện vọng tha thiết, muốn dùng sức của năm lực sĩ dời ngọn núi về Nam chắn cửa biển Cần Giờ, lấp ngang dòng nước biển muôn trượng, đâm mạnh vào thuyền quỷ cho tan nát thành bùn: “Hùng tâm dục tá ngũ đinh sĩ/ Di hướng Nam trung Cần hải đầu/ Hoành tắc hải môn vạn trượng thủy/ Xung chàng quỷ bạc toái vi nê”. Đó cũng là một cách tái diễn giải huyền thoại với mục đích chuyển hóa sức mạnh cội rễ thành niềm tin và động lực trong cuộc chiến bảo vệ đất đai, chủ quyền lãnh thổ.

   Phải đặt các phong trào chống Pháp của người dân Nam Kỳ Lục Tỉnh trong thế tương quan bất đối xứng giữa một bên là đội quân viễn chinh thiện chiến với một bên là những người dân ấp, dân lân, mến nghĩa mà làm quân chiêu mộ mới thấy hết sự cần thiết của niềm tin vào lý tưởng và vận mệnh của đất nước, dân tộc cũng như tác động của những tác phẩm văn học yêu nước trong việc khơi dậy niềm tin mãnh liệt đó. Thiếu niềm tin là thiếu đi sức mạnh tinh thần, dễ hoang mang, dao động, thỏa hiệp, dẫn đến thất bại. Do vậy, bên cạnh giọng điệu bi phẫn khi phản ánh thảm trạng mất đất, mất chủ quyền lãnh thổ, hịch, văn tế hay thơ cảm khái, điếu viếng... còn mang giọng điệu hùng hồn khi thể hiện niềm tin sắt đá vào vận mệnh trường tồn và tương lai tươi sáng của đất nước, dân tộc. Để chống lại luận điệu giả trá của kẻ phản bội lại nòi giống, người trí thức dân tộc đã mạnh dạn khẳng định trong những bài Họa thơ Tự thuật của Tôn Thọ Tường rằng vận mệnh của một đất nước có lịch sử tồn tại mấy nghìn năm đâu dễ dời đổi, lung lay dù nhất thời có thể gặp phải tình thế bi quan khi mất đi một phần chủ quyền lãnh thổ: “Một góc cảm thương dân nước lửa/ Trời Nam trụ cả há lung lay” (Bùi Hữu Nghĩa) hay “Nước non này dễ ai dời đặng/ Vẫn ngoại trăm năm há mới đây” (khuyết danh)... Để khơi dậy tinh thần quật khởi, ý chí chiến đấu của sĩ dân Lục Tỉnh, tác giả của bài Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây đã viết những lời kêu gọi thống thiết, rằng: “Xa thư Hán, mối còn tóm một; phong cương Đường, đà mấy chia hai”, “Năm Giáp Tý vận trời hầu gặp; nước Đại Nam đường đất còn dài”; vì vậy, “Chớ thấy chín trùng hòa nghị mà tấm lòng địch khái nỡ vội quên; chớ rằng ba tỉnh trọn vong mà cái việc báo cừu đành ngơ bỏ”. Hoặc để củng cố niềm tin vào tương lai vững bền của một đất nước toàn vẹn, không thể chia cắt, các tác giả đã khích lệ, động viên mọi người và chính mình bằng những lời thơ đầy tâm huyết, “Mong được non sông vẹn nguyên như cũ” (Tức sự - Bùi Hữu Nghĩa) và hi vọng “Nhà nước một mai xoay vận thới/ Cõi Nam chung hưởng hội thăng bình” (Cảm hoài, bài 10 - Phan Văn Trị)… Các trường hợp tiêu biểu trên cho thấy một xu hướng chung trong nhận thức của các tác giả văn học yêu nước Nam Bộ giai đoạn này về đất nước và chủ quyền lãnh thổ. Đó là xu hướng đồng nhất bộ phận với toàn thể, theo đó, số phận của “ba tỉnh trọn vong”, của “một góc”, một phần lãnh thổ chịu cảnh “nước lửa” được nhận thức trong mối quan hệ với số phận của “nước non”, “giang san”, “nước Đại Nam”, “trời Nam”, “cõi Nam”... Xu hướng này càng thể hiện rõ nhận thức sâu sắc của người trí thức dân tộc về tính thống nhất và chủ quyền toàn vẹn trên một lãnh thổ không thể chia cắt.

   Đất đai, lãnh thổ là một nhân tố quan trọng nhưng vai trò quyết định cho sự tồn tại của một cộng đồng dân tộc, xét đến cùng vẫn thuộc về con người như Ernest Renan trong Dân tộc là gì? đã khẳng định: “Đất đai cung cấp chất nền, lĩnh vực đấu tranh và hoạt động; con người cung cấp linh hồn. Con người là tất cả trong sự hình thành của cái thiêng liêng được gọi là dân tộc”16. Ngày nào cư dân trên đất còn tồn tại, còn ý thức về đặc quyền sở hữu lãnh thổ và sẵn sàng đấu tranh để bảo vệ đặc quyền đó thì đất vẫn tồn tại. Ngay cả khi con người bị bứt tách khỏi đất hoặc đất đã bị xóa tên, bị nhập vào một lãnh thổ khác thì những ký ức về đất vẫn sống động trong tâm thức các thế hệ như một phần hoài niệm nguồn cội. Những hình vẽ, màu sắc, ký hiệu, quy ước... miêu tả phạm vi và đường ranh giới để xác lập sự phân bố lãnh thổ của các quốc gia trên bản đồ chỉ có thể cung cấp những hiểu biết thuần lý tính về thực trạng hiện tồn, quyền sở hữu nguồn lực đất đai của một cộng đồng dân tộc nhất định; nhưng những ý nghĩa lịch sử, văn hóa, cảm xúc, ký ức về mối quan hệ máu thịt thiêng liêng của con người với đất nước thì không. Vậy nên, muốn tái hiện tâm hồn dân tộc Việt trong thời đoạn lịch sử giữ đất đầy bi tráng nửa cuối thế kỷ XIX để góp phần lý giải sự trường tồn của mảnh đất hình chữ S liền một dải trên bản đồ ngày nay, chúng ta cần tìm điều đó từ văn chương.

 

 

 

Chú thích:
1, 2, 3 Steven Grosby (2005), Nationalism, a very short introduction, Oxford University Press Inc, New York, p. 44, 43, 11.
4 John Breuilly (1993), Nationalism and the state, second edition, Manchester University Press, p. 401.
5 Carlton J. H. Hayes (1960), Nationalism: a religion, The Macmillian company, New York, p. 4.
6 Anthony Giddens (1985), The Nation-State and Violence, Polity Press, Cambridge, First Published, p. 116.
7 Anthony D. Smith (1986), The Ethnic Origins of Nations, Blackwell Publishing, USA, p. 28.
8, 9 Salman Rushdie, Imaginary homelands, Granta book, London, First Published, p. 9, 10.
10 Yi Fu Tuan (2001), Place and Space - The Perspective ox Experience, University of Minnesota Press, London, p. 157-158.
11 Bihkhu Parekh (1995), “Ethnocentricity of the nationalist discourse”, Nations and Nationalism 1 Magazine (1), ASEN, p. 32-33.
12 Trong bài viết, để đảm bảo tương thích với quan điểm chung của các nhà nghiên cứu, chúng tôi sử dụng từ “Nam Bộ” khi đề cập đến các hiện tượng văn học thuộc phạm vi khảo sát và các từ “Nam Kỳ”, “Nam Kỳ Lục Tỉnh” khi đề cập đến các vấn đề bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa có liên quan.
13 Chuyển dẫn từ: Viện Văn hóa (1987), Mấy đặc điểm văn hóa Đồng bằng sông Cửu Long, NXB. Tổng hợp Hậu Giang, tr. 122.
14 Tất cả trích dẫn thơ văn trong bài, trừ trích dẫn (15), đều được trích từ Lê Trí Viễn (Chủ biên, 2000), Tổng tập văn học Việt Nam, tập 15, NXB. Khoa học xã hội.
15 Cao Tự Thanh (1996), Nho giáo ở Gia Định, NXB. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 169.
16 Ernest Renan (1882), Qu’est- ce qu’une nation?, Conférence en Sorbonne, le 11 Mars

Bình luận

    Chưa có bình luận