MẤY SUY NGHĨ VỀ PHIM CHIẾN TRANH

Trên cơ sở phân tích một số bộ phim tiêu biểu về đề tài chiến tranh cách mạng, bài viết khẳng định sự thành công trong cách lựa chọn đề tài, nghệ thuật thể hiện và đóng góp quan trọng của điện ảnh Việt Nam ở mảng đề tài này trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đồng thời chỉ ra những hạn chế - như những điều nuối tiếc - để mảng phim này thu hút khán giả và có sức sống lâu bền.

   Đã có thời gian dài điện ảnh Việt Nam được xem là nền điện ảnh chiến tranh. Suốt 30 năm, từ khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời ngày 2/9/1945 cho đến Đại thắng mùa xuân 1975, cả dân tộc đã trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ bảo vệ Tổ quốc, giành lại độc lập và thống nhất đất nước. Hơn nữa, điện ảnh cách mạng Việt Nam được Chủ tịch Hồ ChíMinh ký sắc lệnh thành lập chính thức vào ngày 15/3/1953 tại Bản Bắc (huyện Định Hóa, Thái Nguyên) cũng in dấu ngay trong lòng chiến khu, giữa cuộc kháng chiến chống Pháp.

   Nét đặc trưng của điện ảnh Việt Nam là từ khi được thành lập, các bộ phim luôn bám sát từng bước đi, thậm chí ở trong lòng mọi sự kiện lịch sử của dân tộc. Bộ phim truyện đầu tiên của điện ảnh cách mạng Việt Nam là Chung một dòng sông được ra mắt năm 1959. Điện ảnh Việt Nam trong những năm chiến tranh chống đế quốc Mĩ (1959-1975) làm ra các bộ phim chủ yếu tập trung ca ngợi những phẩm chất cao quý của thời chiến như anh hùng trong chiến đấu, sẵn sàng hi sinh bản thân mình vì sự nghiệp chung cùng những chuẩn mực đạo đức của dân tộc Việt Nam như thuỷ chung vẹn toàn, lấy đức hi sinh vì người khác làm lẽ sống...

   Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã giải phóng hoàn toàn Miền Nam Việt Nam, chấm dứt chiến tranh xâm lược của đế quốc Mĩ và các thế lực tay sai, bắt đầu một cuộc sống hoà bình trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Từ sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (tháng 12 năm 1986) xã hội Việt Nam bắt đầu vào thời kỳ Đổi mới với hàng loạt những đổi thay, cải cách trong đời sống của nhân dân. Phải khẳng định luồng gió đổi mới đã đem đến cho điện ảnh Việt Nam những tác phẩm mà giờ đây nhìn lại vẫn thấy nhiều nét mới mẻ và táo bạo chứa đựng trong đó. Ngay từ những năm tháng đầu tiên sau Đại hội Đảng lần thứ VI, bầu không khí văn học, nghệ thuật như được thổi vào một luồng gió sáng tạo, trung thực và thẳng thắn đề cập đến những vấn đề bức xúc của xã hội.

   Phải nói rằng đề tài chiến tranh cách mạng trong tác phẩm điện ảnh từ sau ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước có sự khác biệt, đổi mới rõ rệt so với những phim ra đời trong thời chiến. Các nhà làm phim đã có sự gián cách thời gian để nhìn lại cuộc chiến, chiêm nghiệm những giá trị lớn lao của phẩm giá anh hùng, niềm tự hào dân tộc và cái giá của những hi sinh, mất mát. Điều này được thể hiện trong những bộ phim phản ánh cuộc sống những ngày đầu hoà bình, trong đó những vết thương chiến tranh cả về thể xác và tinh thần ngày đêm còn âm ỉ rỉ máu. Nhưng ngay cả phim phản ánh chiến tranh một cách trực diện thì sự chiêm nghiệm cũng đạt được độ khái quát cao, dưới bề mặt của bom đạn, khói lửa, của sự chiến đấu anh dũng và hi sinh, mất mát đã kết tinh những triết lý, đạo lý Việt Nam. Nói cụ thể hơn, cái nhìn đa chiều, cách khai thác những góc khuất chiến tranh, những lát cắt đời thường của các nhân vật, dù là người lính hay vị tướng, cách thể hiện lúc tinh tế, lúc trần trụi đã làm nên sự khác biệt của những bộ phim chiến tranh trong giai đoạn này so với phim chiến tranh trước đây.

   Có thể làm một phép so sánh là một số bộ phim sản xuất trong thời chiến đề cập đến những câu chuyện, những vấn đề đáng quan tâm, thậm chí là sống còn của dân tộc ta lại chưa lay động được người xem ở quốc gia khác, một số phim chiến tranh của Việt Nam “được” xếp vào loại “phim tuyên truyền”! Nghĩa là dù thắng lợi phi thường của Việt Nam đánh bại hai đế quốc hùng mạnh là Pháp và Mĩ là một thực tế lịch sử không gì lay chuyển được, thế giới công nhận và khẳng định dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng nhưng không ít bộ phim Việt Nam nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng không thuyết phục được người xem nước ngoài.

   Trong khi đó, phim Cánh đồng hoang (1979, đạo diễn: Nguyễn Hồng Sến) chinh phục mạnh mẽ người xem trong nước và quốc tế bởi các nhân vật được khắc hoạ như những con người bằng xương bằng thịt, họ có những tình cảm và khát vọng như bất cứ một con người nào sống trên trái đất này. Cuộc chiến đấu không cân sức của vợ chồng người du kích chống lại những chiếc trực thăng Mĩ ngày đêm quần thảo trên cánh đồng nước ngập mênh mang đem đến một lẽ sống đã thấm vào lịch sử ngàn đời của dân tộc Việt Nam: lấy yếu đánh mạnh, lấy ít địch nhiều. Sự hi sinh của người du kích trong phim có sức nặng, khiến người xem tin vào cuộc sống và chiến đấu đầy nghịch lý của dân tộc Việt Nam: cái bình dị tạo nên cái phi thường, chủ nghĩa anh hùng tiềm ẩn trong cuộc sống đời thường của mỗi người dân.

   Bao giờ cho đến tháng Mười (1984, đạo diễn: Đặng Nhật Minh) phản ánh sự tàn khốc của chiến tranh qua thân phận người phụ nữ. Chị Duyên biết tin chồng hi sinh nhưng một mình nén chịu, giấu tin dữ để người bố chồng gần đất xa trời được thanh thản. Phim đi sâu vào sự thiêng hóa lòng yêu nước qua số phận cá biệt của nữ nhân vật khi Duyên “gặp lại” người chồng đã khuất ở miếu thờ Thành hoàng (cũng từng hi sinh trong chiến tranh chống ngoại xâm) trong “phiên chợ Âm phủ” đêm Rằm tháng Bảy. Phim khái quát những trải nghiệm mà dân tộc ta phải gánh chịu trong lịch sử liên miên chiến tranh, từ đó bật lên truyền thống nhân văn đặc sắc Việt Nam: người hi sinh vì Tổ quốc sẽ trường tồn cùng quê hương đất nước bởi những người còn sống không bao giờ quên họ. Lẽ sống ấy có sức cảm hóa mạnh mẽ khán giả quốc tế. Ra đời năm 1984, 24 năm sau, vào năm 2008, Bao giờ cho đến tháng Mười vẫn còn nguyên giá trị khi được kênh truyền hình CNN bầu chọn là một trong 18 phim châu Á xuất sắc nhất mọi thời đại.

   Trong giai đoạn hơn hai chục năm từ những năm 1990 đến nay, các các phim Nhà nước đặt hàng tương đối thành công vẫn là những phim khai thác đề tài chiến tranh. Các nhà làm phim càng có nhiều thời gian để nhìn và chiêm nghiệm chiến tranh từ những góc khuất, thể hiện những bi kịch chiến tranh, sự giằng xé trong tâm hồn và tình cảm con người.

   Ba bộ phim của đạo diễn Lê Hoàng là Lưỡi dao (1995), Ai xuôi vạn lý (1996) và Chiếc chìa khóa vàng (2000) khai thác những lát cắt chiến tranh khác nhau nhưng đều gai góc và quyết liệt. “Lưỡi dao” trong phim vừa là biểu tượng của một mối hận thù vừa là phương tiện để trả thù luôn được giấu ở sau lưng của một cô gái xứ đạo nhằm vào Giải phóng quân – những người mà cô cho là đã giết chết bà nội cô. Ngay từ đầu phim Lưỡi dao, người xem đã thấy rõ bà nội cô gái chết là do quân “ngụy” gài bẫy, đẩy bà làm vật hi sinh cho chúng và đổ lỗi cho đối phương. Chỉ riêng “người trong cuộc” là cô gái thì không được chứng kiến và không hề biết điều đó. Mô tả quá trình thay thế lưỡi dao thù hận của cô bé bằng lòng tin cậy và tình cảm yêu thương, các nhà làm phim một mặt nêu bật được bản chất nhân ái của quân đội nhân dân Việt Nam, mặt khác đã giải quyết một vấn đề mấu chốt khi tiếng súng vừa ngưng, chiến tranh vừa kết thúc. Đó là sự phức tạp, dữ dội trong quá trình thống nhất đất nước Việt Nam và hòa hợp dân tộc.

   Ai xuôi vạn lý mô tả hành trình gian nan với những tình huống dở khóc dở cười xảy ra với một chiến sĩ giải phóng đưa hài cốt của người đồng đội từ Miền Nam về quê ở Miền Bắc. Anh gặp người đàn bà buôn chuyến trên tàu hỏa (vốn là nữ Biệt động Sài Gòn) và một anh xe ôm vốn là lính ngụy Sài Gòn cũ. Ba nhân vật đóng vai trò như dấu gạch nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa chiến tranh và hoà bình, làm bật lên một ý tưởng mang đậm màu sắc Việt Nam: những người đã ngã xuống vì Tổ quốc tồn tại bất diệt trong lòng những người sống và tiếp sức mạnh cho người sống vượt qua những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. Còn phim Chiếc chìa khoá vàng kể câu chuyện xảy ra trong 24 giờ đồng hồ một ngày năm 1972 tại Hà Nội, của một nữ y tá hộ sinh và một anh lính pháo cao xạ, giữa lúc đế quốc Mĩ trút bom xuống Thủ đô Việt Nam. Sáng sớm hôm sau, chàng phải ra trận và họ quyết định làm cái việc thiêng liêng nhất trong đời người: thành hôn. Với cách thể hiện vừa hiện thực vừa giả tưởng, phim đã phần nào tái hiện được sự ác liệt tàn khốc của chiến tranh qua lăng kính của những con người đang sống trong thời bình.

   Cùng với Lê Hoàng, một đạo diễn nổi bật của thế hệ đạo diễn Việt Nam thời Đổi mới là Lưu Trọng Ninh cũng đem đến 2 bộ phim chiến tranh ấn tượng là Ngã ba Đồng Lộc (1997), Bến không chồng (2000, chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của Dương Hướng). Phim Ngã ba Đồng Lộc dựa trên câu chuyện có thật về 10 cô gái thanh niên xung phong phá bom ở vùng túi lửa Hà Tĩnh - Miền Trung Việt Nam trong chiến tranh chống Mĩ đã anh dũng hi sinh tại ngã ba Đồng Lộc. Bộ phim miêu tả 60 giờ đồng hồ cuối cùng trước lúc hi sinh của 10 cô gái trinh trắng, tràn đầy sức xuân, làm bật lên cái nghịch lý chiến tranh – nghịch lý giữa sự bình dị và sự vĩ đại, giữa sự sống và cái chết, qua việc khắc hoạ bức chân dung tập thể vừa có những nét chung vừa có cá tính khá rõ nét của 10 cô gái. Sự đầy ắp của chi tiết và tình huống kịch tính đã tạo nên cái hồn và sức sống cho phim, để rồi sau bao nhiêu tiếng cười và nước mắt, khao khát và khắc khoải, các cô tưởng có thể gánh lên vai cả núi bom đạn mà đi suốt cuộc chiến tranh thì bỗng bầu trời sập tối ngay trong khoảnh khắc bình lặng nhất. Phim kết hợp hài hoà phong cách chân thực của phim tài liệu (trong cách trình bày tỉ mỉ từng khoảnh khắc sống của các cô gái) với chất trữ tình (khi thể hiện những ước mơ, khát vọng của các cô) và cả chất tráng ca bi hùng (trong sự hi sinh để các cô trở thành nhân vật của huyền thoại bất diệt).

   Khác với Ngã ba Đồng Lộc, phim Bến không chồng là bức tranh đậm nét và dữ dội về một nông thôn Việt Nam trải dài hơn hai chục năm, từ năm 1956 đến sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất. Phía sau lũy tre làng ấy là những gương mặt, những số phận phụ nữ, những người đàn bà cô đơn. Bởi lẽ tất cả đàn ông đều đã ra trận để rồi một ngày kia họ không trở về hoặc trở về với những vết thương làm biến dạng cơ thể bên ngoài hoặc ẩn sâu trong tâm hồn như ông Vạn – người đàn ông duy nhất trong làng trở về sau kháng chiến chống Pháp. Luôn ôm ấp cây súng như một “người tình”, một chỗ dựa, một thứ vũ khí tự vệ để tự diệt mọi tình cảm, ham muốn suốt hai chục năm ròng chiến tranh chống Mĩ, ông Vạn trở thành “thuốc thử” để các nhân vật nữ bộc lộ hết bản ngã của mình.

   Đạo diễn Nguyễn Thanh Vân có hai bộ phim về chiến tranh là Đời cát (1999) và Người đàn bà mộng du (2001, chuyển thể từ truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của nhà văn Nguyễn Minh Châu). Trong Đời cát, trải dài từ đầu đến cuối phim là một màu cát trắng và những cuộc chia ly và đoàn tụ đẫm nước mắt với “vợ lớn” và “vợ nhỏ” của một người đàn ông đi “tập kết” sau hơn hai mươi năm dằng dặc đất nước chia cắt thành hai miền Bắc-Nam. Đã có lúc trong đạn bom, trong sự giành giật triền miên giữa cái sống và cái chết, người ta quên đi những nhu cầu và khát khao của bản thân mình. Nhưng giờ đây chiến tranh đã kết thúc, cuộc sống hoà bình làm sống lại những đòi hỏi của tình yêu và tình dục như con dao vô hình khoét sâu những phần thiếu hụt mà chiến tranh đã cướp đi khiến cho những vết thương chiến tranh ngày đêm không ngừng rỉ máu. Cách khai thác sự va chạm giữa dấu tích của những gì đã mất bởi chiến tranh và những khát vọng đang sống lại trong cuộc sống thời bình đã làm phim Đời cát gieo vào lòng người xem sự xúc động.

   Câu chuyện phim Người đàn bà mộng du bắt đầu vào thời hậu chiến khi Quỳ – cô y tá chiến trường xưa, nay làm việc tại một trại điều dưỡng thương binh – luôn bị những ký ức chiến tranh giày vò khiến cô như người đi bên lề cuộc sống. Từ một cô gái trong sáng, niềm mơ ước, tình yêu trong mộng của biết bao người lính, Quỳ trở thành một người đàn bà mộng du trong cơn mơ bất tận về chiến tranh và những người đã khuất. Bộ phim thể hiện được tinh thần và trạng thái xung đột bên trong của nhân vật, khái quát được hiện thực bằng sự chiêm nghiệm của những người đang nhìn lại chiến tranh để rút ra những quy luật cuộc đời.

   Đạo diễn nổi tiếng của Việt Nam là Đặng Nhật Minh thành công với phim Đừng đốt (2009) tái hiện cuộc đời của một nhân vật có thật – nữ bác sĩ liệt sĩ Đặng Thùy Trâm, dựa trên cuốn Nhật ký Đặng Thùy Trâm xuất bản tại Việt Nam năm 2005, đã làm rung động hàng triệu con tim khán giả, trở thành một hiện tượng xã hội, sau đó được tái bản nhiều lần và được dịch ra nhiều thứ tiếng để phát hành ở nhiều nước. Là một người con gái Hà Nội, 27 tuổi, cương nghị, trong sáng đến thánh thiện, Đặng Thùy Trâm đã từng sát cánh cùng những người đồng đội của mình chiến đấu, hiến dâng cả tuổi thanh xuân cho vùng đất lửa chiến trường Nam Trung Bộ trong những năm chiến tranh chống đế quốc Mĩ. Chính ở nơi đó, chị đã viết những dòng nhật ký với nỗi nhớ gia đình cháy bỏng, với tình yêu thương sâu thẳm đối với những người đồng đội và bà con. Cuốn nhật ký đó đã được một người lính Mĩ nhặt được và giữ ở bên mình suốt 30 năm rồi tìm mọi cách để trả lại cho gia đình người nữ bác sĩ Việt cộng! Phim Đừng đốt có sức thuyết phục bởi cách thể hiện giản dị, nhìn cuộc chiến tranh bằng con mắt của những người trong cuộc từ hai chiến tuyến.

   Vào thập kỷ 1 và 2 của thế kỷ XXI, bên cạnh những bộ phim chiến tranh của các đạo diễn có tiếng thì một số phim của các đạo diễn trẻ cũng có những thành công nhất định. Đó là Đường thư (2004, đạo diễn: Bùi Tuấn Dũng) thể hiện chiến tranh theo hướng phim hành động nhằm cuốn hút người xem vào hành trình của những người lính quân bưu; Sinh mệnh (2007, đạo diễn: Đào Duy Phúc) kể về ranh giới giữa cái sống và cái chết, giữa khát vọng yêu và sự kìm nén; Mùi cỏ cháy (2011, đạo diễn: Nguyễn Hữu Mười) kể về 81 ngày đêm chiến đấu và hi sinh anh dũng của các chàng lính trẻ tại thành cổ Quảng Trị vào năm 1971; Những người viết huyền thoại (2013, đạo diễn: Bùi Tuấn Dũng) khắc họa chân dung vị tướng và những người chiến sĩ mở con đường Trường Sơn huyết mạch nối liền Bắc-Nam trong chiến tranh chống Mĩ. Và không thể không kể đến bộ phim đầu tay thành công của một đạo diễn trẻ là Sống trong sợ hãi (2005, đạo diễn: Bùi Thạc Chuyên) đã thể hiện nỗi đau chiến tranh một cách táo bạo và mới mẻ, với một thời khắc phức tạp: khi trên bề mặt cuộc sống không còn tiếng súng nhưng dưới mỗi tấc đất còn ẩn giấu đầy bom mìn và trong lòng người vẫn ẩn chứa bao vết thương. Cách tái hiện chân thực đến trần trụi vết thương chiến tranh và sự hi sinh của những thân phận nhỏ bé khiến người xem thương cảm đến thắt lòng!

   Bộ phim Truyền thuyết về Quán Tiên chuyển thể từ truyện cùng tên của nhà văn Xuân Thiều (2019, đạo diễn: Đinh Tuấn Vũ), phát hành tuần cuối tháng 5/2020, đã đem lại những nét mới mẻ khi chiến tranh được nhìn dưới con mắt của nhà làm phim trẻ. Phim kể câu chuyện thời chiến của 3 nữ thanh niên xung phong xinh đẹp được điều động đến một hang động nằm sâu trong núi rừng Trường Sơn để mở cái Quán Tiên, đón những người lính lái xe đến nghỉ chân trên đường vào tiền tuyến. Bên cạnh đạn bom, thiếu thốn vật chất, các cô bị nỗi cô đơn gặm nhấm; đặc biệt, cô “chị cả” tên Mùi – người từng được ở với chồng mới cưới được 3 ngày thì anh ra trận và suốt 5 năm bặt tin – bị ám ảnh bởi một con vượn luôn ẩn hiện, rình mò cô ngày đêm, thậm chí như một người đàn ông si tình nhìn trộm cô tắm suối! Điều đặc biệt là có vẻ như “cái nhìn” của con vượn đó đã đánh thức bản ngã phụ nữ vốn bị vùi sâu dưới lớp lý trí của chiến sĩ Mùi và xoa dịu cơn khát vắng chồng. Bộ phim diễn tả được sự tàn khốc của chiến tranh không phải bằng bom rơi đạn nổ mà qua số phận của những người phụ nữ bị giằng xé, khổ đau vì khát vọng yêu và nỗi cô đơn nhưng họ vẫn sẵn sàng hi sinh bản thân mình cho Tổ quốc.

   Gần đây nhất, bộ phim Đào, phở và piano (2023, đạo diễn: Phi Tiến Sơn) đã tạo cơn sốt cho khán giả Hà Nội và sau đó là cả nước dịp sau Tết Giáp Thìn. Phim “cháy vé” tại Trung tâm Chiếu phim quốc gia trong nhiều ngày, sau đó lan đến các tỉnh/ thành. Đây là trường hợp chưa từng xảy ra với một bộ phim chiến tranh cách mạng, doanh thu hơn 20 tỉ cũng chưa từng có trong lịch sử đối với một phim chiến tranh! Vậy điều gì đã làm nên cơn sốt có một không hai này? Lấy bối cảnh Hà Nội những ngày khói lửa cuối năm 1946, khi thực dân Pháp phá hoại Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 về việc công nhận Việt Nam là quốc gia tự do và độc lập, dẫn đến cả dân tộc bước vào thời khắc lịch sử: toàn quốc kháng chiến. Tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” sục sôi trong huyết quản mỗi con người Hà Nội, từ cô gái “tiểu tư sản” đến chàng tự vệ, ông họa sĩ già đến chú bé đánh giày, công tử nhà giàu đến vợ chồng ông bán phở gánh… Đạo diễn kiêm biên kịch Phi Tiến Sơn thể hiện trực diện con người Hà Nội trong những ngày máu lửa, mô tả khá tỉ mỉ mỗi số phận trong từng tình huống căng thẳng và bi kịch, rồi “sắp đặt” cạnh nhau khá “thoải mái” mà không cần nhiều sự cân nhắc, tính toán. Cho dù cách “kể” của phim không đi theo câu chuyện theo lối truyền thống nhưng rất may là phim khá dễ hiểu nên phù hợp với nhiều đối tượng khán giả, kể cả những người trẻ tuổi đến các khán giả “bình dân”. Quan trọng nhất là phim đã chạm được vào “sợi dây đàn yêu nước” trong con người Việt Nam, khiến cho nó rung lên và tạo hiệu ứng lan truyền mạnh ngoài sức tưởng tượng của bản thân nhà làm phim! Ngoài ra, hiệu ứng từ việc ủng hộ “Đào” (phim Đào, phở và piano) bất chấp của các antifan Mai – một bộ phim bao phủ tất cả các rạp chiếu và lập kỷ lục doanh thu chưa từng có ở Việt Nam (gần 550 tỉ). Cùng đó là sự “khan hiếm” suất chiếu phim Đào, phở và piano trong nhiều ngày cũng khiến “cơn khát” phim này lan rộng trong cả nước.

   Cá nhân tôi đánh giá cao một bộ phim chiến tranh khác mà đạo điễn Phi Tiến Sơn đã làm cách đây hơn hai chục năm, đó là phim Vào Nam ra Bắc (2000). Câu chuyện phim kể về Quang – một anh lính Hà Nội không đấu tranh nổi với nỗi sợ máu me, bom đạn, đã “chuồn” khỏi đội quân vào Nam, tìm đường ra Bắc, về nhà. Suốt một ngày trời trốn lủi để chờ tàu đến, anh gặp đứa bé gáỉ tên là Nụ ở làng nghèo miền quê Thanh Hoá và biết bao sự kiện đã xảy ra, khiến anh phút trước vừa được lên đỉnh vinh quang, phút sau đã bị ném xuống hố sâu của sự hổ thẹn. Cuối cùng, trước sự khẩn khoản với một niềm tin trong sáng của bé Nụ, anh đã chọn cho mình một con đường đi: tự nguyện lên tàu vào Nam chiến đấu. Thành công đáng kể của Vào Nam ra Bắc là sự giàu có của chi tiết và cách thể hiện sinh động của các nhà làm phim. Đạo diễn tỏ ra khá thành thạo trong việc sắp đặt các chi tiết để tạo ra những tình huống bất ngờ. Cái duyên màn ảnh như “chất kết dính” vô hình đã giúp đạo diễn xâu chuỗi một cách hợp lý các tình huống, chi tiết, hành động trong phim để chúng tự nói lên những gì mấu chốt nhất là tư tưởng, là ý đồ của tác giả.

   Nhưng thật tiếc là Vào Nam ra Bắc lại không đến được với khán giả, cũng không được đánh giá cao tại các liên hoan phim quốc gia và quốc tế. Còn Đào, phở và piano hình như còn những chỗ xộc xệch, còn thiếu “chất kết dính” thì lại có số phận ngược lại, được lên ngôi bất ngờ, trở thành hiện tượng nổi bật đầu năm nay! Không chỉ Vào Nam ra Bắc mà rất nhiều phim chiến tranh có chất lượng cũng chịu chung số phận lặng lẽ ra rạp, thậm chí một số phim không ra nổi rạp, chỉ chiếu khai mạc một số tuần phim rồi phát miễn phí trên truyền hình. “Ngẫm hay muôn sự tại trời…” – câu thơ nổi tiếng trong Truyện Kiều mà đại thi hào Nguyễn Du viết cách đây mấy thế kỷ phải chăng vẫn còn tính thời sự? Thực tế cho thấy dù là tác phẩm khai thác phẩm chất nổi bật của dân tộc Việt Nam hay thể hiện những góc khuất, bi kịch chiến tranh, dù là tác phẩm phản ánh chiến tranh trực diện hay nhìn chiến tranh một cách gián tiếp qua số phận con người đều có thể làm lay động lòng người, đều có thể tạo “cơn sốt” và có sức sống lâu dài theo thời gian. Điều quan trọng là chúng ta, từ các nhà quản lý, các cơ quan nhà nước đến các nhà sáng tác, các nghệ sĩ, cần có tư duy dài hạn, phù hợp với xu thế phát triển để có thể chủ động làm ra những tác phẩm xứng tầm tái hiện cuộc trường kỳ kháng chiến vĩ đại bảo vệ Tổ quốc và tạo cho chúng cuộc sống thực sự trong xã hội. 

 

Bình luận

    Chưa có bình luận