Trong suốt chiều dài lịch sử, văn hóa Việt Nam đã trải qua quá trình giao lưu, tiếp biến mạnh mẽ với nhiều nền văn hóa khác nhau, từ Trung Hoa, Ấn Độ đến phương Tây và Xô viết. Những ảnh hưởng này không chỉ giới hạn trong các lĩnh vực đời sống mà còn thấm sâu vào nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật sân khấu. Chèo cách mạng - một biến thể của nghệ thuật chèo truyền thống - đã ra đời và phát triển trong bối cảnh cách mạng Việt Nam, trở thành minh chứng sống động cho sự kết hợp giữa các yếu tố văn hóa nội sinh và ngoại sinh.
Chèo cách mạng không chỉ đơn thuần là một hình thức biểu diễn nghệ thuật mà còn là phương tiện phục vụ mục tiêu xã hội và chính trị của thời đại. Thông qua các vở diễn, chèo cách mạng đã truyền tải sâu sắc tinh thần đấu tranh, lòng yêu nước và ý thức trách nhiệm công dân. Được tiếp thu từ truyền thống chèo cổ và các yếu tố cách tân từ văn hóa Xô viết và phương Tây, chèo cách mạng thể hiện rõ sự hòa quyện giữa tính dân tộc và tính hiện đại, đóng góp quan trọng vào việc bảo tồn và phát triển di sản nghệ thuật sân khấu Việt Nam.
Bài viết này sẽ đi sâu vào phân tích quá trình tiếp biến văn hóa trong chèo cách mạng, từ lý luận cơ bản đến những đặc điểm nghệ thuật và hình tượng nhân vật. Qua đó, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về giá trị nghệ thuật và ý nghĩa xã hội của chèo cách mạng trong bối cảnh lịch sử, cũng như những đóng góp của nó trong việc xây dựng và bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc.
1. Sự giao thoa và tiếp biến văn hóa ở Việt Nam
Giao lưu, tiếp biến văn hóa là thuật ngữ được nhiều học giả trên thế giới quan tâm đến và có những cách dịch khác nhau. Người Anh dùng từ “cultural change”, có nghĩa là trao đổi văn hóa; người Tây Ban Nha dùng chữ “transculturation”, có nghĩa là di chuyển văn hóa; người Pháp dùng chữ “interpénétration des civilisation”, có nghĩa là sự hòa nhập giữa các nền văn minh; còn người Mĩ dùng chữ “acculturation” có nghĩa là giao lưu văn hóa, tiếp (xúc) và biến (đổi) văn hóa. Cách dùng của người Mĩ được nhiều nhà nghiên cứu chấp nhận hơn cả. Giao lưu, tiếp biến văn hóa được các nhà khoa học Mĩ như R. Redified, R. Linton và M. Herskovits định nghĩa “là hiện tượng xảy ra khi những nhóm người có văn hóa khác nhau, tiếp xúc lâu dài và trực tiếp, gây ra sự biến đổi mô thức (pattern) văn hóa ban đầu của một hay cả hai nhóm”1.
Với định nghĩa trên, theo tác giả Trần Quốc Vượng, giao lưu, tiếp biến văn hóa là sự vận động thường xuyên của xã hội, gắn bó với tiến hóa xã hội nhưng cũng gắn bó với sự phát triển văn hóa, là sự vận động thường xuyên của văn hóa.
Giao lưu, tiếp biến văn hóa vừa chính là bản thân sự trao đổi, vừa là kết quả trao đổi. Bởi lẽ, con người sống thành cộng đồng và đã là con người thì ai cũng có những nhu cầu trong cuộc sống. Để đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu đó, họ đã chế tạo những công cụ sản xuất cần thiết. Trải qua năm tháng, sống trong những hoàn cảnh địa lý và lịch sử khác nhau, từng nhóm dân cư khác nhau đã tạo nên những nền văn hóa riêng biệt, in đậm dấu ấn của họ. Trên bước đường phát triển, nhu cầu kinh tế đã đẩy nhanh sự biến đổi xã hội. Những nét lạc hậu, lỗi thời sẽ dần mất đi, thay thế bằng những yếu tố văn minh, hiện đại. Ngoài hoạt động trao đổi về kinh tế, còn có những hoạt động trao đổi về văn hóa qua các mối quan hệ đa dạng trong xã hội2.
Giao lưu, tiếp biến văn hóa là sự tiếp nhận văn hóa nước ngoài bởi dân tộc chủ thể được thể hiện thông qua mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố nội sinh và ngoại sinh. Cũng theo tác giả Trần Quốc Vượng, hai yếu tố này luôn có khả năng chuyển hóa cho nhau và rất khó tách biệt trong một thực thể văn hóa. Có yếu tố ở giai đoạn này là yếu tố ngoại sinh nhưng đến giai đoạn sau, những tính chất của yếu tố ngoại sinh ấy không còn hoặc nhạt dần đến nỗi người ta tưởng rằng đó là yếu tố ngoại sinh. Hơn nữa, kết quả của sự tương tác giữa hai yếu tố này thường diễn ra theo hai trạng thái: một là yếu tố ngoại sinh lấn át, triệt tiêu yếu tố nội sinh; hai là có sự cộng hưởng lẫn nhau, yếu tố ngoại sinh dần dần trở thành yếu tố nội sinh hoặc bị phai nhạt căn tính của yếu tố ngoại sinh. Nhìn ở phương diện thái độ của tộc người chủ thể, sự tiếp nhận các yếu tố ngoại sinh cũng có hai dạng thể hiện: một là tự nguyện tiếp nhận; hai là cưỡng bức tiếp nhận. Mức độ của sự tiếp nhận trong giao lưu cũng khác nhau: có sự tiếp nhận đơn thuần khi nhìn ở ý nghĩa tương đối là phổ biến trong mọi người ở tộc người chủ thể; sự tiếp nhận có sáng tạo lại là sự tiếp nhận có sự kiểm soát của lý trí, có ba mức: (1) Không tiếp nhận toàn bộ mà chỉ chọn lọc lấy những giá trị thích hợp cho tộc người mình; (2) Tiếp nhận cả hệ thống nhưng đã có sự sắp xếp lại theo quan niệm giá trị của tộc người chủ thể; (3) Mô phỏng và biến thể một số thành tựu của văn hóa tộc người khác bởi tộc người chủ thể. Theo tác giả Trần Quốc Vượng, quan hệ biện chứng giữa yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại sinh đặt ra đòi hỏi với chính tộc người chủ thể là nội lực của chính nó hay nói cách khác là bản sắc và truyền thống văn hóa của tộc người tiếp nhận3.
Sự giao lưu, tiếp biến trong văn hóa Việt Nam được dựa trên nền tảng tạo ra những yếu tố nội sinh của văn hóa Việt Nam, đó là cơ tầng văn hóa Đông Nam Á. Vào thời tiền sử, vùng Đông Nam Á có ranh giới phía Bắc tới bờ sông Dương Tử (Trung Quốc), phía Nam đến tận quần đảo Nam Dương (Indonesia), phía Tây kéo đến tận biên giới bang Assam của Ấn Độ, phía Đông là cả một thế giới bán đảo và đảo nằm cạnh châu Đại Dương. Đó là một cơ tầng văn hóa riêng biệt, “phi Hoa, phi Ấn”4, nơi đại chủng Australoid sinh sống. Nền văn hóa đó được tác giả Phạm Đức Dương nhận định có bản sắc riêng, phát triển liên tục trong lịch sử, là phức thể văn hóa lúa nước với ba yếu tố: văn hóa núi, văn hóa biển và văn hóa đồng bằng, trong đó yếu tố đồng bằng có sau nhưng đóng vai trò chủ đạo. Cũng theo tác giả Phạm Đức Dương, Việt Nam là một Đông Nam Á thu nhỏ, có đủ ba yếu tố văn hóa núi, đồng bằng và biển, đa dân tộc nhưng người Việt đóng vai trò chủ thể và là một cộng đồng tộc người làm ruộng nước được hình thành trong quá trình khai phá vùng châu thổ sông Hồng5.
Trong lịch sử, Việt Nam có sự giao lưu, tiếp biến mạnh mẽ và lâu dài với văn hóa Trung Hoa. Quá trình giao lưu, tiếp biến ấy diễn ra cả hai trạng thái: cưỡng bức và tự nguyện.
Giao lưu, tiếp biến văn hóa cưỡng bức: xảy ra vào những giai đoạn lịch sử dân tộc ta bị đô hộ, xâm lược, từ thế kỷ I-X (thời kỳ Bắc thuộc bị nhà Hán đô hộ, thực hiện chính sách đồng hóa, tiêu diệt văn hóa của cư dân bản địa) và 1407-1427 (giai đoạn nhà Minh xâm lược và cai trị Đại Việt với chính sách được các nhà sử học đánh giá là tàn bạo nhất đối với văn hóa Đại Việt).
Giao lưu, tiếp biến văn hóa tự nguyện: Trong nền văn hóa Đông Sơn, nhiều di vật của văn hóa phương Bắc như tiền, dụng cụ sinh hoạt được tìm thấy là kết quả của sự trao đổi, thông thương giữa hai nước láng giềng. Thời kỳ độc lập tự chủ, các triều đại phong kiến Đại Việt đã mô phỏng mô hình Trung Hoa khi tiếp thu mô hình tổ chức xã hội của giai cấp phong kiến Trung Quốc về sở hữu ruộng đất, bóc lột địa tô và hệ tư tưởng Nho giáo.
Ngoài giao lưu, tiếp biến với văn hóa Trung Hoa, Việt Nam còn giao lưu, tiếp biến với văn hóa Ấn Độ. Ngay từ thiên niên kỷ đầu sau Công nguyên, ba nền văn hóa trên đất Việt Nam đều mang dấu ấn của văn hóa Ấn Độ:
(1) Văn hóa Việt ở Bắc Bộ tiếp nhận văn hóa Ấn Độ vừa trực tiếp, vừa gián tiếp. Đầu Công nguyên, các nhà sư Ấn Độ đi qua Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh), tìm đường lên phương Bắc; còn các nhà sư Trung Quốc đi tìm kinh, đi qua Luy Lâu sang Ấn Độ và coi đây là trạm dừng chân. Bởi vậy, Giao Châu trở thành trung tâm Phật giáo lớn ở Đông Nam Á. Người Việt tiếp nhận và tiếp biến đạo Phật vào cơ tầng văn hóa bản địa, làm cho Phật giáo mang tính chất dân tộc.
(2) Văn hóa Chăm Pa ở Trung Bộ chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ trong việc xây dựng vương quyền và tạo dựng các thành tố của nền văn hóa Chăm Pa.
(3) Văn hóa Óc Eo ở Nam Bộ được xây dựng trên cơ sở của nền nông nghiệp lúa nước của cư dân Môn-Khmer kết hợp với nghề biển cổ truyền của cư dân Nam Đảo. Các đạo sĩ Bà La Môn từ Ấn Độ đã tổ chức quốc gia nơi đây mô phỏng theo mô hình Ấn Độ.
Văn hóa Việt Nam còn giao lưu, tiếp biến với văn hóa phương Tây. Trong văn hóa Óc Eo, đã có nhiều di vật của cư dân La Mã cổ đại. Thế kỷ XVI, các linh mục phương Tây đã truyền giáo ở Hải Hậu (Nam Định), chúa Trịnh, vua Lê, chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn đều có quan hệ với phương Tây. Nhưng chỉ đến thế kỷ XIX, sự giao lưu, tiếp biến với phương Tây mới diễn ra mạnh mẽ trên cả hai phương diện: cưỡng bức và tự nguyện, “khiến người Việt Nam thay đổi cấu trúc lại nền văn hóa của mình, đi vào vòng quay của văn minh phương Tây giai đoạn công nghiệp”6. Diện mạo văn hóa Việt Nam thay đổi gắn với sự ra đời của chữ quốc ngữ, báo chí, xuất bản, máy in, nhà in, tiểu thuyết, thơ mới, cải lương, kịch nói, điện ảnh, nhiếp ảnh, hội họa…
Giai đoạn 1945-1986, văn hóa Việt Nam có sự giao lưu tiếp biến với văn hóa các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là văn hóa Nga-Xô viết. Phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa được tiếp nhận, đi cùng với văn nghệ phục vụ chính trị, phục vụ cách mạng.
Từ năm 1986 đến nay, gắn với cơ chế đổi mới, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, văn hóa Việt Nam có điều kiện giao lưu, tiếp biến với văn hóa thế giới. Sự giao lưu, tiếp biến này diễn ra đa chiều, hoàn toàn mang tính tự nguyện, chủ động, khiến cho văn hóa Việt Nam thu được nhiều kết quả khả quan từ kinh tế, xã hội đến khoa học công nghệ, văn hóa, thông tin…, song cũng phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn, phức tạp, đòi hỏi giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc mạnh mẽ.
Sự giao lưu và tiếp biến văn hóa đã không chỉ góp phần hình thành các giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam mà còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến các lĩnh vực nghệ thuật, trong đó có sân khấu. Nghệ thuật sân khấu Việt Nam, đặc biệt là loại hình chèo, đã tiếp thu nhiều yếu tố từ các nền văn hóa khác, từ Trung Hoa, Ấn Độ đến phương Tây, tạo nên sự phong phú và đa dạng cho văn hóa, nghệ thuật nước nhà. Trong bối cảnh lịch sử hiện đại, chèo không chỉ giữ vai trò như một hình thức giải trí mà còn là công cụ mạnh mẽ phản ánh tinh thần dân tộc và truyền tải thông điệp cách mạng. Chính vì vậy, để hiểu rõ hơn về sự biến đổi và đổi mới của sân khấu chèo, việc tìm hiểu lý thuyết và các nguyên lý cơ bản trong sân khấu học là rất cần thiết.
2. Lý thuyết sân khấu và tiếp biến văn hóa trong sân khấu chèo cách mạng
2.1. Lý thuyết, lý luận về sân khấu học
2.1.1. Sân khấu là một loại hình nghệ thuật tổng hợp
Trong các loại hình nghệ thuật, sân khấu là một loại hình nghệ thuật tổng hợp. Mỗi tác phẩm (vở diễn) là một tổng thể phối hợp của các phương tiện biểu hiện bằng ngôn ngữ như: văn học, mĩ thuật, âm nhạc, múa, điện ảnh, kỹ thuật âm thanh và ánh sáng; có các thành phần sáng tạo là tác giả, chuyển thể, đạo diễn và trung tâm là nghệ thuật biểu diễn của diễn viên với đặc trưng ngôn ngữ của sân khấu là hành động, cùng với sự tham gia trực tiếp của khán giả. Đây là không gian mà ở đó, câu chuyện, nhân vật, cảm xúc được tái hiện một cách sống động, thông qua ngôn ngữ cơ thể, giọng nói, ánh sáng, âm nhạc và các yếu tố sân khấu khác. Sân khấu không chỉ giới hạn ở kịch nói mà còn bao gồm cả opera, ballet, vũ kịch và các hình thức biểu diễn nghệ thuật khác. Sân khấu còn mang trong mình những nội dung phong phú, đa dạng về cuộc sống, từ triết học, mĩ học, sử học, dân tộc học, xã hội học đến chính trị, đạo đức, tôn giáo…
Một trong những dẫn chứng nổi bật của sân khấu là sự phát triển của nghệ thuật kịch nói Shakespeare, nơi mà ngôn ngữ, cốt truyện và nhân vật được kết hợp một cách tinh tế, tạo nên những tác phẩm vĩ đại như Hamlet, Othello, Romeo và Juliet. Shakespeare không chỉ làm giàu cho kho tàng nghệ thuật sân khấu mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến cách thể hiện và phát triển nhân vật trên sân khấu. Một dẫn chứng khác là sự phát triển của nghệ thuật Kabuki ở Nhật Bản, một hình thức biểu diễn truyền thống với trang phục lộng lẫy, diễn xuất quá đà và kịch bản phong phú. Kabuki không chỉ là sự biểu diễn nghệ thuật mà còn là cách để truyền đạt các giá trị văn hóa và xã hội Nhật Bản qua nhiều thế kỷ.
Những dẫn chứng trên cho thấy sân khấu là một phương tiện mạnh mẽ trong việc truyền bá văn hóa, giáo dục và giải trí, phản ánh đa dạng văn hóa thế giới qua từng thời kỳ. Sân khấu không chỉ là nơi thể hiện nghệ thuật mà còn là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa truyền thống và đổi mới, góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần của con người.
Ở Việt Nam, chèo là một hình thức sân khấu dân gian truyền thống, phản ánh đời sống, tập quán, quan niệm về đạo đức và văn hóa của người Việt. Chèo mang tính tổng hợp khi kết hợp hát, múa, kể chuyện và diễn xuất, thể hiện sâu sắc tinh thần dân gian, qua đó giáo dục, giải trí và truyền bá giá trị văn hóa.
Trong nghệ thuật sân khấu, tác giả văn học và kịch bản văn học đóng vai trò đầu tiên, quan trọng nhất. Vì không có kịch bản thì sân khấu không có gì để diễn và không có tác giả thì không có kịch bản nào được ra đời. Kịch bản văn học giữ vai trò nguyên liệu cho nghệ thuật sân khấu và là cơ sở cho sự phát triển của loại hình. Trong lịch sử sân khấu thế giới, tác giả bao giờ cũng là người mở đường cách tân nghệ thuật sân khấu bằng những sáng tác của mình, nhờ đó sân khấu đổi mới và phát triển.
Nghệ thuật sân khấu không thể thiếu diễn viên. Ở trên sân khấu, người diễn viên vừa là họ vừa không phải là họ. Vì nghệ sĩ có cuộc sống, tính cách và tên tuổi khác. Người nghệ sĩ lên sân khấu không phải diễn về mình mà để sáng tạo hình tượng nghệ thuật, còn nhân vật sống trên sân khấu qua tài năng biểu diễn của nghệ sĩ. Họ là “tác giả của nhân vật”, là “ông hoàng, bà chúa của nghệ thuật sân khấu”7.
Sân khấu không thể thiếu khán giả. “Khán giả là một trong những bộ phận cấu thành và có tính quyết định sự tồn tại, phát triển nghệ thuật sân khấu. Khán giả vừa là đối tượng khách thể để phản ánh vừa là đối tượng chủ thể hưởng thụ, đánh giá, sáng tạo nghệ thuật”8.
Đạo diễn - thành phần sáng tạo thứ tư đã xuất hiện ở nghệ thuật sân khấu từ lâu, là tác giả của vở diễn sân khấu. “Đạo diễn là người xây dựng hình tượng nghệ thuật từ những dòng chữ trên trang giấy của nhà văn thành những người sống động, chân thực, có da, có thịt, có số phận trên sân khấu; là người tổ chức phối hợp các loại hình nghệ thuật, các thành viên sáng tạo vào một hướng cụ thể; là người chỉ đạo diễn xuất cho từng diễn viên để thành những hình tượng độc đáo”9.
Như vậy, nghệ thuật sân khấu có sự kết hợp của nhiều thành phần. Những thành phần đó tạo nên tính tổng hợp của nghệ thuật sân khấu.
2.1.2. Thể tài sân khấu
“Thể tài là hình tượng nghệ thuật do nghệ sĩ sáng tạo trên cơ sở mối quan hệ thẩm mĩ của nghệ sĩ đối với hiện thực”10.
Khi khám phá sự phong phú của nghệ thuật sân khấu phương Tây, người ta thường bị cuốn hút bởi ba thể tài chính mà nó mang lại: bi kịch, hài kịch và chính kịch.
Bi kịch có nguồn gốc từ phần lễ trong lễ hội thần Dionysos của Hy Lạp cổ đại. Đối tượng chính của bi kịch là những người tốt, những người cao quý thuộc tầng lớp trên trong xã hội. Số phận của nhân vật bi kịch đi từ hạnh phúc đến bất hạnh và nguồn gốc của bất hạnh từ lỗi lầm do vô ý thức hoặc không hiểu, không biết gây ra. Để đạt được bi kịch chân chính, nghệ sĩ phải tạo cho khán giả sự xót thương đạt đến mức độ khủng khiếp trong tâm lý, tình cảm và nhân vật phải dẫn đến cái chết. Mục đích của bi kịch là nhằm tẩy rửa tâm hồn khán giả, giúp khán giả nhận thức nguồn gốc của bất hạnh và có tinh thần vượt lên bi kịch của chính mình. Sân khấu thế giới đã trải qua các hình thức bi kịch Hy Lạp cổ đại, bi kịch Phục Hưng (XV-XVI), bi kịch cổ điển (XVII), bi kịch ánh sáng (XVIII), bi kịch lãng mạn (XIX), bi kịch cách mạng với quan điểm Marxist, mang tinh thần đấu tranh cách mạng (XX).
Hài kịch có nguồn gốc từ phần hội trong lễ hội thần Dionysos của Hy Lạp cổ đại. Đối tượng chính của hài kịch là những người xấu khác thường, phản ánh mâu thuẫn bất hòa giữa các mặt đối lập, trái ngược nhau về giá trị. Số phận của nhân vật hài kịch đi từ tốt đến xấu, từ hạnh phúc đến bất hạnh và bất hạnh của hài kịch thường gây ra tiếng cười vui vẻ và có hậu. Mục đích của hài kịch là nhằm thanh lọc tâm hồn con người và dùng tiếng cười của khán giả mang ý nghĩa xã hội, ý nghĩa thẩm mĩ để phê phán những cái xấu xa, thấp hèn.
Chính kịch có nguồn gốc từ nước Pháp vào thế kỷ XVIII và Diderot (1713-1784) là cha đẻ của chính kịch và được Victor Hugo phát triển cho các thế hệ sau hoàn thiện. Đối tượng của chính kịch là những người bình thường thuộc tầng lớp thứ ba trong xã hội qua các mối quan hệ đời thường. Bởi vậy, các nghệ sĩ không hướng tới khắc họa số phận nhân vật từ hạnh phúc đến bất hạnh hoặc ngược lại như thể tài bi kịch và hài kịch, mà chủ yếu là những tính cách chân thực trong đời thực; quan tâm tới cảm xúc chân thật và hướng khán giả quan tâm đến không chỉ là những sự kiện, tình huống bên ngoài mà còn cả tâm hồn, tình cảm bên trong của nhân vật. Chính kịch là thể tài tự do, không tuân theo nguyên tắc lý luận như bi kịch và hài kịch, nên có nhiều khuynh hướng khác nhau như: chính kịch tâm lý, chính kịch luận đề, chính kịch anh hùng ca, chính kịch sinh hoạt tả thực, chính kịch phê phán… Trong khi đó, ở sân khấu phương Đông, với sự phát triển của sân khấu kịch hát, thể tài được thể hiện dưới dạng các thể loại sân khấu khác nhau như: noh, kabuki (Nhật Bản); Kinh kịch, Việt kịch, Bình kịch (Trung Quốc); tuồng, chèo, cải lương, kịch nói, kịch dân ca, múa rối (Việt Nam). Ở sân khấu kịch hát có tổng hợp ca, múa, nhạc, kịch…
Mỗi thể tài này đều có vị trí riêng biệt trong nghệ thuật sân khấu, phản ánh đa dạng về cảm xúc và trải nghiệm con người, từ niềm vui, sự hài hước cho đến nỗi buồn, sự suy tư và đấu tranh nội tâm.
2.1.3. Các hình thức kết cấu xung đột
Sân khấu thế giới có một số hình thức kết cấu xung đột sau:
(1) Hình thức kết cấu xung đột theo Aristotle. Aristotle (384-322 TCN) là cha đẻ của lý luận kịch phương Tây, trong tác phẩm Nghệ thuật thi ca đã đúc kết nguyên lý cơ bản của nghệ thuật kịch thế giới theo 7 bước: mở màn (là nghệ thuật sáng tạo của nghệ sĩ nhằm lôi kéo khán giả từ tư duy đời thường chuyển sang tư duy hình tượng nghệ thuật và cảm thụ nghệ thuật”11; giao đãi (giới thiệu lý lịch, các mối quan hệ của nhân vật, không gian, thời gian, mục đích, vấn đề của kịch); thắt nút (bắt đầu vào xung đột kịch với những va chạm mâu thuẫn giữa các nhân vật); phát triển (xung đột chuyển hóa theo chiều phức tạp hơn, tác động mạnh vào tư duy, tình cảm của khán giả); cao trào (xung đột đẩy đến mức cao nhất, dẫn đến quyết định thắng thua cuối cùng của mỗi bên); đóng màn (công đoạn cuối cùng của nghệ sĩ sáng tạo, nhằm tác động vào tâm giác của khán giả).
(2) Hình thức kết cấu xung đột tự sự, gồm tự sự phương Tây, tự sự phương Đông, tự sự Bertolt Brecht.
Tự sự phương Tây “là hình thức được chứa đựng cả hai hành động của người kể chuyện và người được kể chuyện trong câu chuyện kể. Câu chuyện thuộc về thời gian quá khứ, thuộc về cái đã xảy ra, còn hành động của người kể và người được kể lại được hiện tại hóa như đang xảy ra trước mắt khán giả”12. Ở đây, hành động của nghệ sĩ và hành động của nhân vật có lúc hoà nhập vào nhau, hòa cảm với khán giả, tạo thành tính chân thực trong cảm thụ của khán giả.
Tự sự phương Đông là lối kể chuyện sân khấu của các nghệ sĩ phương Đông trên cơ sở của tư duy văn hóa nông nghiệp với câu chuyện kể thuộc về quá khứ, được diễn ra theo trình tự thời gian từ đầu cho đến cuối trong nhiều không gian, thời gian khác nhau; cốt truyện được cấu trúc trên cơ sở số phận của một nhân vật chính trải qua nhiều sự kiện trọng đại với tinh thần triết lý: “ở hiền gặp lành”, “nhân nào quả ấy”, tạo nên tính khuyến giáo cao; nghệ thuật biểu diễn mang tính ước lệ, cách điệu, tượng trưng cao; các hình tượng nhân vật theo mô hình (lão, mụ, đào, kép, hề).
Tự sự Bertolt Brecht do Bertolt Brecht (1898-1956) - một nghệ sĩ, đạo diễn cách tân sân khấu của nước Đức đầu thế kỷ XX khai sinh ra. Nó còn được gọi là phương pháp tự sự biện chứng gián cách. Trong đó, tự sự trong kịch của B. Brecht là câu chuyện đã xảy ra, đã thuộc về thời gian quá khứ và được kể lại bằng sân khấu, chứ không phải dưới dạng đang xảy ra ở thời gian hiện tại trước mắt khán giả. Biện chứng trong kịch B. Brecht là cách trình bày, lý giải cuộc sống một cách khách quan và đòi hỏi người nghệ sĩ phải phản ánh thế giới như một cái gì có thể biến đổi. Gián cách là những gì không cố làm ra vẻ như thực, những gì được xử lý với tính sân khấu rõ ràng, như thủ pháp khoa trương, cách điệu... nhằm ngăn cản hòa cảm để người xem tránh những xúc động tự nhiên, mà dùng tư duy lý trí để cảm nhận tác phẩm và thông điệp của tác phẩm mà nghệ sĩ muốn truyền tải đến.
Tự sự chèo Việt Nam là kể lại một câu chuyện đã xảy ra, được diễn biến tuần tự qua các sự kiện trong một thời gian dài, nhiều khi bằng cả một đời người. Kể lại của tự sự chèo là nghệ thuật biểu diễn của nghệ sĩ. Tự sự của chèo được kết cấu theo tích và trò. Tích là câu chuyện có sẵn ở trong các truyện cổ tích, dân gian, dã sử mà ai ai cũng biết; còn trò là phần biểu diễn, sáng tạo của nghệ sĩ trên sân khấu kể về tích đó, diễn lại tích đó bằng biểu diễn sân khấu. Tự sự của chèo không thể thiếu vai trò của khán giả. Khán giả của chèo không chỉ là thành phần xem mà còn là một bộ phận diễn, hát, giao lưu, đối đáp, khen thưởng, hòa đồng với các nghệ sĩ trên sân khấu. Kết cấu tự sự của chèo theo hình thức mở, ngẫu hứng và không gian, thời gian ước lệ trong không khí hội hè của làng quê Việt Nam13.
2.2. Sự tiếp biến văn hóa trong nghệ thuật sân khấu chèo cách mạng
2.2.1. Lý luận chèo cách mạng
Chèo cách mạng là hình thức chèo được kế thừa, biến đổi từ chèo cổ, sau đó là chèo văn minh và chèo cải lương, được sinh ra, tồn tại, phát triển trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam. Theo tác giả Trần Trí Trắc, chèo cách mạng ra đời ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nhưng các nhà nghiên cứu thường lấy mốc năm 1951 - thời điểm Tổ Chèo, trực thuộc Đoàn Văn công Nhân dân Trung ương ra đời và cho tới năm 1985 (trước Đổi mới). Tuy nhiên, cho đến nay, chèo cách mạng vẫn tiếp tục được duy trì14.
Chèo cách mạng có những đặc điểm sau15:

Với những đặc điểm trên, tác giả Trần Trí Trắc đã đưa ra cái nhìn sâu sắc về vai trò, ý nghĩa của nghệ thuật sân khấu chèo trong bối cảnh lịch sử mới của Việt Nam, đặc biệt là trong quá trình cách mạng và đổi mới đất nước. Ông nhấn mạnh rằng, chèo không chỉ là một thể loại nghệ thuật truyền thống mà còn là một phương tiện mạnh mẽ để truyền bá ý thức xã hội, bản sắc văn hóa và tinh thần dân tộc16.
2.2.2. Quá trình tiếp biến văn hóa trong chèo cách mạng
Chèo cách mạng được hình thành từ nền tảng của chèo cổ truyền thống nhưng đã trải qua những thay đổi đáng kể để phù hợp với bối cảnh lịch sử và yêu cầu của xã hội trong thời kỳ cách mạng. Quá trình này thể hiện sự tiếp biến văn hóa sâu sắc, khi chèo cách mạng tiếp thu các yếu tố từ chèo cổ, chèo văn minh và chèo cải lương. Qua đó, chèo cách mạng không chỉ giữ được tính chất nghệ thuật truyền thống mà còn mang hơi thở của thời đại, phản ánh tinh thần yêu nước và ý chí đấu tranh của dân tộc Việt Nam.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chèo cách mạng dần hình thành và được Nhà nước khuyến khích phát triển nhằm phục vụ mục tiêu chính trị và xã hội. Quá trình tiếp biến này không chỉ dừng lại ở việc kế thừa các yếu tố hình thức như lối hát, múa mà còn bao gồm việc sáng tạo các đề tài mới. Các tác phẩm chèo cách mạng thường tập trung vào chủ đề xây dựng con người mới, thể hiện cuộc sống và lý tưởng của người dân trong thời kỳ chiến tranh và kiến thiết đất nước.
Chèo cách mạng đã tiếp thu chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa từ văn hóa Nga - Xô viết, qua đó xây dựng các nhân vật mang tính giáo dục cao và thể hiện rõ ý thức cách mạng. Các nghệ sĩ đã tìm cách thể hiện tính cách và số phận của con người trong bối cảnh chiến tranh và hòa bình, từ đó truyền tải thông điệp về sự kiên cường và tinh thần đoàn kết dân tộc.
2.2.3. Ảnh hưởng của văn hóa phương Tây và Xô viết trong chèo cách mạng
Trong quá trình tiếp biến văn hóa, chèo cách mạng chịu ảnh hưởng đáng kể từ văn hóa phương Tây, đặc biệt là từ các phong trào nghệ thuật hiện đại và chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa của Xô viết. Những ảnh hưởng này không chỉ giúp chèo cách mạng trở nên gần gũi hơn với công chúng đương thời mà còn thúc đẩy nghệ thuật chèo phát triển theo hướng phản ánh chân thực và sâu sắc những vấn đề của xã hội và con người trong thời kỳ cách mạng.
Sự tiếp thu chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa đã giúp chèo cách mạng định hình phong cách sáng tạo mới, nhấn mạnh vào việc miêu tả hiện thực xã hội một cách chân thật và sống động. Các tác phẩm chèo thời kỳ này thường xây dựng hình tượng những nhân vật có lý tưởng cách mạng, chịu nhiều thử thách và đấu tranh vì sự nghiệp chung. Đây là yếu tố văn hóa Xô viết có sức ảnh hưởng sâu rộng, giúp chèo cách mạng không chỉ trở thành công cụ giải trí mà còn là phương tiện tuyên truyền mạnh mẽ về ý thức chính trị và trách nhiệm xã hội.
Bên cạnh đó, chèo cách mạng còn tiếp thu các yếu tố từ nghệ thuật sân khấu phương Tây, đặc biệt là vai trò quan trọng của đạo diễn trong việc xây dựng và chuyển tải thông điệp của vở diễn. Theo mô hình của hệ thống Stanislavski từ Xô viết, nghệ thuật biểu diễn được chú trọng nâng cao tính chân thực và khoa học, giúp khắc họa tâm lý nhân vật sâu sắc và tạo nên những tác phẩm có sức lay động mạnh mẽ đối với người xem.
Như vậy, sự ảnh hưởng của văn hóa phương Tây và Xô viết đã mang đến cho chèo cách mạng một diện mạo mới, vừa kế thừa được tinh hoa nghệ thuật truyền thống vừa thích ứng với bối cảnh cách mạng, tạo nên một loại hình nghệ thuật giàu sức biểu cảm và mang đậm ý nghĩa xã hội.
2.2.4. Tiếp biến trong hình thức nghệ thuật và biểu diễn
Trong quá trình phát triển, chèo cách mạng đã tiếp biến từ hình thức nghệ thuật truyền thống để tạo ra phong cách biểu diễn mới, đáp ứng nhu cầu văn hóa của thời kỳ cách mạng. Sự thay đổi này không chỉ nhằm giữ gìn bản sắc chèo cổ mà còn để làm cho chèo trở nên gần gũi, lôi cuốn khán giả đương thời, truyền tải thông điệp cách mạng rõ ràng và mạnh mẽ.
Trước tiên, chèo cách mạng vẫn giữ nguyên cấu trúc của chèo cổ với các yếu tố ca, múa, nhạc và kịch, nhưng đã có sự cách tân về mặt biểu diễn để tăng tính chân thực và sống động. Những yếu tố cách điệu, ước lệ của chèo truyền thống được giữ lại và điều chỉnh sao cho phù hợp với mục tiêu phục vụ cách mạng, từ đó giúp khắc họa rõ nét hình ảnh con người và hiện thực xã hội mới. Chẳng hạn, trong các vở diễn, lối kể chuyện và biểu đạt cảm xúc nhân vật được điều chỉnh gần gũi hơn với đời thực, giúp khán giả cảm nhận được tính cách và tâm tư của nhân vật cách mạng.
Phương pháp dàn dựng cũng có sự chuyển hóa khi chèo cách mạng tiếp thu phong cách sân khấu hiện đại, đặc biệt là phương pháp của Stanislavski, nhằm tăng cường tính chân thực và tính khoa học trong biểu diễn. Vai trò của đạo diễn trong chèo cách mạng trở nên quan trọng hơn, giúp kết nối chặt chẽ giữa nội dung và hình thức biểu diễn, từ đó nâng cao hiệu quả truyền tải thông điệp chính trị và xã hội.
Ngoài ra, chèo cách mạng đã bổ sung các làn điệu và nhạc đệm mới nhằm tăng sức biểu cảm và phù hợp với đề tài cách mạng. Âm nhạc trong chèo cách mạng vừa mang nét dân tộc vừa có sự biến đổi linh hoạt, giúp tạo nên bầu không khí vừa thân thuộc vừa thúc giục người nghe, khơi dậy tinh thần yêu nước và ý chí cách mạng.
Như vậy, quá trình tiếp biến trong hình thức nghệ thuật và biểu diễn của chèo cách mạng không chỉ giữ gìn giá trị của nghệ thuật chèo cổ mà còn mang đến hơi thở mới, làm cho chèo trở thành một phương tiện mạnh mẽ để giáo dục và tuyên truyền trong thời kỳ cách mạng.
2.2.5. Chuyển hóa chủ đề và nhân vật trong chèo cách mạng
Trong quá trình phát triển và tiếp biến văn hóa, chèo cách mạng đã có những thay đổi đáng kể về chủ đề và nhân vật để phù hợp với bối cảnh xã hội và lý tưởng của thời kỳ cách mạng. Thay vì chỉ tái hiện các câu chuyện dân gian hay các mối quan hệ gia đình, chèo cách mạng đã mở rộng chủ đề, hướng tới các vấn đề xã hội, tinh thần đấu tranh và trách nhiệm công dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Các chủ đề trong chèo cách mạng thường xoay quanh cuộc sống và lý tưởng của con người trong thời kỳ kháng chiến và hòa bình. Những câu chuyện về tinh thần đoàn kết, lòng yêu nước và ý chí kiên cường trở thành điểm nhấn chính, khắc họa rõ nét hình ảnh người dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc. Nhờ đó, chèo cách mạng không chỉ làm phong phú thêm về mặt nội dung mà còn tạo nên sự gắn kết mạnh mẽ với khán giả, khi họ nhìn thấy chính mình trong các nhân vật và tình huống trên sân khấu.
Hình tượng nhân vật trong chèo cách mạng cũng có sự chuyển hóa sâu sắc. Nếu như trong chèo cổ, nhân vật thường mang tính biểu tượng hoặc rập khuôn với các hình mẫu dân gian, thì trong chèo cách mạng, nhân vật được xây dựng đa chiều, gần gũi và phản ánh chân thực hơn đời sống xã hội. Các nhân vật chính thường là những con người có tinh thần yêu nước, ý chí vươn lên và sẵn sàng hi sinh vì lợi ích chung, điển hình là hình ảnh người lính, người nông dân và người công nhân. Các nhân vật này không chỉ có lý tưởng mà còn mang trong mình những nỗi lo âu, hi vọng và quyết tâm vượt qua khó khăn, phản ánh được tính cách và phẩm chất của con người mới trong thời kỳ cách mạng.
Sự chuyển hóa về chủ đề và nhân vật giúp chèo cách mạng trở thành một kênh truyền tải thông điệp xã hội mạnh mẽ, thúc đẩy ý thức về trách nhiệm công dân và tinh thần dân tộc. Qua mỗi vở chèo, khán giả không chỉ được giải trí mà còn được giáo dục về lòng yêu nước, trách nhiệm xã hội và tinh thần đoàn kết, từ đó tạo nên mối liên hệ sâu sắc giữa nghệ thuật chèo và đời sống cộng đồng trong thời kỳ cách mạng.
Tóm lại, chèo cách mạng là minh chứng tiêu biểu cho quá trình tiếp biến và đổi mới nghệ thuật sân khấu truyền thống trong bối cảnh lịch sử đặc biệt của Việt Nam. Từ việc kế thừa nghệ thuật chèo cổ, chèo cách mạng đã mở rộng về cả hình thức và nội dung, hòa quyện với các yếu tố văn hóa phương Tây và Xô viết, để tạo nên một loại hình nghệ thuật mang đậm tinh thần dân tộc và ý thức xã hội. Chèo cách mạng không chỉ phản ánh ý chí và khát vọng của con người Việt Nam trong giai đoạn kháng chiến và xây dựng đất nước mà còn để lại di sản văn hóa quý giá cho nghệ thuật chèo đương đại. Qua đó, chèo cách mạng đã góp phần khẳng định giá trị của nghệ thuật sân khấu Việt Nam, vừa tôn vinh truyền thống dân tộc vừa thích ứng sáng tạo với yêu cầu của thời đại mới.
3. Kết luận
Chèo cách mạng là một minh chứng tiêu biểu cho sức sống mãnh liệt và khả năng thích nghi của nghệ thuật sân khấu Việt Nam trước những biến động lịch sử và xã hội. Trong quá trình hình thành và phát triển, chèo cách mạng không chỉ kế thừa giá trị nghệ thuật từ chèo cổ mà còn hòa quyện với những ảnh hưởng từ văn hóa phương Tây và đặc biệt là văn hóa Xô viết. Sự giao thoa văn hóa này đã mang đến một diện mạo mới cho chèo, giúp loại hình nghệ thuật truyền thống này vượt qua khuôn khổ cũ, trở thành công cụ mạnh mẽ để truyền bá tư tưởng cách mạng và nâng cao ý thức công dân.
Chèo cách mạng phản ánh một giai đoạn lịch sử mà trong đó nghệ thuật không chỉ có nhiệm vụ giải trí mà còn mang sứ mệnh giáo dục, cổ vũ tinh thần yêu nước và trách nhiệm xã hội. Thông qua các vở diễn, chèo cách mạng đã khắc họa sâu sắc hình ảnh con người Việt Nam trong thời kỳ cách mạng: kiên cường, trách nhiệm và luôn khao khát cống hiến cho đất nước. Những nhân vật trong chèo cách mạng được xây dựng không chỉ là biểu tượng của lòng yêu nước mà còn thể hiện sự chuyển hóa trong tư duy và lý tưởng, khi con người dần hướng tới một cuộc sống gắn bó với cộng đồng, với lý tưởng chung.
Bên cạnh đó, chèo cách mạng còn tiếp thu phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa từ Xô viết, giúp nghệ thuật chèo trở nên chân thực, sống động và phù hợp với yêu cầu của thời đại. Phương pháp này giúp các nghệ sĩ không ngừng sáng tạo, làm mới hình thức biểu diễn, tăng tính khoa học và chiều sâu trong biểu đạt nhân vật. Sự hòa trộn giữa các yếu tố dân tộc và quốc tế đã tạo nên sự phong phú cho chèo cách mạng, từ cách kể chuyện, dàn dựng sân khấu đến việc xây dựng hình tượng nhân vật. Chèo cách mạng đã thành công trong việc truyền tải những giá trị văn hóa và tư tưởng cách mạng đến người dân, trở thành di sản văn hóa quan trọng cho nghệ thuật sân khấu Việt Nam. Nó không chỉ bảo tồn được bản sắc dân tộc mà còn mở ra hướng đi mới cho nghệ thuật chèo trong thời kỳ hiện đại. Nhờ đó, chèo cách mạng đã khẳng định được vị thế của mình trong nền nghệ thuật sân khấu Việt Nam, để lại dấu ấn sâu sắc và tiếp tục truyền cảm hứng cho các thế hệ nghệ sĩ và công chúng yêu nghệ thuật.
Chèo cách mạng là một biểu tượng của sự đổi mới và tiếp biến văn hóa trong sân khấu Việt Nam, góp phần bảo tồn và phát triển di sản văn hóa, nghệ thuật của dân tộc. Sự gắn kết giữa truyền thống và hiện đại trong chèo cách mạng không chỉ mang lại giá trị nghệ thuật to lớn mà còn là nguồn sức mạnh tinh thần, khơi dậy niềm tự hào dân tộc và truyền tải những thông điệp ý nghĩa cho đời sống xã hội đương đại.
Tài liệu tham khảo:
1. Hà Văn Cầu (1964), Quá trình hình thành và phát triển của nghệ thuật chèo, Ban nghiên cứu chèo.
2. Vũ Khắc Khoan (1974), Tìm hiểu sân khấu chèo, NXB Lửa Thiêng.
3. Tất Thắng (1994), Di sản sân khấu và đạo đức truyền thống, NXB Sân khấu.
4. Trần Trí Trắc (2020), Chèo cách mạng, NXB Sân khấu.
5. Trần Quốc Vượng (Chủ biên, 2004), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục.
Chú thích:
1 Trần Quốc Vượng (2006), Môi trường con người và văn hóa, NXB Văn hóa thông tin và Viện Văn hóa.
2, 3, 4, 5, 6 Trần Quốc Vượng (2006), Môi trường con người và văn hóa, NXB Văn hóa thông tin và Viện Văn hóa, tr. 50-51, 51-52, 53, 54-55, 61.
7, 8, 9, 10, 11 Trần Trí Trắc (2009), Đại cương nghệ thuật sân khấu, NXB Đại học Quốc gia, tr. 20, 21, 24, 74, 54.
12, 13, 15 Trần Thị Minh Thu (2023), “Sự biến đổi và sức sống của nghệ thuật Chèo – từ quá khứ đến hiện tại”, Tham luận tại Hội thảo khoa học quốc tế Bảo vệ và phát huy giá trị di sản nghệ thuật trình diễn dân gian và nghệ thuật Chèo trong xã hội đương đại do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Bình phối hợp với Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức ngày 21-22/11/2023 tại Thái Bình, tr. 60, 70-71.
14, 16 Trần Trí Trắc (2009), Đại cương nghệ thuật sân khấu, NXB Đại học Quốc gia.