1. Cuộc cách mạng làm thay đổi con mắt nhìn thế giới
Chúng ta đang được thụ hưởng rất nhiều thành quả khoa học công nghệ của thế giới: điện năng, internet, điện thoại, máy tính, ô tô, tàu cao tốc, máy bay... Hãy thử tưởng tượng cuộc sống sẽ ra sao nếu không có điện, không có các hệ thống giao thông hiện đại hay hàng hóa sản xuất hàng loạt để đáp ứng nhu cầu ngày càng phát triển của đời sống tiêu dùng? Nếu điều này vẫn còn tồn tại thì có thể hiểu đấy hẳn là một đời sống đơn giản và đóng kín trong từng khu vực. Ở đó, mọi người làm việc như những người nông dân trên cánh đồng và cuối ngày luôn bằng lòng vì đã kiếm được hầu hết những gì cần thiết cho sự sinh tồn vốn không có quá nhiều nhu cầu. Tương đương với đời sống như vậy, cái nhìn về thế giới của hầu hết mọi người cũng đơn giản và nhỏ hẹp rất nhiều so với những gì ngày hôm nay chúng ta thấy được.
Giờ đây, chúng ta đang sống trong một thế giới lớn hơn cái nhìn xưa cũ, nơi mà một cú nhấp chuột hay thao tác bấm phím trên điện thoại thông minh là ngay lập tức có thể thấy cuộc sống đang diễn ra sống động như thế nào ở phía bên kia hành tinh. Một câu hỏi được đặt ra: Làm thế nào chúng ta có các thông tin gồm cả hình ảnh cho đến nhiều nội dung chính xác, nhanh và tiện lợi vô cùng như vậy đến từ phía bên kia địa cầu? Các cuộc cách mạng công nghiệp là một câu trả lời cho phần lớn những sự thay đổi kỳ diệu đó.
Thời đại công nghiệp khởi điểm ở châu Âu bắt đầu từ nửa cuối của thế kỷ XVIII, khi xã hội phương Tây dần chuyển từ nông nghiệp (chủ yếu tập trung vào canh tác và lao động thủ công trên ruộng đất) sang công nghiệp (tập trung sử dụng máy móc để sản xuất hàng hóa). Klaus Schwab (người sáng lập Diễn đàn Kinh tế thế giới) đã chia thời đại công nghiệp ra làm 4 cuộc cách mạng:
- Cuộc cách mạng công nghiệp lần 1 (1784): thời kỳ động cơ hơi nước và sự phát triển của máy móc công nghiệp theo cơ chế cơ học.
- Cuộc cách mạng công nghiệp lần 2 (1870): thời kỳ động cơ điện và quy trình sản xuất hàng loạt chuyên môn hóa.
- Cuộc cách mạng công nghiệp lần 3 (1969): thời kỳ điện tử, công nghệ tin học, quy trình sản xuất tự động hóa, robot tham gia vào quy trình sản xuất.
- Cuộc cách mạng công nghiệp lần 4: thời kỳ thông tin kết nối bằng các dữ liệu đám mây và mạng thực - ảo toàn cầu, số hóa các thông tin thực, sử dụng robot và máy tính thông minh trong đời sống và sản xuất.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 được đưa ra công luận dưới một thuật ngữ mới là “Công nghiệp 4.0” (Industrie 4.0) trong một báo cáo của Chính phủ Đức năm 2013 nhằm đề cập chiến lược công nghệ cao, điện toán tự động hóa ngành sản xuất không cần đến sự tham gia của con người (phương án các nhà máy thông minh). Cụm từ này tiếp tục được nhắc lại tại Diễn đàn Kinh tế thế giới ở Davos tháng 1/2015 bởi Thủ tướng Đức Angela Merkel.
Có thể nói thời kỳ cách mạng công nghiệp đặc biệt này đánh dấu sự bùng nổ về thiết kế trên mọi phương diện, nhất là ở những quốc gia từng trải qua cả ba cuộc cách mạng kinh tế trước đó. Tiến trình phát triển xã hội dựa trên sự kế thừa thành tựu kinh tế khoa học kỹ thuật đã tạo ra nền tảng văn hóa mới, tác động mạnh mẽ vào tư tưởng và lối sống hiện đại của con người. Giờ đây, chúng ta có thể hiểu thiết kế không chỉ là sáng tạo hay ý tưởng có trước của một cá nhân mà nó có nghĩa là một hoạt động bao gồm ba mặt: nghệ thuật - công nghệ - kinh tế. Hoạt động này có ý nghĩa đưa sáng tạo vào quy trình sản xuất như thế nào để phù hợp cho thị trường tiêu dùng. Những tổ hợp design bao gồm ít nhất ba thành phần: nhà kinh tế, kỹ sư công nghệ và họa sĩ thiết kế. Đây là điểm mấu chốt để hiểu được tại sao từ design được dùng nguyên gốc không dịch nghĩa ở nhiều ngôn ngữ khác nhau và cũng là lý do để hiểu các thiết kế ở những nước có nền kinh tế phát triển toàn diện luôn là những sáng tạo đi đầu hoặc mang tính chất định hướng. Cho tới nay, điều này vẫn đúng trong cả 5 ngành lớn của design: kiến trúc, nội thất, thiết kế truyền thông đa phương tiện, tạo dáng công nghiệp, thời trang.
Tương ứng với nền sản xuất thông minh, các nhà thiết kế hàng đầu có thể sáng tạo những sản phẩm làm thay đổi quan niệm của chúng ta về thế giới. Để cụ thể hóa sự vĩ mô, Steve Job đưa ý tưởng đặt cả thế giới vào lòng bàn tay trong chiếc điện thoại được điều khiển chỉ bằng một ngón tay. Ngược lại, với khám phá thú vị từ việc quan sát cuộc tử chiến giữa một con nhện và một con thạch sùng, vào năm 2004, Tiến sĩ Kella Autumn (Lewis & Clark College, Mĩ) cùng cộng sự đã giải mã được bài toán hiểm hóc về chất dính không keo ứng dụng từ nghiên cứu cấu trúc nano dưới lòng bàn chân con thạch sùng (kẻ chiến thắng vì có độ bám vững vàng, chắc khỏe). Việc thâu tóm cả thế giới vào lòng bàn tay hoặc nghiên cứu cơ chế bám dính nano siêu nhỏ ở bàn chân thạch sùng cho thấy vật chất khi bị thu nhỏ hoặc phóng to đến vài tỉ lần sẽ lộ diện những đặc tính hay hiệu ứng mà trước đó chưa từng được khám phá. Trường nhận thức của chúng ta đang được các thành tựu khoa học mở ra theo cả chiều rộng và chiều sâu đúng với nghĩa đen của nó. Các nhà thiết kế hiện đại luôn là lớp người tiếp nhận những ảnh hưởng mới mẻ này sớm nhất và tương tác lại xã hội bằng cách phát triển những xu hướng, tư tưởng thiết kế xứng đáng đại diện cho một thế giới mới.
2. Sơ qua thực trạng thiết kế Việt Nam trước thời kỳ công nghệ 4.0
Cho đến nửa cuối thế kỷ XIX, Việt Nam hầu như chỉ tồn tại những thiết kế theo phong cách truyền thống (chủ yếu là nhà tranh hoặc gỗ, phương tiện đi lại thô sơ, đồ tiêu dùng mĩ nghệ, thủ công từ các làng nghề).
Tuy vậy, năm 1858, khi quân đội viễn chinh Pháp vào Đông Dương, Việt Nam lại là một trong những nơi được hưởng thành tựu khoa học kỹ thuật cùng thiết kế tiên tiến của cách mạng công nghiệp tư bản châu Âu sớm hơn nhiều quốc gia trong khu vực. Dù không phải là nước có nền tảng khoa học và công nghiệp phát triển nhưng lúc đó người Việt đã được biết đến tàu thủy chạy bằng hơi nước, tàu hỏa, đường sắt (chạy tuyến đầu ở Sài Gòn - Mỹ Tho, khoảng năm 1885) thậm chí những phương tiện giao thông vẫn còn rất xa xỉ ở châu Âu như ô tô cũng đã xuất hiện (năm 1930, Hà Nội có khoảng 30 chiếc). Theo tài liệu bộ 15 bài đăng với chủ đề Trăm năm design ở Việt Nam (tác giả Phan Cẩm Thượng) trên Báo Thể thao Văn hóa, tác giả đã thống kê hàng loạt các sản phẩm design công nghiệp đến Việt Nam sớm hơn cả khả năng hiểu biết và tiếp nhận của đại đa số người Việt lúc đó như: cáp thông tin (1871), điện thoại (1894), điện báo vô tuyến (1904), máy ảnh (khoảng nửa cuối thế kỷ XIX đã xuất hiện hiệu ảnh sớm nhất ở Hà Nội, của ông Đặng Huy Trứ - hiệu Cảm Hiếu Đường). Nội thất đồ gỗ cầu kỳ kiểu Louis 14 kết hợp với phong cách Trung Hoa sẵn có tạo thành kiểu đồ nội thất Đông Dương cũng rất thịnh hành trong các gia đình thượng lưu thời kỳ này. Nhà cửa, trang phục, đầu tóc của người Việt từ vua quan đến dân thường cũng bước hẳn sang một trang mới do ảnh hưởng phong cách của phương Tây (thời kỳ vua Khải Định); rồi sự biến đổi liên tục của chiếc áo hai thân hoặc tứ thân cổ xưa thành chiếc áo dài truyền thống ngày nay của phụ nữ Việt Nam qua con mắt nghệ thuật và sự tài nghệ của ông Cát Tường… đủ nói lên con mắt nhìn cái đẹp theo kiểu truyền thống đã được thay đổi.
Sang đến mảng đồ họa in ấn, thay vì phương pháp ấn loát cổ được học hỏi từ Trung Hoa, nửa cuối thế kỷ XIX ở Sài Gòn đã sớm có tờ Gia Định báo được in typo kết hợp in đồ họa thủ công (bản chữ quốc ngữ) vào khoảng năm 1865. Ngay sau đó là sự bùng nổ của các tờ báo trên khắp cả nước: Phan Yên báo (1868), Nhựt trình Nam kỳ (1883), Thông loại khóa trình (1888) (số 3), Nông cổ mín đàm (1901), Lục tỉnh Tân văn (1907), Nữ giới chung (1918)… Ở Bắc Kỳ có Đại Nam đồng văn nhật báo (1892, in chữ Nho), Đại Việt tân báo (1905)1...
Khoảng những năm 1940, Việt Nam mới có cuốn sách đầu tiên được thiết kế và in ấn tại Huế: Nguyễn Du minh họa tập. Cuốn sách này được nhiều họa sĩ hàng đầu Việt Nam vẽ minh họa và thiết kế nên rất đẹp và mang tính dân tộc sâu sắc2.
Sự kéo dài của hai cuộc chiến dân tộc và giải phóng đất nước trong thế kỷ XX đã hạn chế rất nhiều sự phát triển kinh tế, xã hội và đặc biệt là các ngành thiết kế của Việt Nam. Trong thời kỳ này, các kế hoạch phát triển kinh tế hầu như không thể thực hiện như mong muốn, duy nhất chỉ có ngành in đồ họa với kỹ thuật in thô sơ vẫn tiếp tục duy trì vì nhu cầu tuyên truyền cổ động cho chiến tranh. Chiến tranh khiến nhu cầu tiêu dùng thu hẹp lại đến mức tối thiểu và sự vận động của xã hội cũng chậm lại rất nhiều. Các sản phẩm công nghệ vẫn du nhập vào nước ta theo con đường viện trợ nhưng chủ yếu để phục vụ chiến tranh (xe tăng, ô tô, vũ khí, trang thiết bị, quân phục, đồ dùng, thực phẩm cho quân đội...) theo xu hướng hàng Mĩ ở Miền Nam và hàng các nước xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc. Một số nhà máy sản xuất hàng công nghiệp và tiêu dùng tối thiểu được các nước lớn trong phe xã hội chủ nghĩa giúp xây dựng: Nhà máy Xe lửa Gia Lâm, Khu công nghiệp Cao Xà Lá Thanh Xuân, Nhà máy Cơ khí Trần Hưng Đạo, Nhà máy Xe đạp Thống Nhất, Nhà máy Gang thép Thái Nguyên, Nhà máy Điện cơ Thống Nhất… Các nhà máy này cũng không chú trọng quá nhiều đến thị hiếu sản phẩm bởi hàng hóa sản xuất ra đến đâu là được tiêu dùng ngay lập tức đến đó theo phương thức phân phối hàng hóa thời kỳ bao cấp. Mô hình bao cấp này tồn tại đến năm 1988 cũng là một lý do kìm hãm sự cạnh tranh theo quy luật phát triển của kinh tế thị trường, khiến các nhà thiết kế nếu có được đào tạo bài bản cũng không có đất dụng võ.
Thời kỳ bao cấp được xóa bỏ cũng đồng nghĩa với sự bùng nổ của thông tin vượt biên giới và cạnh tranh thị trường trên mọi phương diện. Nhu cầu tiêu dùng tăng vọt. Toàn bộ xã hội Việt Nam đứng trước một cơ hội và thách thức lớn: sản xuất và bán hàng cạnh tranh. Sự cạnh tranh này không chỉ dành riêng cho các công ty nội địa mà nó còn khó khăn hơn rất nhiều khi hàng nhập ngoại tràn ngập thị trường. Lấy thử một ví dụ nhỏ: mặt hàng bánh kẹo. Bánh kẹo Trung Quốc, Thái Lan tràn sang các thị trường Việt Nam từ nông thôn đến thành thị với vô vàn mẫu mã hấp dẫn, ngay lập tức có thể đáp ứng thị hiếu và túi tiền của rất nhiều bà nội trợ có điều kiện khác nhau. Trong khi đó, bánh kẹo của nhiều công ty Việt Nam có thể chất lượng không kém hơn nhưng về độ hấp dẫn của bao bì là thua hẳn. Thay đổi được một mã thiết kế sản phẩm là cả một quy trình dài với vốn đầu tư không hề nhỏ – bài toán muôn thuở mà các nhà máy sản xuất của chúng ta đang gặp phải. Vậy thiết kế và đào tạo thiết kế sẽ làm được gì và có ý nghĩa, giá trị gì trong điều kiện này?
3. Thiết kế và đào tạo thiết kế ở Việt Nam trong thời đại công nghiệp 4.0
Như đã đề cập ở trên, thời đại công nghiệp 4.0 là kết quả một tiến trình xã hội phát triển khoa học kỹ thuật có trình tự và kế thừa, sinh ra từ xã hội tư bản Âu - Mĩ, tạo ra nền tảng xã hội đó về cả khoa học kỹ thuật và văn hóa. Với sự bùng nổ của thông tin và thị trường toàn cầu, Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác được ảnh hưởng và sử dụng những thành quả của công nghệ 4.0, cho dù có nền tảng xã hội tiên tiến hay không, là nước đang phát triển hay chậm phát triển. Đây là lý do khiến xu hướng của design ở các nước này cũng rất khác nhau. Nền design của Việt Nam có thể được coi là có design thủ công (truyền thống) chứ không được coi là design với đúng nghĩa của nó trong thời kỳ công nghiệp 4.0 hoặc nếu có thì chỉ đóng vai trò liên doanh, làm thuê theo từng công đoạn (như ngành dệt may, lắp đặt hàng công nghiệp...). Với tình hình như vậy, các ngành thiết kế thời kỳ công nghệ 4.0 muốn đóng vai chủ động thì phải chủ động về cả sáng tạo, sản xuất và thị trường. Ngành thiết kế non trẻ của ta phải hiểu được sản xuất trong nước đạt mức độ nào trong xã hội công nghệ, có thể sử dụng bao nhiêu phần trăm công nghệ cho sản xuất, từ đó mới nói đến đào tạo thiết kế.
Tự động hóa và công nghệ vi xử lý, công nghệ thông tin là những biểu hiện cụ thể của giai đoạn công nghiệp 4.0, trong đó vai trò của design rất lớn. Nó mang tính thiết kế ý tưởng và thiết kế cụ thể hóa chương trình sản xuất, kỹ thuật sản xuất. Thậm chí, bằng các phần mềm công nghệ kết nối, người thiết kế có thể điều tra khả năng thích ứng tiêu dùng của thị trường mà sản phẩm đang hướng tới.
Thiết kế 4.0 có thể được thể hiện ngay khi chỉ là ý tưởng trên giấy, trên máy tính. Ví dụ khi người ta thiết kế một chiếc ô tô thì trước tiên là cấu tạo, kỹ thuật, tính năng, vẻ đẹp (hình dáng) được thực hiện trên máy tính và các phương tiện công nghệ. Người ta có đủ các phần mềm tạo ra một chiếc ô tô ảo như mong đợi, thử chạy nó với độ va chạm, an toàn cũng trên không gian ảo được thiết kế dựa trên các thuật toán về giao thông. Bước thứ hai là chế tạo thử nghiệm (thật), gọi là demonstration (trình diễn, hiện thực hóa, luận chứng) và cuối cùng, sau khi nghiên cứu thị trường là quy trình sản xuất. Mỗi một bước trên đều là design, đều cần đến sự hỗ trợ của công nghệ 4.0. Vì vậy, nghiên cứu công nghệ 4.0 luôn cần cho cho cả bốn bước này: đó là thiết lập các phần mềm thế nào để hình thành một sản phẩm (ví dụ bước 3 (demonstration) người ta có thể dùng công nghệ 3D, 4D; bước 4 có thể là liên kết các nhà máy công nghệ toàn cầu để sản xuất).
Đào tạo nhân lực thiết kế trong thời đại công nghệ 4.0 là tạo ra một con người có tư duy công nghệ và thông tin, trên nền tảng thẩm mĩ nhân văn và những hiểu biết về thị trường chứ không chỉ là du nhập kỹ thuật để sử dụng. Như vậy, trong đào tạo, dạy phương pháp tư duy 4.0 là quan trọng nhất: tư duy công nghệ - nhân học nghệ thuật và kinh tế.
Lấy một ví dụ tiêu biểu để thấy được quá trình tham gia của thiết kế vào sự thành bại của một sản phẩm: sự biến đổi trong thiết kế và sản xuất của chiếc ô tô trải qua 4 thời kỳ công nghiệp. Quá trình này sẽ làm rõ những mối liên quan chặt chẽ của thẩm mĩ thiết kế với các quy trình sản xuất và thị trường. Nó sẽ chỉ ra vấn đề cốt yếu trong thiết kế sao cho sản phẩm được tiêu thụ tốt nhất trong thời đại tiêu dùng của nó:
Thời kỳ 1.0: động cơ hơi nước. Ô tô có năng lượng là nồi hơi, chạy như tàu lửa, chỉ khác là không có đường ray. Thiết kế xe được vẽ thủ công bằng tay, sản xuất thủ công từng bộ phận, lắp ráp cũng hoàn toàn thủ công, tốn kém rất nhiều nguyên liệu, nhân công và thời gian. Kết quả chi phí cho một chiếc xe là quá lớn và nó chỉ có thể tiêu dùng với số lượng ít ỏi trong giới thượng lưu.
Thời kỳ 2.0: động cơ điện ra đời nâng tốc độ, sức chở. Pin, ắc quy ra đời làm khả năng tích điện để sử dụng lâu hơn. Thân vỏ xe và nhiều bộ phận được làm bằng phương pháp đột dập. Các thiết kế vẫn là bản vẽ tay. Ô tô vẫn là sản phẩm quý tộc, đắt tiền.
Tuy nhiên, do nhu cầu sử dụng tăng cao, các dây chuyền lắp đặt bắt đầu được thiết kế nhằm đẩy mạnh năng suất, giảm giá thành sản phẩm và đáp ứng thị trường rộng hơn. Với quy trình sản xuất dây chuyền, mỗi công nhân chỉ thao tác vài bộ phận rồi các bộ phận riêng lẻ ấy được đưa đến một nơi tích hợp lại. Thiết kế ô tô đã trở thành thiết kế một quy trình, trong đó các bộ phận riêng biệt được liên kết với nhau tạo nên giá trị sản phẩm. Quy trình ấy có khả năng ứng dụng sang các loại động cơ khác, trên nguyên lý chạy động cơ điện và nguyên liệu xăng, dầu như nhau. Ví dụ như máy xây dựng, xe chuyên dụng, máy nông nghiệp… Ô tô lúc này tràn ngập thị trường và trở thành hàng tiêu dùng bình dân (lịch sử hãng xe Ford).
Thời kỳ 3.0: sự ra đời của điện tử, máy tính và công nghệ kỹ thuật số trên nền tảng của sự phát triển chất bán dẫn, siêu máy tính, máy tính cá nhân và internet. Để thiết kế từng phần một sản phẩm, người ta đã có thể sử dụng tối đa công nghệ phần mềm. Quy trình sản xuất ô tô lúc này đã được đưa lên một bước tiến lớn là dùng robot thay thế con người trong nhiều công đoạn, nâng độ chính xác lên cao, giảm nhân công… Chiếc xe có nhiều phần thiết kế điều khiển tự động bằng công nghệ điện tử và kỹ thuật số. Các nhà sáng tạo có thể thử độ an toàn của xe bằng chương trình phần mềm máy tính trước khi đưa ra thực tế. Công nghệ kỹ thuật số, điện tử và internet đã tham gia sâu sắc vào sản phẩm, từ việc trở thành công cụ thiết kế cho đến việc được ứng dụng để biến thành một trong những bộ phận của những chiếc xe hơi công nghệ cao. Điều này hoàn toàn thích hợp với rất nhiều thị trường phần đông là những khách hàng mong đợi sự nghỉ ngơi thỏa mãn khi lái xe bởi cuộc sống và công việc đã quá căng thẳng.
Thời kỳ 4.0: hoàn toàn tự động hóa. Các nhà máy có khả năng chuyển dịch sản xuất nhiều loại sản phẩm cùng một lúc hoặc chuyển đổi chức năng sản xuất các sản phẩm có công nghệ liên quan. Chiếc xe hơi được thiết kế tự động tối đa: điện tử hóa bảng điều khiển, công nghệ dẫn đường và định vị toàn cầu. Ô tô được coi như một cái nhà, có đầy đủ sự thuận tiện, có tính năng báo các thông tin và kết nối ảo toàn cầu, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của một công dân trong thế giới tự do và hiện đại. Thiết kế ô tô lúc này vẫn trải qua bốn bước như trước và sử dụng hoàn toàn bằng các phần mềm nhưng ở mức độ cao: robot và chương trình hóa ô tô không người lái, ô tô tự tích tụ năng lượng và không khí thải…
Với hệ thống bốn bước trong sản xuất ô tô như trên, chúng ta có thể áp vào bất cứ một sản phẩm tiêu dùng nào trong xã hội cũng sẽ thấy được sự gắn bó chặt chẽ giữa công nghệ, thiết kế, sản xuất và nhu cầu tiêu thụ. Vậy nên khi nói đến đào tạo thiết kế ở Việt Nam, ngoài việc cập nhật các chương trình đào tạo tiên tiến và các phương pháp truyền đạt tích cực hiện đại, chúng ta không thể tránh khỏi những can thiệp sâu sắc của sự xâm nhập công nghệ vào xã hội, vào hệ thống sản xuất và tư duy tiêu dùng của con người. Chỉ khi nào công nghệ, sản xuất và tiêu dùng nằm trên một bình diện chung thì tư duy thiết kế sẽ phát huy tối đa sức sáng tạo của nó.
4. Kết luận
Cái đích của nền công nghệ 4.0 là kiến tạo một thế giới phẳng không biên giới về mọi phương diện. Nó giúp hình thành các trường nhận thức mới trong mỗi chúng ta. Nó còn tạo các điều kiện mang tính tích cực nhằm thúc đẩy các giá trị kinh tế và xã hội theo chiều hướng liên kết thành mạng lưới toàn cầu. Như vậy, thiết kế và đào tạo thiết kế trong thời đại 4.0 cũng đồng nghĩa với việc mỗi cá nhân phải tự vận động để trở thành một thành viên toàn cầu. Những người có khả năng tiếp nhận các thông số khoa học kỹ thuật hiện đại, khả năng thích nghi với đời sống với muôn vàn các nút điều khiển vô hình, khả năng tư duy và làm việc vừa độc lập vừa liên kết để không bị lạc lõng trong một thế giới chung. Tính dân tộc rất cần phát huy ở đây. Nó nằm trong tiềm thức văn hóa của mỗi cá nhân. Người ta luôn cần nhận thức được giá trị của bản thân trước khi gia nhập cộng đồng chung thế giới.
Chú thích:
1 Phan Cẩm Thượng: “Design sách báo – thiết kế đồ họa báo chí, cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20”, Báo Thể thao Văn hóa cuối tuần, 2014.
2 Hoàng Minh Phúc (2015), Đồ họa in khắc gỗ hiện đại Việt Nam, NXB Thế giới.